Bùi Ngọc Tấn – Người chăn kiến

Bùi Ngọc Tấn – Người chăn kiến

Phạm Tường Vân

 

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn.

Tôi muốn gọi ông như vậy, dù đó là tên một nhân vật do chính ông tạo ra trong một truyện ngắn cùng tên.

Truyện kể về một ông giám đốc bị đi tù oan, rồi nhờ dáng vẻ trí thức, ông được một “đại bàng” giàu óc tưởng tượng và chán tṛ đấm đá tha cho trận đ̣n “nhập môn” mà đựơc trần truồng đứng làm tượng Nữ Thần Tự Do. Đóng vai này, ông thèm đựơc là một người trong cả chục người vây chung quanh phục dịch “đại bàng”, thèm đựơc như ông già chủ nhiệm hợp tác rụng hết răng móm mém ôm bọc “nội vụ” đi quanh buồng giam hát ru em bài Bé bé bằng bông. Và đặc biệt thèm đựơc chăn những con kiến trong cái ṿng tṛn bé tí vẽ bằng gạch non trên nền buồng giam, một tṛ chơi do tay “đại bàng” nghĩ ra. Cho đến ngày ông được minh oan, trở về công việc cũ. Tất cả đều ổn. Nhưng cứ vào giờ ngủ trưa, pḥng giám đốc luôn khóa trái: ông nh́n trước nh́n sau, rồi mở ngăn kéo, lôi ra hai con kiến, vẽ một cái ṿng tṛn nhốt chúng, bẻ bánh bích quy cho chúng ăn, lấy name-card chặn chúng… Rồi như sực nhớ, ông hốt hoảng cởi bỏ áo quần, leo lên bàn, mắt nh́n về phía xa, tay giơ cao kiêu hănh, trong tư thế của Nữ thần Tự do.

Cái ṿng tṛn nhỏ xíu ấy không giữ nổi hai con kiến nhưng chính là cái ṿng kim cô nhốt trọn thân phận của một con người! Bùi Ngọc Tấn không bao giờ ra khỏi câu chuyện đó, ṿng tṛn đó, v́ nó là thân phận của chính ông. Cả những con chữ của ông cũng thế, như những con cá mới đánh lên từ biển, chúng căng mọng t́nh yêu và ṛng ṛng máu đỏ, dù vừa phải đi một chặng xa, từ thập kỷ 60 thế kỷ trước đến trước thềm năm 2000. Cuộc trao đổi này diễn ra từ năm 2001, khi cuốn “Truyện kể năm 2000″ của ông vừa in xong chưa lâu đă buộc phải đi vào “lưu hành bí mật”. Toàn văn bài viết cũng chưa từng công bố.

Bùi Ngọc Tấn (BNT): Cảm ơn chị đă nhớ tới truyện ngắn đó. Tôi viết để dự thi cuộc thi truyện cực ngắn của Tạp chí Thế Giới Mới. Viết chỉ trong một ngày xong. Đinh ninh nó sẽ đựơc giải. Thế nhưng ngay cả in trên tạp chí cũng không. Sau vụ đó, tôi càng hiểu giải thưởng có ư nghĩa ǵ.

- Phạm Tường Vân (PTV): Nghĩa là từ chỗ tin tưởng vào giải thưởng, ông trở nên hoài nghi và mất hết hy vọng. Thật ra, giải thưởng có đáng cho chúng ta kỳ vọng hay thất vọng tuyệt đối vào nó hay không?

BNT: Giải thưởng của các báo, các nhà xuất bản, của Hội Nhà văn đều nhằm định hướng cho sáng tác. Các định hướng mà chúng ta đều thấy cần phải thay đổi. Thế nhưng giải thưởng nói rằng: Hăy cứ viết như vậy. Và từ đó tôi không quan tâm đến giải thưởng cũng như các sáng tác đựơc giải.

- PTV: Nhưng giải thưởng Hội Nhà văn cũng đă vài lần trao đúng địa chỉ, chẳng lẽ đó là ngoại lệ?

BNT: Những ngoại lệ hiếmhoi, đó là những năm trao giải cho các tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng, mà xuất sắc nhất là Nỗi buồn chiến tranh. Đó là cuốn tiểu thuyết làm vẻ vang cho nền tiểu chuyết Việt Nam. Nhưng thật đáng buồn, sau đó đă có cuộc vận động những người bỏ phiếu cho nó đựơc giải thưởng viết bài phản tỉnh, nghĩa là đă có định hướng lại công cuộc sáng tác. Đáng buồn hơn, đă có nhiều nhà văn trong hội đồng xét thưởng viết bài tự phê phán. Nhưng một tác phẩm văn chương đích thực không bao giờ v́ thế mà chết hay mất đi vài nấc thang giá trị. Văn chương là thế. D́m không xuống, kéo không lên. Đó cũng là một trong nhiều lư do tôi thích công việc này. Nó tồn tại bằng giá trị tự thân. Sống bằng cái ǵ ḿnh có.

- PTV: Một nhà phê b́nh văn học nhận xét: “Tiểu thuyết Việt Nam, nỗi buồn triền miên, có thể kéo dài từ năm nay sang năm khác, hết hội thảo này đến hội thảo khác”. Là tác giả của một cuốn tiểu thuyết gây chấn động năm 2000, ông nh́n nhận thế nào về thực trạng và tương lai của tiểu thuyết Việt Nam?

BNT: Tiểu thuyết nứơc ta quá ít thành tựu. Đă có quyển được tung hô, đựơc phát động đọc, được giảng dạy, đựơc bao cấp để rồi in đi in lại, nghĩa là quyết tâm hà hơi tiếp sức nhưng nó cứ chết thôi. Như tôi vừa nói, năm nào cũng có giải thưởng văn chương, giải thưởng tiểu thuyết nhưng chẳng lưu lại điều ǵ trong ḷng bạn đọc. Thời chiến tranh, làm văn học minh họa, văn học “phải đạo”, điều đó hiểu dược. Bây giờ không thể thế. Bạn đọc đă bội thực, chúng ta đă chán chúng ta. Cuối năm tổng kết thành tựu này thành tựu khác. Rồi ít lâu sau lại nói chúng ta c̣n hời hợt, chưa phản ánh đựơc cuộc sống, thời đại này là thời đại của tiểu thuyết mà không có tiểu thuyết, kêu gọi hăy viết các tác phẩm lớn ngang tầm thời đại. Và năm sau tổng kết lại có nhiều thành tựu. Để sau đó lại nói là không đọc tiểu thuyết mười năm sau cũng chẳng có vấn đề ǵ. Rồi khẳng định tiểu huyết là xương sống của một nền văn học. Và kêu gọi… Cái ṿng luẩn quẩn cứ như vậy tiếp diễn, không biết bao giờ mới thoát đựơc ra.

- PTV: Và các hội thảo vẫn cứ tiếp tục diễn ra như thể người ta thực ḷng mong có một nền tiểu thuyết tầm cỡ. Nhưng thật ra…

BNT: Vâng, hội thảo, chi tiền, mới nhà văn, nhà lư luận. Học thuật. Kinh nghiệm. Trong và ngoài nứơc. Tổng kết và rút ra rất nhiều điều. Cứ như là thực ḷng mong có tiểu thuyết hay! Cuối năm 2002, Hội Nhà văn tổ chức hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết có mời tôi. Nhưng tôikhông đi. Tôi cảm thấy hết tính chất h́nh thức của những cuộc hội thảo kiểu này. Tôi sợ ḿnh vốn trung thực, lên đấy muốn đóng góp cho thành công của hội thảo cứ nói toạc ra ra những điều ḿnh nghĩ th́ lại thành scandal, bất tiện. Ví dụ tôi sẽ hỏi: Có thật chúng ta muốn có tiểu thuyết hay, tiểu thuyết lớn hay không? Hay chỉ nói để mà nói? Nó dzậy mà không phải dzậy? Những đề dẫn, những tham luận trong các buổi hội thảo đều rất hay, rất công phu nhưng có một điều ngày thường khi trao đổi cùng nhau ai cũng coi như điều kiện tối thiểu bắt bụộc để có tiểu thuyết hay lại không hề được nhắc đến hay phân tích. Đó là Tự Do! Không có tự do làm sao có tiểu thuỵết hay được. Làm sao hội thảo về tiểu thuyết lại có A.25? Có sự giám sát của công an? Mới chỉ bàn về tiểu thuyết thôi đă không có tự do rồi. Tôi không trách hay ghét ǵ các anh công an văn hóa. Hăy nh́n các anh công an văn hóa đến dự những buổi hội họp văn chương nghệ thuật, họ mới ngượng nghịu làm sao! Tôi nói đây là nói về cơ chế. Một cơ thế tồn tại quá lâu, quá phi lư nhưng đă trở thành tự nhiên như cuộc sống. Không ai dám đúng ra tháo gỡ. Cần lưu ư rằng nhà văn là những người yêu nứơc. rất yêu nứơc. Hăy tin ở họ. Họ yêu nứơc không kém bất kỳ một người Việt Nam nào.

- PTV: Chừng nào xă hội c̣n được sắp xếp theo kiểu đó, nền văn học của một quốc gia c̣n được Hội Nhà văn “điều hành” theo kiểu đó th́ sẽ không có tiểu thuyết?

BNT: Có thể nói thế này: Tôi hoài nghi về tương lai của tiểu thuyết Việt Nam.

- PTV: Quan hệ giữa nhà văn và nhà cầm quyền thường ít khi suôn sẻ, ở bất kỳ quốc gia nào. Nhưng xin nói thật, có thể tin rằng có một cái gọi là ḷng yêu nứơc của các nhà văn, nhưng ít ai trông cậy vào bản lĩnh và ư chí của họ, bởi anh ta quá yếu ớt và yếm thế. Và như vậy, việc các nhà chức trách để mắt đến nhà văn và các hội thảo vô thưởng vô phạt của họ là một việc làm vô ích và lăng phí.

BNT: Những nhà văn đúng nghĩa thường lặng lẽ ngồi bên bàn viết, cặm cụi tháng năm hao tâm tổn trí trên từng ḍng chữ kể lại những ǵ đă làm họ xúc động và mong đựơc chia sẻ. Họ chẳng thể áp đặt đựơc ǵ đối với ai. Làm sao một người viết tiểu thuyết chân chính dù tài năng như L. Tolstoi. G. Marquez hay E. Hemingway bằng những trang viết của ḿnh lại có thể lật đổ đựơc chế độ

Tôi muốn dẫn ra đây ư kiến của M. Kundera, nhà tiểu thuyết người Pháp gốc Tiệp: “Tôi đă nh́n thấy và sống qua cái chết của tiểu thuyết, cái chết bất đắc kỳ tử của nó (bằng những cấm đoán, kiểm duyệt, bằng áp lực của ư thức hệ), trong cái thế giới mà tôi đă trải qua phần lớn cuộc đời tôi và và ngày nay người ta gọi là thế giới toàn trị(…) Tiểu thuyết không thể tương hợp được với thế giới toàn trị. Sự xung khắc này c̣n sâu sắc hơn cả xung khắc giữa một người ly khai và một kẻ thuộc bộ máy cầm quyền, giữa một con người đấu tranh cho nhân quyền và một kẻ chuyên tra tấn người, bởi v́ nó không chỉ có tính cách chính trị hay đạo đức, mà có tính cách bản thể. Điều đó có nghĩa là cái thế giới cơ sở trên chân lư duy nhất và thế giới nứơc đôi và tương đối của tiểu thuyết đựơc nhào nặn theo những cách thức hoàn toàn khác nhau…”

- PTV: Điều ǵ đáng báo động nhất trong tiểu thuyết hiện nay?

BNT: Thiếu vắng tính chân thực. Chị đă bao giờ đóng cửa một ḿnh trong buồng, đọc một cuốn tiểu thuyết nào đó mà vẫn cứ xấu hổ đỏ rừ mặt chưa?

- PTV: Chưa. V́ tôi sẽ sớm bỏ sách xuống. Có lẽ bởi tôi không có cái mặc cảm của người trong cuộc chăng?

BNT: Tôi đă bị như vậy. Xấu hổ về sự bịa đặt khiên cưỡng, uốn éo né tránh mà làm ra vẻ ta đây rất dũng cảm, rất chân thực. Hàng giả trăm phần trăm mà dám tự tin nói là hàng thật, hàng xịn. Làm sao lừa đựơc độc giả. Xấu hổ về cái ông tác giả vẫn cứ tưởng ḿnh lừa đựơc thiên hạ. Nhưng có lẽ không phải lỗi ở họ, hoặc lỗi ở họ rất ít.

Cũng cần nói thêm là chân thực không phải là chụp ảnh cuộc sống. Mà là t́m tới cội nguồn, cái gốc gác, cái động mạnh chủ của cuộc sống.

- PTV: Cuốn sách của ông được được đánh giá cao v́ tính chân thực. Tại sao ông lại chọn lối viết này trong khi nó vừa nguy hiểm vừa kém mô-đéc?

BNT: Tôi cố gắng giảm bớt t í ti sự thiếu hụt đó. Ngay từ những năm 60, tôi và bạn bè đă nói với nhau những khao khát được viết thật. Một mơ ước chính đáng và nhỏ nhoi, nhưng rất hăo huyền. Càng vô vọng khi tôi ở tù ra. Thế nhưng chị thấy đấy. Cuộc sống dù sao vẫn cứ đi lên, dù rất chậm. Dù thế nào trái đất vẫn cứ quay. Tôi không ngơi tin ở cuộc sống.

- PTV: Tại sao “Thân phận t́nh yêu” lại nh́n chiến tranh khác với tất cả các tiểu thuyết Việt Nam trước đó về chiến tranh? Bậc thầy của nghệ thuật “tô hồng”, Roman Carmen, tác giả của những thước phim tài liệu hùng tráng nhất trong lịch sử cách mạng Xô Viết, cũng có một câu nói lúc cuối đời: “Không có sự thật, chỉ có sự thật mà nhà quay phim muốn thấy”. Văn học cũng không nằm ngoài “định luật” này?

BNT: Đúng vậy. Khủng khiếp nhất là suốt bao nhiêu năm tất cả “các nhà quay phim” đều chỉ đựơc phép có một kiểu thấy duy nhất thay v́ để nhiều cách nh́n cùng tồn tại. Nhà văn Nguyên Ngọc có kể cho tôi nghe câu chuyện sau: Một vị chỉ huy mặt trận có anh lính Bảo Ninh tham gia chiến đấu sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, hỏi nhà văn Bảo Ninh: “Dạo ấy ḿnh cũng ở đấy, t́nh h́nh có như cậu viết đâu? ”. Và nhà văn Bảo Ninh trả lời: “Đấy là cuộc chiến tranh của anh. C̣n tôi viết về cuộc chiến tranh của tôi”. Bảo Ninh đă nh́n chiến tranh bằng cặp mắt của anh. Bảo Ninh dám là ḿnh, điều kiện trứơc tiên để có sáng tác hay.

- PTV: Ông có lần nhắc đến cụm từ “chất độc màu da cam” hay là từ “quán tính”? Nó chỉ trạng thái này chăng? Ông đă trở lại với sáng tác như thế nào?

BNT: Bây giờ tôi c̣n một chồng sổ tay ghi chép trong thời gian đi làm đánh cá, toàn bộ tư liệu đó phải vứt đi hết. Ngồi tù rồi mà vẫn “bắt” những chi tiết đó, vẫn nh́n cuộc sống bằng cái nh́n hiện thực xă hội chủ nghĩa. Nó ngấm vào máu ḿnh rồi, thế mới lạ.

Những con ngựi thời tôi sống thật sự đáng yêu nhưng không đáng yêu theo kiểu tôi nghĩ, họ đáng yêu theo kiểu khác. Tôi đă bỏ qua hết những mảng khác, những mảng tối của con người. Khi sực nhận ra điều ấy, tôi đau lắm.

Quả thật tôi không ngờ ḿnh sẽ viết trở lại. Viết với tư cách công dân, tư cách nhà văn hẳnhoi chứ không phải viết lăng nhăng hoặc viết chui. Năm 1986, đọc được những sáng tác như ḿnh muốn viết, tôi hiểu: thời thế văn chương đă khác. Đầu 1990, khi làn gió dân chủ, đổi mới thổi suốt từ bức tường Berlin sụp đổ đến nứơc chúng ta, tôi đă viết lại. Đầu tiên là Nguyên Hồng- Thời đă mất. Sau đó là Người ở cực bên kia, Cún. Sau Cún là Mộng du (tên đầu tiên của tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000).

Tại sao tôi chọn cách viết này ư? Tôi nghĩ ḿnh thuộc thế hệ già rồi. Đổi mới tư duy tiểu thuyết đối với tôi hơi vất vả. Tôi cũng nghĩ rằng điều cần thiết nhất đối với ḿnh lúc này là cuốn sách phải đầy sức thuyết phục, không ai nói được là nó bịa đặt. Và một nhu cầu nhỏ bé nhưng chính đáng: viết thế nào để tự bảo vệ ḿnh, tránh những đ̣n hội chợ vẫn hay xảy ra với những sáng tác có vấn đề, không loại trừ cả ṿng lao lư…

- PTV: Ông có nghĩ là ở vào thời điểm này, chúng ta mới đặt ra một khái niệm vỡ ḷng là viết thực, không dối trá, là hơi tụt hậu không?

BNT: Thế hệ chúng tôi đă sống qua những năm tháng thật sung sứơng và cũng thật đau khổ, thật hạnh phúc nhưng cũng thật bất hạnh như tôi đă tổng kết trong Một thời để mất, tập sách đầu tiên của tôi in sau 27 năm im lặng. Không thể để những năm tháng ấy rơi vào quên lăng. Thế hệ chúng tôi sắp đi qua trái đất này, tôi muốn những thế hệ sau biết đă có một lớp người sống như thế đấy. Tôi muốn nhà văn là thư kư, là người chép sử của thời đại.Phẩm chất đầu tiên của những người này phải có là sự trung thực. Cho dù có bị chê là cổ.

- PTV: Chương, đoạn nào trong cuốn tiểu thuyết làm ông ưng ư nhất?

BNT: Thật khó cho tôi. Có lẽ đó là chương viết về già Đô, chương ở sân kho hợp tác. Và nhất là chương tiếng chim “c̣n khổ”. Những tiếng chim ấy đă đóng dấu tuyệt vọng nung đỏ vào năo tôi. Mảnh sân kho hợp tác là tuổi trẻ của tôi. Và chương viết về già Đô là kết quả sức tưởng tượng của tôi.

- PTV: Nghĩa là Già Đô là nhân vật duy nhất đựơc hư cấu?

BNT: Già là kết quả tổng hợp của nhiều già khác kể cả t́nh yêu của tôi đối với một nhà thơ làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam đă chết: Tuân Nguyễn.

- PTV: Có người chê cuốn sách hơi dài?

BNT: Có thể. Nhưng Lâu đài của Kafka, Những kẻ tủi nhục của Dostoievski, Con đường xứ Flandes của Claude Simon triền miên hồi tưởng hẳn cũng dài. Tôi t́m sự hấp dẫn ở chi tiết chứ không phải ở cốt truyện ly ḱ. Đó là một điều khó. Viết gần một ngh́n trang không có cốt truyện, không kể lại đựơc là điều không đơn giản. Chị đă đọc Henri Charriere hẳn thấy Papillon có cốt truyện cực kỳ hấp dẫn v́ bản thân đời tù của Charrier là như vậy. C̣n chuyện tù Việt Nam rất đơn điệu. Anh tù 100 ngày cũng như anh tù 1000 ngày, 10000 ngày. Và điều kinh khủng nhất là không ai thổ lộ tâm sự củng nhau. Không ai tin ai, mỗi ngừơi là một ṿng tṛn khép kín. Khó viết lắm.

- PTV: Mạch truyện hiện lên qua hồi ức, có khi chồng lên, khi hoán đổi thứ tự. Phương pháp đồng hiện từ thời tiểu thuyết mới có phải là chủ ư của ông?

BNT: Tôi không tin một nhà văn nào lại có thể thành công nếu ngay trong khi viết anh ta tâm niệm định sẵn cho tác phẩm của ḿnh khuôn theo một trường phái nhất định nào. Khi viết, tôi chỉ nghĩ viết sao cho hay, cho chân thực và viết bằng trái tim ḿnh. Với tôi văn chương có hai loại: hay và không hay. Thế thôi, tôi không chạy theo các mốt. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng cách đây nửa thế kỷ rồi. Có c̣n ǵ mới nữa đâu. Tôi đồ rằng khi viết Ông già và biển cả, Hemingway không cũng không nghĩ ḿnh ḿnh sẽ viết theo ḍng hậu hiện đại hay hiện đại, hiện sinh hay phản cấu trúc. Ông viết v́ ông quá hiểu, quá yêu biển Cuba cùng những người đánh cá Cuba và thấy klhông thể không vợi bớt ḷng ḿnh, không thể không viết về họ. Tôi đoán vậy bằng kinh nghiệm của tôi và các bạn của tôi.

Khi tôi viết tôi chỉ nghĩ phải viết đúng như ḿnh thấy, đúng như ḿnh nghĩ. Giản dị, chân thực như cuộc sống. Ai dọc cũng hiểu. Quyển sách cũa tôi không phải của riêng một tầng lớp nào. Nó là của mọi người. Tôi không làm khó hiểu những điều dễ hiểu. Tôi không làm rắc rồi những điều đơn giản. Phương pháp đồng hiện chỉ nhằm chuyển tải đựơc một trong những nội dung và thông điệp của tôi: Ai đă bứơc vào nhà tù, vĩnh viễn không thoát khỏi nó. Hăy thận trọng, những ai đựơc quyền xử lư con người!

- PTV: Tôi nhớ truyện ngắn “Người chăn kiến” của ông. Ở đó, sự bám đuổi này đựơc chuyển tải một cách đặc sắc và súc tích hơn nhiều.

BNT: Nói thêm với chị rằng trứơc khi in Chuyện kể năm 2000 (CKN 2000), tôi tung ra một số truyện ngắn về đề tài này để người ta làm quen dần với món ăn mới của tôi. Như các truyện Ngừơi ở cực bên kia, Khói, Người chăn kiến, Một tối vui, Một ngày dài đằng đẵng. Người chăn kiến là một truỵên ngắn thành công nhưng không thể so sánh, Người chăn kiến gần một ngh́n từ với CKN 2000 gần 1000 trang.

Người chăn kiến là một đường cày , c̣n CKN 2000 là cả một cánh đồng.

Người chăn kiến là một hiện tượng, một lát cắt trong khi CKN 2000 là một lịch sử, một quá tŕnh.

Tôi bằng ḷng với CKN 2000. Tôi đă chạm tới cái trần của ḿnh. Tôi đă làm tṛn bổn phận.

- PTV: Bổn phận với bạn tù, với gia đ́nh, bè bạn, hay trách nhiệm công dân của người cầm bút?

BNT: Tất cả. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh đến trách nhiệm công dân.

- PTV: Nếu làm một cuộc thăm ḍ trong các phạm nhân về độ chân thực của cuốn sách, tỉ lệ sẽ là bao nhiêu?

BNT: 99%. Tôi tin là như vậy. Có thể c̣n cao hơn nữa.

- PTV: Khi vào tù và khi cầm bút nghiền ngẫm về nó, ông có nhớ tới những tác phẩm nhà tù kinh điển của văn học cách mạng Việt Nam, mà mỗi chúng tôi đều thuộc ḷng từ khi ngồi trên ghế nhà trường?

BNT: Trong CKN 2000, tôi đă để Tuấn nói với người bạn tù: Phương ơi, từ nay, không ai trong số các nhà văn cách mạng có thể độc quyền đề tài này. Chúng ta b́nh đẳng với tất cả. Từ nay, không ai có thể loè chúng ta được nữa. Nhà tù là một vật trang sức mà không phải nhà chính trị nào cũng muốn mang.

- PTV: Nhiều người ưa so sánh “Chuyện kể năm 2000” với cuốn hồi kư “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên. Và thiện cảm dành cho ông nhiều hơn v́ cuốn sách của ông có vẻ “hiền” và có cái “tôi” nhỏ bé hơn?

BNT: Ngoài sự khác biệt đặc thù của thể loại, mỗi người có một nhiệm vụ. Nhiêm vụ của anh Vũ Thư Hiên là vạch rơ, chỉ ra những hạng người nào đă đẩy cha con anh ấy vào một việc như thế. C̣n nhiệm vụ của tôi là chỉ ra toàn bộ cơ chế, trật tự nào đă đẻ ra việc này. Một cuộc đời b́nh thường, khởi đầu đầy lư tưởng, rồi bị làm cho biến dạng đi.

- PTV: Trong cái trật tự đáng sợ ấy, ông và các bạn ông đứng ở đâu?

BNT: Vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Chính tôi, gia đ́nh và bè bạn đă hăng say góp phần xây dựng và tô điểm thêm cho cái trật tự ấy.

- PTV: Tôi đọc trong những ǵ ông viết có một thông điệp khác: lời thanh minh cho một thế hệ. Những bào chữa muộn màng và đ̣i hỏi cảm thông cho sự đóng góp ít ỏi của các ông, lớp nhà văn lứa đầu của chủ nghĩa xă hội với những sản phẩm có “họ hàng” với nhau, từ tư tưởng đến h́nh thức?

BNT: Đúng vậy. Đáng buồn là các sản phẩm của chúng tôi làm ra ngày ấy đều hao hao giống nhau như chị nói. Chúng tôi c̣n trẻ nhưng đălà những Con ngựa già của chúa Trịnh

- PTV: Thành quả có thể tổng kết được của các ông đối với nền văn học nước nhà?

BNT: Ít lắm. Không đáng kể.

- PTV: Mẫu số chung nào cho thế hệ của ông? Những Mạc Lân, Nguyễn Xuân Khánh, Dương Tường…?

BNT: Thế hệ có một tuổi trẻ tuyệt vời, giàu có và cuối đời tay trắng! Thế hệ lớn lên gặp cách mạng, theo cách mạng, có kiến htức, có khát vọng, đam mê. Một thế hệ có thể làm mọi việc nhưng bị làm hỏng, và cũng góp phần làm hỏng thêm một thế hệ khác.

- PTV: Trong số đó, ai là người mất ít nhất?

BNT: Ông Dương Tường. Ông ấy mất nhiều, nhưng biết giành lại.

- PTV:5 năm đi tù- 5 năm đi thâm nhập thực tế, đă biến ông, từ một nhà văn loại hai của những công dân hạng nhất (những điển h́nh tiên tiến XHCN), sang nhà văn loại một của những công dân hạng ba (tù tội, đĩ điếm, ăn mày). Ông thấy cái giá đó đắt hay rẻ?

BNT: Không có ǵ đáng buồn hơn là làm một nhà văn hạng hai. Tôi tiêu phí đời ḿnh chỉ mong đổi lấy một trang sách chống chọi với thời gian. Nhưng chị thấy đấy, mong manh lắm Nhiều nhà văn bảo tôi lăi quá. Tôi hiểu đấy là những lời động viên khen ngợi tôi đă không gục ngă. Chứ muốn lăi như tôi có khó ǵ đâu. Đó là một chuyến “đi thực tế” bất đắc dĩ. Tất cả đều nằm ngoài ư muốn của tôi. Đó là số phận. Cuối đời mới ngộ ra đựơc một điều: Hăy chấp nhận tất cả những ǵ đến với ḿnh. Và hăy làm việc trong bất kỳ hoàn cảnh nào để không mất hết.

- PTV: Khi viết, ông chú tâm đến điều ǵ?

BNT: Lúc ngồi vào bàn viết là lúc tôi dọn ḿnh đối thoại với vô cùng, không nhằm trả lời cụ thể đối với một cá nhân, một tập thể nào, không giải quyết một nỗi bực dọc riêng tư nào. Điều tôi sợ nhất là viết ra thứ văn chương vớ vẩn làm mất thời gian của bạn đọc. Một điều tôi sợ nhất là viết nhạt. Ông Nguyên Hồng nói một câu chí lư: “Cái tội lớn nhất của cá nhà văn Việt Nam là viết nhạt”. Tôi cố gắng để không mắc tội ấy.

- PTV: Trong cuộc sống, ở tuổi bảy mươi, ông sợ nhất điều ǵ?

BNT: Sợ nhiều thứ lắm. Nhưng sợ nhất là những người gặp may mắn, đựơc số phận nuông chiều, chưa một lần nếm mùi thất bại. Họ đầy ḿnh chân lư và sẵn sàng ban phát chân lư đó cho bất kỳ ai.

- PTV: Các cấp chính quyền đối với ông thế nào?

BNT: Sau khi in CKN 2000, tôi đựơc mời lên công an nhiều lần. Nhà tôi, điện thoại của tôi bị giám sát chặt chẽ. Nhiều cuộc họp đảng cơ ở , người ta phổ biến rằng tôi là một không kẻ phản động đi tù về viết một tập sách chửi Đảng, chửi lănh tụ. Ngay tết Quư mùi gần đây thôi, ông bí thư phường tôi họp cán bộ các ngành trong phường tổng kết về tết an toàn, noi trong phường có một điềm nóng là tôi nên phải phân công trực ca ba, 24 trên 24. Qua tết không xảy ra chuyện ǵ mới thở phào. Cũng phải nói thêm: tất cả những vị đứng ra truyền đạt những nhận xét về tôi đều chưa đọc tập tiểu thuyết của tôi. Một người bạn có chân trong Đảng dự họp nói ông ta có bản photo CKN 2000, ai muốn đọc, ông ta cho mượn, nhưng chờ măi mà không ai mượn, nghe cấp trên truyền đạt lại là dủ, làm ǵ phải đọc, phải suy nghĩ, phải động năo cho mệt người. Rất may là tôi và vợ tôi đầu đă quen với những cung cách đối xử như vậy.

- PTV: Đọc những trang ông viết về Ngọc, vợ Tuấn, người ta muốn khóc. H́nh như những t́nh yêu đẹp như thế trong cuộc sống đă hoàn toàn biến mất. Ông là nhà văn hiếm hoi (may mắn?) có một t́nh yêu đẹp với… vợ ḿnh, yêu vợ được rất lâu và chưa hề ngoại t́nh?

BNT: Có hiếm hoi thật không? Cứ h́nh dung thế này, một cô gái Hà Nội bé như cái kẹo, xinh xắn, hiền dịu, mộng mơ, có cả một tương lai phơi phới và nhiều người ngấp nghé nữa chứ, chọn tôi, gắn bó chung thủy với tôi rồi mất cả đời. Ngoài t́nh yêu, tôi c̣n rất biết ơn vợ. Nhiều người đi tù, vợ lăng nhăng hay lấy chồng khác, thế là tan cửa nát nhà. Thế là con cái thành trẻ bụi đời, lại theo chân bố vào tù. Tất cả những ǵ tôi và các con tôi có đựơc hôm nay đều gắn liền với sự đóng góp của vợ tôi, một ngừơi sinh ra để sống cho ngừơi khác, v́ ngừơi khác. Giờ đây mỗi sáng quét nhà, nhặt những sợi tóc bạc của bà ấy, thấy đau. Sắp hết đời rồi, sắp đến cơi rồi. Có lẽ lại phải viết thôi. Viết về tuổi trẻ bị đánh mất. Viết về tuổi già xót xa tuổi trẻ. Về nỗi xót thương nhau trong những trái tim mệt mỏi, những mái đầu tóc bạc đang tính đếm những ngày c̣n lại…

Hanoi – Haiphong 2001 – 2002

Phạm Tường Vân

(nguồn: http://phamtuongvan.blogspot.com)

 

 

Người Chăn Kiến

Bùi Ngọc Tấn

 

Cái tay B trưởng* ấy hoặc đă chán mọi chuyện đánh đấm, hoặc có máu hài hước. Ông M vừa bị vài cú khai vị tưởng rụng quai hàm th́ hắn hét bọn đàn em vây quanh ông đang nổi cơn say đấm đá:

- Thôi.

Hắn bước tới gần ông. Nh́n. Ngắm:

- Trắng.

- ...

- Làm nghề ǵ?

Ông nuốt một bụm máu, nửa cái răng gẫy vào bụng và biết nên nói thật:

- Giám đốc.

B trưởng reo lên:

- Thảo nào. Trắng như con gái.

Rồi thật bất ngờ:

- Cho làm nữ thần Tự Do.

- ...

- Tượng nữ thần Tự Do ở bờ biển Nữu Ước. Làm giám đốc mà không biết à?

Ông thoát khỏi trận đ̣n nhập B mà chưa ai lường hết được sự ghê gớm và hậu quả của nó. Thay vào đó ông phải khoả thân leo lên bậc thang cao nhất, giáp cửa song sắt ngăn với sân xê rom **, cái sân thượng chỉ về đêm mới có lính gác. Tay ông giơ lên cao khi gói kẹo, khi quả dưa chuột ố những đồ tiếp tế của anh em tù -- để làm nữ thần Tự Do. Trần truồng trước hàng trăm con mắt, thật nhục nhă, quá sức chịu đựng đối với một người từng làm giám đốc lại đă đứng tuổi như ông. Ở trên ấy ông thèm được như ông già chủ nhiệm hợp tác xă dưới kia, chỉ phải bế bọc nội vụ đi quanh, hát ru em bài Bé bé bằng bông.

Đúng là tay B trưởng này có máu đại hài hước. Trời nóng, hắn ngồi phè phẹt giữa sàn, hét:

- Hitachi!

Gần hai chục người lập tức vây quanh hắn.

- Quạt.

Tất cả quạt. Bằng tay. Nhưng mát, bay cả tóc. Hắn lại hét:

-Panasonic.

Những người trong đội Panasonic sẵn sàng.

- Quạt.

Lại c̣n thêm:

-Tuốc năng.

Cái ṿng người Panasonic vừa quạt vừa chạy quanh hắn giống đèn kéo quân bỗng đồng loạt đổi chiều như cùng một bánh xe truyền lực.

Cô đơn khoả thân trên cao, cái nóng từ máy chàm vào người như nướng, ông M ao ước được ở trong đội quạt, nhưng ông không dám nói với ai. Ngoài những lúc đi cung hoặc học tập chính sách cải tạo, giờ chính quyền c̣n lại ông ngoan ngoăn đứng làm nữ thần Tự Do. Cho đến một ngày... Hôm ấy đi làm vệ sinh về, tay B trưởng bắt ra 4 con kiến đỏ bé xíu đựng trong cái vỏ bao thuốc lá. Hắn cầm mẩu gạch non khoanh 4 ṿng tṛn xuống nền xi măng. 12 anh tù được hắn chỉ định chia thành 3 ca chăn 4 con kiến nhỏ. Ông M không ngờ ḿnh lại mê chăn kiến đến như thế. Công việc ḱ dị ngày càng hấp dẫn ông. Nó làm ông khao khát đến bồn chồn. Cho dù đó là khổ ải. Phải giữ kiến luôn ở trong ṿng tṛn. Trong ấy có bánh bích qui, có đường, có thịt, kiến ăn nhưng không chịu ngủ, kiến vẫn ḅ t́m tổ. Phải luôn tay chặn kiến lại và không được làm sứt một cái chân của kiến. Chính những điều ấy khiến ông thèm khát. Nó sẽ giúp ông quên thời gian, quên những thiên thu tại ngoại. Hơn nữa ông quá chán tṛ cởi truồng đứng trước mặt mọi người.

Thế là một hôm ông gặp B trưởng, ch́a ra một con kiến ông vừa bắt được trong khi đi làm vệ sinh và rụt rè, ấp úng xin được chăn... B trưởng cố ḱm cơn giận. Hắn miết chết con kiến và quắc mắt, hất hàm về phía sân xê rom.

Ông hiểu. Ông lại khoả thân bước lên. Nhưng ông không được làm thần Tự Do nữa. Ông biến thành con chim. Con chim nhỏ trên cành cây cao. B trưởng đứng dưới, giả cầm súng lom khom, chui lủi, ŕnh ngắm:

- Đoàng.

Ông phải rơi từ sát mái nhà xuống. B trưởng không bằng ḷng với cách rơi giả vờ, rơi có chuẩn bị, rơi chân xuống trước ấy. Phải rơi như thật. Như bị bắn rụng thật. Hiểu chửa. Làm lại.

"Thật quá rùng rợn. Cầu mong đừng gẫy cổ, vỡ mặt, mù mắt, gẫy tay là được. Cố vượt qua. Để c̣n ra".

Ông M đă được ra. Ông được ra sau bốn tháng giam cứu. Ông được ra bởi ông không có tội. Những người gây ra vụ án oan ức của ông đă bị kỉ luật.

Người ta đă khôi phục lại cho ông tất cả. Ông lại làm giám đốc nhưng ở một xí nghiệp tận trong Nam, để ông có thể quên được những ǵ vừa trải qua. Ông cám ơn cấp trên về điều tế nhị ấy.

Cũng như mọi xí nghiệp, giờ nghỉ trưa ở đây nhiều vẻ... Uống bia. Đánh cờ tướng. Tiến lên. Làm vài séc bóng bàn. Chuyện gẫu...

Giám đốc mới không tham dự. Ăn trưa xong ông về pḥng. Các vị chức sắc cũng muốn kéo ông vào cuộc vui nhưng trả lời tiếng gơ cửa là sự im lặng.

Họ bảo nhau:

- Thôi. Để sếp ngủ.

Chẳng một ai biết sau khi gài trái cửa, giám đốc rút ngăn kéo lấy ra một lọ nhỏ, trong đựng 4 con kiến. Ông thả lũ kiến vào một ṿng tṛn bằng phấn vẽ trên bàn. Ông bẻ bánh cho chúng ăn và lấy những các-vi-dít (Có rất nhiều trong ngăn kéo ố của khách và của ông) chặn chúng lại. Thỉnh thoảng ông c̣n đặt cả ghế lên bàn làm việc. Và khoả thân trên ghế. Đứng thẳng. Mắt hướng về phía xa. Tay giơ cao. Như kiểu thần Tự Do.

23.6.1993

Bùi Ngọc Tấn

(Rút từ tập truyện ngắn: Những người rách việc, Nhà xuất bản Hà nội, 1996)

__________________

* B: buồng xà lim. B trưởng: trưởng buồng, do ban giám đốc nhà tù chỉ định trong số tù nhân, thường là một tay anh chị.