Nam Dao giới thiệu
Thăm lại nhà tù xưa
Bùi Ngọc Tấn
Sáng hôm nay, 8/11/2014, nhận được tin nhắn của anh Bùi Ngọc Tấn từ bệnh viện Việt-Tiệp Hải Pḥng. Anh đang sống những ngày rất khó khăn của một người cao tuổi (năm nay anh cũng tṛn 80 tuổi) mắc K phổi ở thời kỳ chỉ c̣n mong giảm được ít nào hay ít ấy sự đau đớn ngày đêm cắn xé cơ thể. Tin nhắn với bạn bè rằng, hôm nay là đúng 49 năm ngày anh bị bắt v́ một tội vu vơ để bắt đầu chuỗi 5 năm “cải tạo không xét xử”. Tôi điện thoại thăm anh, bảo anh có viết ǵ cho Văn Việt nhân ngày này không. Thế là anh gửi cho một đoạn hồi ức… đi thăm lại mấy trại giam và trại cải tạo sau khi ra tù đă lâu và đă nổi tiếng thế giới nhờ cuốn “Chuyện kể năm 2000” – cuốn tiểu thuyết “nhờ ơn” những trải nghiệm 5 năm ấy mà có. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Văn Việt.
Hoàng Hưng
Ảnh: Các bạn văn “nối khố” Nguyễn Xuân Khánh, Châu Diên, Dương Tường từ Hà Nội về thăm BNT đầu tháng 11/2014
… Tưởng như thế là đă thỏa măn, là được hưởng sự ưu đăi của số phận, không c̣n ao ước ǵ hơn, nhưng vẫn c̣n một khao khát âm ỉ, dai dẳng, vẫn c̣n những nơi tôi ước ao được đến. Đúng hơn, được một lần trở lại. Nhất là những đêm của tuổi già trằn trọc, những đêm chờ trời sáng, những đêm làm tổng kết cuộc đời. Một thèm muốn, một khát khao như thèm muốn khát khao được trở lại mảnh sân, góc vườn thời thơ ấu: Ao ước được trở lại những trại giam, những nhà tù tôi đă sống. Ao ước lại một lần bước qua cổng sắt đóng mở nặng nề trại giam Trần Phú, tiếng bản lề rít lên như tiếng cuộc đời bị kẹp nát, được nh́n lại dẫy xà lim biệt giam Trần Phú, nơi tôi nếm những phút giây tù ngục đầu tiên, được nh́n thấy cánh rừng già âm u hăm doạ và những rặng núi đá lởm chởm Hoành Bồ, hay đến với những thung lũng vùng đất đồi trại Vĩnh Quang (những trại 75, trại Q. trại V. trong tiểu thuyết), băm băm xới xới những luống sắn lá héo nẫu mềm rũ như luộc trong nắng hè, thứ nắng hè làm chúng tôi cũng rũ xuống như lá sắn.
Khi viết CKN 2000 tôi khao khát được trở lại đó chỉ với mục đích sống lại cảm xúc, sống lại hồi ức, sống lại chi tiết. Để tất cả ập vào tôi, chàm vào tôi, nhuộm lại tôi, để những ǵ tôi đă quên, đă “văi rơi đi” lại trở về với tôi.
Giờ đây không phải thế. Nó như một thứ bản năng. Những nơi ấy là một phần cuộc đời ḿnh, đă góp phần h́nh thành ḿnh cả về xương thịt lẫn tâm hồn, không thể thiếu, không thể tách rời. Càng về già, càng đến gần cái kết thúc tất yếu càng mong được một lần trở lại. Những nơi đă ninh nhừ quăng thời gian đẹp nhất, sung sức nhất, chín nhất của đời, một quăng thời gian để sống và thời gian để chết của tôi. Không phải quê hương, nhưng là một cơi, cơi ḿnh trải qua một kiếp. Khi ta ở đất chỉ là đất ở. Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn (1). Đất ấy cũng hóa tâm hồn hay sao mà cứ bám theo tôi, gọi tôi, rủ tôi gặp lại? Tâm hồn của những người bạn tù đă sống, đă chết, những Lỷ X́n Cắm, Phạm Văn Giăng, Đỗ Lương, Hỉn Sán rồi già Hải, già Đô, hai ông già khiến tôi có một nhân vật văn học khó quên… Đất ấy cũng mang tiếng ŕ rầm của những buổi ngày xưa vọng nói về (2), của những năm tháng tra tấn mà ḿnh nguyền rủa và giờ đây mới mong được sống lại làm sao v́ dù thế nào cũng vẫn là tuổi trẻ của ḿnh, đất ḿnh bị đầy đọa, càng bị giày xéo quằn quại dưới gót sắt chuyên chính càng bùng lên khát vọng sống khát vọng tự do, đất luyện ngục định h́nh con người ḿnh, cuộc đời ḿnh, không chỉ thế, c̣n định h́nh cuộc đời vợ con ḿnh nữa. Đất bắt rễ vào cuộc sống, vào thân thể, vào từng tế bào thần kinh từ đời nọ sang đời kia gọi là số phận.
Trong cuộc t́m lại thời gian đă mất của tuổi già, tôi không thể không nhớ đến các nhà tù. Những nơi ấy thường xuyên trở về như một ám ảnh tuyệt vọng: Làm thế nào để gặp lại nó lần nữa? Mỗi lần duyệt lại bản tổng kết cuộc đời, trong số biết bao h́nh ảnh, kỷ niệm, không bao giờ thiếu vắng những nhà tù như không bao giờ thiếu vắng những ngày thơ ấu. Những ngày thơ ấu không thể gặp lại nữa. Nhưng nhà tù, có thể gặp lại lắm chứ. Nó ở ngay đây thôi. Ngay Hải Pḥng thôi. Đi dọc sông Lấp nay là hồ Tam Bạc là thấy nó. Tường đá cao vút. Dây thép gai chạy điện. Tôi bị nhốt ở một xà lim gần bệnh viện Việt-Tiệp. Bên này đường bên kia đường. Mùi xào nấu bếp bệnh viện không chỉ thơm nhức mũi, nhức dạ dầy mà c̣n nhức tim nữa. Nó nhắc tôi cuộc sống, gia đ́nh, vợ con bố mẹ. Buổi sáng mở cửa xà lim khu biệt giam 76 đi đổ bô, nh́n những hạt mưa phơi phới rắc bụi trên những tầu lá chuối, những khóm cải cúc ven tường đọng thành những giọt tṛn trong suốt lung linh, hiểu rằng xuân vẫn sang, lại sang, đang sang, xuân năm nay tươi và c̣n tươi măi măi mà ta đang chết dần dần (3). Buổi gọi đi lấy cung, bước qua đầu hồi khu biệt giam 76, chợt thấy một cây chanh nhỏ trổ những bông hoa x̣e cánh trắng, những nụ hoa tím nhỏ, khựng lại như nhận một nhát dao giữa ngực. Đă hơn bốn mươi năm, hôm nay viết lại, nhận thêm nhát dao nữa. Ngày bất chợt gặp cây chanh nở hoa mùa xuân xà lim đầu tiên áy, bố mẹ c̣n sống, lụi cụi trong vườn, dưới gốc chanh mong con về. Hôm nay biến mất rồi, mảnh vườn, gốc chanh, bố mẹ…
Khao khát làm sao vào được sân xê rom, nơi có 5 (?) cánh cửa dẫn tới 5 (?) nhánh xà lim. Nơi vẫn qua mỗi sáng để đi đổ bô và mỗi tháng một lần ra nhận đồ tiếp tế. Mang túi đồ tiếp tế vào xà lim, lần giở gói vừng, gói thuốc lào, gói bích quy, mấy chiếc bánh ḿ mà nghĩ đến bàn tay vợ đă đặt vào những món quà này, những mối dây buộc này và đây là bao nhiêu dành dụm, bao nhiêu xót thương của bố mẹ, các anh chị, vợ con…
Hồi tưởng không bao giờ hết. Mong ước không bao giờ ngừng. Cho nên thật bất ngờ làm sao khi nhận được điện thoại của Đoàn Duy Trọng:
-Anh có muốn vào thăm lại Trần Phú không?
Tôi như không tin ở tai ḿnh:
-Em nói ǵ?
Tôi chưa một lần thổ lộ khao khát ấy của tôi với Trọng. Nên chưa hiểu ngay điều Trọng nói.
-Vào thăm lại trại giam Trần Phú ấy.
Tôi reo lên:
-Bao giờ?
-Bây giờ, anh chuẩn bị đi ngay với em.
Niềm vui quá lớn. Tất cả sắp trở thành hiện thực. Khao khát bấy lâu nay!
Trọng là con trai ông Đoàn Duy Thành, nguyên bí thư thành ủy Hải Pḥng, phó Thủ tướng chính phủ. Cả hai đều là bạn đọc của tôi.
Tôi và Trọng nói với nhau nhiều chuyện nhưng chưa bao giơ tôi thổ lộ cùng anh nguyện vọng thăm lại các nhà tù. Tuy nhiên anh vẫn hiểu.
Tôi vội thay quần áo, xuống nhà, bước ra hè phố với bao niềm vui và hồi hộp. Trọng đă ngồi trong ô tô đậu ngay trước ngơ. Đang dở nói điện thoại, anh chỉ gật đầu chào tôi. Khi tôi lên xe, anh bảo:
-Em vừa nói chuyện với tay giám thị. Nó không ở Trần Phú nữa mà đă sang bên Gốc Thị rồi. Ta sang Gốc Thị anh nhé.
Tôi hơi hẫng. Đă tưởng ḿnh được vào Trần Phú, gặp lại cái lối đi nhỏ từ khu 175 sang khu 176, gặp lại Bê Dê (Buồng D), gặp lại những bể nước khổng lồ cho tù sáng ra làm vệ sinh, giặt giũ, và cái sân rợp bóng lá bàng. Cái sân hồi c̣n giam xà lim 175 tôi đă đu người lên dóng song sắt bẻ một nan chớp cửa thông hơi, nh́n xuống sân thấy anh tù động kinh mà tôi đă viết trong CKN 2000. Ở sân này c̣n một chuyện nữa tôi chưa viết nhưng nó đă làm tôi buồn không biết bao nhiêu. Cái sân hôm ấy khác hẳn những hôm khác: Gỗ, cầu bào, phoi bào, mùn cưa đă được dọn sạch. Sân trại vắng vẻ im lặng. Không có tiếng cưa đục, tiếng tù vừa làm việc vừa nói chuyện. Một biểu hiện khác thường. Rồi nguyên nhân của sự bất thường ấy đă xuất hiện: Một tốp gần chục ông công an mặc sắc phục đang từ sân xê rom bước ra. Đi đầu là ông đại uư chánh giám thị và một người mặc thường phục. Tôi không tin ở mắt ḿnh: Nhà văn G, vị khách được đón tiếp long trọng đang đi chậm bước ở hàng đầu song song với ông đại uư, nh́n bên nọ, ngó bên kia, trong khi ông chánh giám thị đang nói và giơ tay chỉ trỏ như một hướng dẫn viên du lịch, theo sau là những ông quản giáo. Tôi hiểu nỗi xúc động của nhà văn G. Anh đang bước vào một địa hạt bí mật, một địa hạt thiêng liêng: Giam giữ và cải tạo con người. Nơi đây những người xấu xa, nguy hại cho sự nghiệp cách mạng đang trở thành những người tốt. Tôi cũng đă từng tin như vậy: Tôi đă viết trong một bản tự khai khi mới bị bắt vào Trần Phú về tính ưu việt, nhân đạo của chế độ: Đến con cái bọn bóc lột, chúng ta cũng giúp đỡ, cải tạo họ để họ trở thành những người tốt như chúng ta (!!!).
Cánh tay đu vào gióng sắt mỏi rời, nhưng không thể tụt xuống. Tôi muốn nh́n nét mặt trang trọng cao cả của đoàn người đi ngoài sân kia, nhất là vẻ xúc động của anh G. Xem cho kỹ, nghe cho kỹ rồi về viết nhé. Một Bài ca sư phạm, một Những ngọn cờ trên tháp (4) đang đợi anh viết ra, Makarenkô của Việt Nam ạ. G là người tôi quen khi tôi c̣n làm ở Hà Nội. Anh có một tập tiểu thuyết mỏng in từ cuối những năm 50, được nhiều người đọc, trở thành nổi tiếng, và càng nổi tiếng hơn khi có người kiện anh, nói rằng chính anh ta mới là tác giả. Chẳng biết ai đúng ai sai, nhưng sau đó anh chuyển về Hải Pḥng. Từ ấy không thấy anh viết lách ǵ nữa. Mà chuyên đi nói chuyện, giới thiệu các “sáng tác” người thực việc thực. Anh đă đi nhiều nơi tại Hải Pḥng đăng đàn diễn thuyết về tập “Người gác đèn biển” viết về anh hùng lao động Phùng Văn Bằng của tôi. Với tác phong cẩn thận chu đáo, anh đến báo Hải Pḥng gặp tôi, đưa tập đề cương cho tôi xem, cả một thếp giấy với những dàn ư, những bối cảnh, những chủ đề từng đoạn, những phát triển bài viết của tôi, để tôi góp ư, c̣n tôi th́ xấu hổ đỏ mặt lên v́ thứ văn chương tổ đội của ḿnh lại được một người bạn hơn tuổi coi trọng và làm việc với ḿnh cẩn thận đến thế:
-Bác ơi. Tôi hoàn toàn tín nhiệm bác. Bác cứ theo ư bác mà làm…
Những bước chân chậm răi, nét mặt trang nghiêm như đang bước trên một hành tinh khác của G tiến gần tới xà lim của tôi. Tôi vội buông tay, tụt xuống. Từ dưới nh́n lên, họ có thể thấy tôi qua nan chớp bị bẻ.
Tôi nằm xuống ván lim. Ră rời. Thế đấy. Người sống chết với văn chương th́ bị nhốt xà lim. Người không viết được, người làm chỉ điểm th́ được đón tiếp long trọng như những vị khách quư. Ngay lúc ấy tôi đă nghĩ anh bạn G làm chỉ điểm mà cách gọi nhẹ hơn là “đặc t́nh”. Khi bắt tôi, không khí khủng bố ở Hà Nội, Hải Pḥng đă lên tới cao điểm. Văn nghệ sĩ là một lũ đáng ngờ. Phải đặc biệt cảnh giác và theo dơi chặt chẽ.
Thế nhưng G lại được đón tiếp rất trọng thị. Được đến những nơi không ai có thể đến. Sự quản chế những tù nhân chưa thành án là rất ngặt nghèo, không thể vượt quá qui định, vượt qua nguyên tắc nếu không có một sự đối xử đặc biệt nào đó. Khi đi Gốc Thị với Đoàn Duy Trọng, tôi càng tin việc anh G được tới Trần Phú không thể là chuyện b́nh thường của một nhà văn đi thực tế.
Trọng lái xe đưa tôi sang trại Gốc Thị Kiến An. Đại tá chánh giám thị trại tạm giam Hải Pḥng đang ngồi cùng với một người khách là Việt kiều chờ chúng tôi ở “nhà thuỷ tạ” ngay cổng trại. Ông c̣n rất trẻ, trạc tuổi con lớn của tôi nhưng đă mang hàm đại tá. Trên xe, Trọng đă nói với tôi cái cách anh giới thiệu tôi và anh đă thực hiện đúng như vậy:
-Giới thiệu với bác: Đây là anh T, chánh giám thị trại giam Hải Pḥng. Giới thiệu với anh T: Đây là ông bác tôi mới ở quê ra.
Chúng tôi ngồi trên sàn nhà làm ngay trên mặt hồ. Trên đầu tôi, chung quanh tôi toàn phong lan là phong lan. Hàng trăm bông phong lan từ chỗ chúng tôi ngồi chạy ra phía đầu hồ nước. Những chùm hoa phong lan như những đàn bướm nối nhau nằm im lặng ngủ trong tán lá. Và những cây lộc vừng cổ thụ quư hiếm, mốt ăn chơi thời thượng, được đưa thẳng từ rừng già về đă bén rễ, đâm chồi, tỏa tán lá xanh non. Bên cạnh chúng tôi là ao cá mênh mông. Cá đớp ngay bên cạnh, cá đớp dưới sàn. Cá nổi trên mặt nước uốn lượn. Tôi khen cơ ngơi đẹp như tranh của ông giám thị mà bụng nghĩ: Không biết bao nhiêu mồ hôi của cánh phạm đă đổ để có được cảnh tiên này. Ông giám thị tươi cười:
-Tất cả những thứ này là mới có mấy năm nay thôi bác ạ, từ khi cháu về làm giám thị.
Ông kể lai lịch từng cây cổ thụ, lai lịch từng khu phong lan một cách đầy hào hứng. Ông gọi tên một người. Một anh tù bước tới đem bia đến. Nh́n dáng vẻ sợ sệt, đôi mắt luôn cụp xuống, không dám nh́n ai của anh, tôi không thể không nghĩ đến thân phận ḿnh ngày trước và cảm thấy ngượng trước sự khúm núm của anh. Nhưng sau đó lại nghĩ ngay: Anh bạn này trúng số độc đắc. Phải là con nhà. Hoặc phải rất nhiều đạn mới được làm công việc thơm như thế này. Được là tù tự giác. Được bán tự do. Không phải đi lao động theo toán. Không phải làm công việc nặng nhọc. Và chắc chắn no!
Trọng giúp tôi, đề nghị với ông giám thị cho phép “ông bác” anh được vào trong trại tham quan. Anh làm ra bộ ngây thơ: Ông bác tôi từ lúc bước chân lên xe tới đây chỉ ao ước được vào tham quan trong trại một tư…
Ông T. ôn tồn giải thích cho tôi và Trọng nghe nguyên tắc tuyệt đối không cho người không có trách nhiệm vào khu giam giữ phạm nhân. Và nói với chúng tôi về những ǵ bên trong bốn bức tường quây kín cả một khu mênh mông kia mà lâu ngày tôi chỉ c̣n nhớ là pḥng giam nào cũng có ti vi…
Tôi nói:
-Trại Gốc Thị, trước đây cứ nghe nói trại Gốc Thị Kiến An, hôm nay tôi mới được thấy.
Ông giám thị chỉ ra một gốc cây ở giữa sân được xây quây chung quanh vuông vắn, có đặt nhiều bát hương:
-Gọi là trại Gốc Thị v́ ngoài cổng trại có cây thị bác ạ. Gốc nó c̣n đấy.
Câu chuyện đang dở dang th́ có mấy phụ nữ đến, trong đó có một người đă tới nhà tôi.
-Cháu chào bác ạ.
Chị N người có công việc giao dịch với Hải Yến con gái tôi cách nay hai chục năm khi Hải Yến c̣n công tác ở Hải Pḥng, con dâu một người bạn của vợ tôi. Cứ nghe cung cách N nói chuyện với ông giám thị th́ biết rằng họ rất thân nhau. Thật lạ. Sao N lại quen biết cả những người trong cơ quan chuyên chính, không dính dáng ǵ đến việc làm kinh tế của ḿnh như ông T nhỉ. Mà lại thân mật thế. Có cái ǵ chung giữa họ đâu? Hay có cái chung mà ḿnh không biết? Có vẻ như N thuộc loại có thể quen và thân với bất kỳ ai cần thân quen. Có một số người như vậy. Quen được với tất cả.
Tôi xin phép chủ nhân đứng dậy đi tham quan phía ngoài trại giam và được ông vui vẻ đồng ư. Vẫn chỉ là những bức tường cao vút, và những bốt gác nhô lên ở những góc trại, vẫn là cánh cổng sắt khép chặt mà tôi cố nh́n vào bên trong nhưng chỉ thấy những bức tường im lặng. Tôi tần ngần nh́n ngắm gốc cây thị được xây gạch quây tṛn xung quanh, bên trên xếp kín bát hương, những chứng nhân của biết bao đau khổ chia ĺa, chết chóc.
Bỗng một hồi kẻng vang lên. Tiếng kẻng trong vắt ngân nga quen thuộc. Tôi hiểu ngay đó là kẻng ǵ. Đă tan tầm. Buổi lao động khổ sai đă chấm dứt. Tiếng kẻng đă bao lần giữa rừng sâu ră rời cả phần xác lẫn phần hồn, tôi chờ đợi nó cất lên. Để tự động viên đă vượt qua được một ngày. Và chuẩn bị đón một đêm, chuẩn bị vượt qua một đêm. Cho dù một ngày đêm qua đi chẳng có ư nghĩa ǵ với bọn tù tập trung cải tạo không án chúng tôi. Cũng giống khi viết văn trước đây, mong viết kín một tờ pơ luya dù nó mỏng dính chẳng có mấy ư nghĩa đối với một quyển tiểu thuyết, nhưng nhiều tờ pơ luya xếp lên nhau sẽ có một chiều dầy, chiều dầy ấy động viên tôi; trong tù, bọn án cao su chúng tôi cũng tự động viên: nhiều ngày đêm sẽ thành một chục ngày, nhiều chục ngày sẽ thành một trăm ngày, nhiều trăm ngày sẽ thành một ngh́n ngày, nhiều ngh́n ngày có thể sẽ thành một điều để các ông ấy bỗng nhiên nghĩ tới ḿnh: ờ cái thằng ấy tù cũng lâu rồi nhỉ…
Hôm nay tôi không chờ nữa, đă quên rồi tiếng kẻng bám vào cuộc đời ấy. Nhưng nghe tiếng kẻng tôi nhớ lại và chờ đợi. Nh́n về phía cổng trại giam chờ đợi. Và tôi đă thấy. Từ lối đi phía bên phải cổng trại, khuất sau một hàng cây, một toán người xuất hiện. Tất cả mặc quần áo kẻ sọc. Nền kinh tế của ta đă khá lên rồi! Không như chúng tôi ngày xưa nữa. Tù được mặc quần áo sọc, loại pyjama cổ điển. (Thời tôi c̣n ở xà lim Trần Phú, chỉ có Độ và những tù mang án tử h́nh mới có quần áo sọc. Ngày xử án, Độ phải cho mượn bộ cánh ấy, “trong xà lim Độ đánh độc một cái quần đùi, ngồi như một con cóc cụ”.) Một đám tôi ngày trước hết giờ lao động được về trại. Không biết họ làm ǵ. Đi lao động ngoài trại chắc là chăn nuôi trồng trọt ǵ đấy thôi. Th́ ra dáng đi của người tù thời nào, ở đâu cũng giống nhau. Họ đi hệt chúng tôi đi non nửa thế kỷ trước. Kéo lê từng bước như kéo lê cuộc sống. Lẽ ra họ phải phấn khởi mới đúng chứ. Tù Gốc Thị, tù Trần Phú là trúng số rồi! Gạo trắng nước trong. Không phải đến những nơi khỉ ho c̣ gáy, rừng thiêng nước độc. Nhà thường xuyên tiếp tế. Hẳn phải mất khá đạn mới được tù ở đây.
Tôi trở về “nhà thuỷ tạ” và nhận ở ông giám thị một thái độ khác hẳn. Không c̣n vẻ lịch sự tôn trọng của một người tiếp đón ông bác của bạn ḿnh, anh của phó thủ tướng nữa. Vẫn ngồi nguyên một chỗ, ông khinh khỉnh nh́n tôi một lượt từ đầu đến chân. Một cái nh́n giễu cợt kéo dài không che giấu, đắc thắng v́ đă lật tẩy được chân tướng một kẻ bịp bợm. Cái nh́n của người thợ săn nh́n con mồi thoát khỏi tay ḿnh, nhởn nhơ ngoài tầm súng. Rồi nhếch mép cười với một vẻ rất bề trên, nụ cười của ông chánh giám thị nh́n một kẻ từng phạm pháp, từng bị đi tù, khoảng cách giữa hai người là vời vợi ngh́n trùng:
-Bùi Ngọc Tấn…
Và gật gù:
-Chuyện kể năm 2000.
Rồi:
-Từng trải đấy.
Ngừng một lát, lại tiếp:
-Nhưng phải thay đổi tư duy đi.
Tôi hiểu rằng ḿnh đă bị lộ chân tướng. “Lộ miêu và Duy liên” như chúng tôi vẫn nói với nhau khi c̣n ở báo Tiền Phong, một cách gọi phim Rô mê ô và Giuy li ét thời mới tiếp quản. Tôi đă trở về với vị trí của tôi, trong cái nấc thang cuối cùng của xă hội. Một phó người. Hơn thế, một phó người man trá. Biết đă đặt Trọng vào một t́nh thế khó xử, tôi không dám nh́n sang anh nữa. Ông đại tá giám thị trẻ nhắc đi nhắc lại một cách rất bề trên câu: Thay đổi tư duy đi. Tôi cảm thấy ḿnh bị xúc phạm nhưng cố giữ im lặng. Đây không phải là lúc dành cho một cuộc đối thoại giữa tôi và chính quyền, giữa một kẻ bị bắt oan bị đày ải suốt đời với một người chuyên nghề chuyên chính, nhốt giam người. Thay đổi tư duy nghĩa là thay đổi cái ǵ? Nếu nội dung tư duy tôi phải thay đổi là nơi ban giám thị nhà giam làm việc và tiếp khách giờ đây đầy hoa phong lan và phạm nhân được mặc quần áo kẻ sọc th́ đúng nhưng đấy chỉ là sự thay đổi bề ngoài. C̣n bên trong nó? Rộng hơn nữa là việc thực thi luật pháp, việc thi hành án. Gần nửa thế kỷ đă qua kể từ ngày tôi bị bắt, sinh hoạt nhà tù nhất định khác trước hiểu theo cả hai nghĩa xấu hơn và tốt hơn, nhưng tôi tin chắc rằng nhà tù hôm nay vẫn là nơi giam cầm đầy đoạ làm cho con người khiếp sợ với bao điều khủng khiếp mà ai bước vào đó vĩnh viễn không thoát khỏi nó. Vẫn c̣n đó nguyên vẹn nỗi đau khổ của người bị mất tự do một cách oan ức. Vẫn c̣n đó và c̣n nhiều hơn trước sự bất b́nh đẳng trước pháp luật, sức mạnh của đồng tiền trong xét xử, giam cầm, vẫn c̣n đó sự bất công tàn bạo trong việc quất lên đời người những ngọn roi sắt chuyên chính của chế độ toàn trị… Nhưng điều làm tôi thấy bị xúc phạm không hẳn là nội dung câu nói của ông (ai mà chẳng phải đổi mới trong suy nghĩ để bắt kịp cuộc sống). Mà nằm trong cách nói đầy tự tin rằng ḿnh đă thay đổi tận gốc chế độ nhà tù, nhất là giọng nói rất mệnh lệnh, rất quản giáo, rất giám thị của ông ta. Nhưng thôi, không căi nhau ở đây. Ḿnh là khách, lại c̣n Trọng nữa. Hẳn là cái chị N có đến nhà tôi vài lần đang bia bọt cười nói trước mặt tôi đă nói với ông giám thị về tôi.
Ngay lúc ấy tôi chỉ muốn lên xe ra về nhưng c̣n Trọng. Và ḱa thức ăn đă được đưa lên. Những anh tù phục vụ cúi đầu thu cái nh́n không quá phạm vi bàn chân ḿnh. Rượu, bia đă được rót. Chúng tôi chạm cốc. Những người quanh bàn tiệc nh́n tôi như nh́n một kẻ lừa đảo đă bị vạch mặt. Tôi có cảm giác ḿnh đă ngồi nhầm chỗ mà v́ lí do nào đấy, ông chánh giám thị rộng lượng bao dung. C̣n cái cô N cùng đám phụ nữ bạn của ông giám thị th́ vẫn chuốc bia nhau rất sành điệu. Một lần nữa tôi ngạc nhiên và bất ngờ trước sự giao tiếp rộng của họ. Bởi con gái tôi không có đứa nào như vậy.
Khi lên xe ra về, rơ ràng chúng tôi đă thoát được một t́nh thế lố bịch. Trọng bảo:
-Lúc bác đi quanh sân Gốc Thị th́ cái cô quen bác cùng với tay T đi về phía đầu ao cá, rồi lại trở lại. Chứ khi em ngồi ở đấy không thấy ai nói ǵ về bác cả.
Cuộc đi thăm Trần Phú thất bại, hay nói cho đúng hơn, chỉ đạt số phần trăm kết quả rất ít.
Nhưng chuyến đi thăm trại Q. th́ vượt mong đợi. Tất cả là nhờ cô Vũ Thị Hải, người đại uư công an đă đến thăm tôi lần đầu tiên khi CKN 2000 vừa bị thu hồi tiêu huỷ cùng với hai quả dứa, một túi cam và cứ ân hận măi là bà bán hàng hết dứa nên không mua được mười quả dứa cho tôi (để đúng với số lượng dứa tôi đă tạt trong tiểu thuyết). Sau khi thăm tôi lần ấy, cô đại uư công an thường lui tới nhà tôi, vợ chồng tôi coi cô như một người em gái. Hải sinh năm 1969, bằng tuổi cậu con trai út của tôi sinh khi tôi đă vào tù. Hải thân với tôi, gọi vợ chồng tôi bằng anh chị và khi thấy mọi người ngạc nhiên, Hải cười: “Anh Tấn hỏi ḿnh mẹ em bao nhiêu tuổi, ḿnh trả lời mẹ em kém anh ba tuổi.” Rồi cười vang.
Tôi rất quư Hải. Cô đă ra khỏi ngành công an, về làm phóng viên báo Văn Nghệ Trẻ rồi phóng viên báo Nông Thôn Ngày Nay và là sát thủ của các quan tham, những chuyên gia “ăn đất”. Vụ tham ô đất Đồ Sơn bị phanh phui từng làm xôn xao dư luận của cả nước có đóng góp rất lớn của Vũ Thị Hải. Không chỉ vụ đất Đồ Sơn, c̣n vụ đất Kiến An, rồi vụ đất Quán Nam… Đất (cũng như chữ) vốn dĩ không biết nói. Đất chỉ ngậm máu, ngậm mồ hôi, đón nhận xương thịt tổ tiên cha ông chúng ta đă mở mang, khai phá. Đất thấm máu và nhận thịt xương các liệt sĩ đă giữ từng tấc đất của cha ông. Đất đời đời im lặng, và đă có biết bao quan tham mọi nơi mọi chỗ, mọi cấp mọi ngành luôn mồm ăn đất và luôn mồm rao giảng về sự thiêng liêng của Đất, về truyền thống, về mồ hôi xương máu thấm đẫm từng xăng ti mét đất đai Tổ Quốc. Năm 2005 Vũ Thị Hải là nhà báo nổi tiếng nhất trong năm và được chương tŕnh “Người đương thời” của truyền h́nh Việt Nam mời lên ghi và phát h́nh. Hàng triệu khán giả, những người chỉ đọc chị, nghe nói đến chị đă được trực tiếp nh́n chị và nghe chị trên màn ảnh nhỏ.
Tôi đă nhiều lần “khai báo” với Hải:
-Làm sao về được những nơi anh đă lang thang nhỉ? Trước khi chết thế nào anh cũng phải t́m cách trở lại những nơi ấy.
Hải hứa sẽ giúp tôi và đă thực hiện lời hứa đó.
Cuối năm 2006, một người bạn đă cho Hải mượn một chiếc xe bốn chỗ kể cả lái xe và ba chúng tôi, nghĩa là tôi, Hải và nhà thơ Vũ Thị Huyền lên đường đến trại Hoành Bồ, trại QN trong tiểu thuyết. Chúng tôi thẳng tiến về hướng Đông Bắc và dừng xe dọc đường, ăn sáng, uống cà phê đá Huyền mang theo. Tôi chỉ nhớ được một địa danh để hỏi thăm đường: Trại Đồng Vải. V́ trại đặt tại xă Đồng Vải nên c̣n có tên gọi như vậy.
Trên đường tới Đồng Vải có một cái tên quan trọng khác: Trới. H́nh như đây là huyện lỵ của Hoành Bồ. Tôi đă nghe vợ tôi nhiều lần nhắc tới địa danh này trong những lần “hồi kư cách mạng” về những chuyến lên thăm tôi. Và tôi cũng đă một lần từ Đồng Vải đến Trới, khi chúng tôi đi gánh than trong rừng đổ lên ô tô để chở về trại.
Vậy là xe chúng tôi cứ bon bon tới Trới, một địa danh khá phổ cập.
Chẳng biết cái thị trấn Trới thời tôi đi tù như thế nào nhưng bây giờ nó đă được ngói hoá, bê tông hoá, có nhà nghỉ, có khách sạn, có quán ka ra ô kê, có nhiều biển quảng cáo và nhiều xe máy, xe ô tô đi lại trên đường nhựa. Một chiếc cầu bê tông bắc ngang qua sông Trới, một ḍng sông nhỏ trôi xuôi.
Nơi đây xưa kia là bến đ̣ vợ tôi phải vượt qua mỗi lần lên trại thăm tôi. Vác chiếc xe đạp poóc ba ga nặng trĩu đồ tiếp tế, lội qua băi phù sa v́ nước ṛng, con thuyền đỗ ghếch lên mép nước măi xa, vợ tôi dưới băi, ông lái đ̣ trên thuyền cúi đỡ chiếc xe đạp lệch một bên vai nàng khi ấy mới ba mươi tuổi, đặt nằm trong ḷng thuyền, rồi sau đó nắm chặt tay vợ tôi để vợ tôi đu lên, bàn chân bết phù sa trơn loạng choạng trượt trên ván thuyền. Sang bờ bên kia. Lại lội lại vác. Mặt trời chiều đă khuất sau rừng. Trời tối dần. Ông lái đ̣ biết vợ tôi đang đến chốn nào, động viên: “Đạp nhanh không tối đấy.”
Tôi chưa đi đ̣ Trới. Chưa vượt qua sông Trới. Cái hôm đi gánh than ấy, chúng tôi được ra bờ sông Trới rửa mặt mũi chân tay. Ḍng sông vẫn như hôm nay nhưng ngày ấy với chúng tôi là bao la, là mênh mông, là vô tận. Trời. Chiều. Mây. Gió. Nước. Suốt một ngày cuốc, xúc, gánh trong rừng âm u không một gợn gió, làm việc thở ra mang tai, gánh than kéo ḿnh xuống dốc phăng phăng, thấy gốc cây bị chém vát nhọn, vẫn cứ quăng chân vào, không tránh được. Mồ hôi. Muỗi đói. Ruồi vàng… Thế rồi là ḍng sông mênh mông. Khoảng không cao rộng trời xanh choáng váng. Nh́n xuôi ḍng típ tắp chân trời. Lội trên phù sa xoai xoải. Cho nước ngập đến gối, cho sóng ôm lấy bắp chân, cho sóng vỗ quanh đùi. Cho ngón chân bấm xuống, tận hưởng cảm giác ḿnh ngâm trong nước mát, ḿnh mọc lên từ bùn đất phù sa. Chưa hết. Trên đường về trại, một đồi sim ương ương bất ngờ hiện ra. Tất cả lao vào. Vặt. Nhai. Nuốt. Vừa vặt vừa kêu: “Vàng ḅ!” Khắp đồi vang lên những tiếng ḥ reo phấn khởi “vàng ḅ!” Đúng là sim chưa chín, mới vàng ḅ.
Xe qua cầu và dừng lại. Để tôi đứng trên cầu chụp ảnh. Chụp ảnh nơi xa nhất tôi đă đi tới trong những ngày lao lư, nơi vợ tôi đă vượt qua trong những chuyến tiếp tế cho tôi. Hải, Huyền cùng chụp ảnh với tôi. Kỷ niệm của tôi cũng là kỷ niệm của hai em.
Xe lại đi. Đường nhựa mới làm rộng và phẳng. Thỉnh thoảng lại dừng lại hỏi những quán bên đường. Tất cả đều trả lời: Trại Đồng Vải vẫn c̣n (tôi chỉ lo người ta đă chuyển trại đi đâu đấy để xây dựng khu kinh tế).
Cách đây ba năm đă một lần tôi tưởng được gặp lại trại Đồng Vải. Một người bạn đă lái xe ô tô định đưa tôi về đó. Tôi đă đứng bên này cầu nh́n sang bên kia cầu Trới. Đang là mùa mưa. Bên kia cầu là bùn lầy, một con lạc đà sa xuống đó cũng biến mất tăm theo cách nói của T. Ai ma tốp (1). Hôm nay một con đường nhựa mới mở với bốn làn đường xe chạy. Tôi đă trông thấy rừng. Rừng “nhấp nhô uyển chuyển giăng hàng” gói trong ḷng nó biết bao nỗi niềm, bao tâm sự. Rừng vĩ đại im lặng không đe doạ tôi nữa mà đang chờ gặp lại tôi để chuyện cùng tôi. Rừng che bộ đội rừng vây quân thù (2). Rừng đă che tôi suốt tuổi thiếu niên, tuổi trưởng thành thời chín năm chống Pháp và rừng đă vây tôi sau đó, khi tôi mới ngoài ba mươi tuổi, thời gian sung sức nhất, thời gian đam mê sống, mỗi giọt máu trong người đều căng tràn t́nh yêu lứa đôi, t́nh yêu cuộc sống và ḷng quyết tâm thực hiện mơ ước của đời ḿnh.
Nhưng tôi vẫn chưa nhận ra rừng của tôi. Rừng để sống và rừng để chết của tôi!
Gần bốn mươi năm trước, lần đầu tiên từ Trần Phú về đây trên một thùng xe vải bạt che kín, nào nh́n thấy ǵ đâu bốn chung quanh. Chỉ có bụi đất đỏ cuộn lên phía sau xe, bám vào quần áo đầu tóc, mặt mũi. Và khi tới trại, nhận buồng, đặt nội vụ xong tôi được quẩy đôi thùng làm bằng gỗ thông ngược ra ngoài trại, xuống suối gánh nước về cho anh em rửa mặt. Thật là một đặc ân. Sau một chuyến đi dài, được ngâm chân dưới suối, rửa sạch chân tay, vốc nước suối mát lạnh lên cổ lên mặt đầy bụi mới dễ chịu làm sao. Nhưng khi gánh trên vai hai thùng nước leo ngược dốc trại, loạng choạng run bắn, nhiều lúc muốn khuỵu xuống. Ngơ ngác tự hỏi v́ sao, hai thùng nước này ḿnh vẫn gánh chạy băng băng mà không biết rằng một năm rưỡi xà lim đă làm cơ bắp gân cốt nhăo ra rồi.
Ngồi trên thùng xe phủ vải bạt không nh́n thấy chung quanh nhưng chắc chắn có một con đường đất đỏ, hai bên là cỏ may ngay dưới bánh xe lăn. Hôm gánh than gần Trới tôi đă đi và về trên con đường ấy. Khi được di lí về Trần Phú, tưởng sẽ được tha, ngồi ở thùng xe com măng ca Ru ma ni đít vuông, lại nh́n thấy những hàng cỏ may ven đường. Giờ đây tất cả là đường nhựa. Con đường nhựa này chạy đến đâu? Không thể nào từ trại tới Trới lại xa như thế. Hỏi. Dừng xe lại hỏi. Hỏi những người phá đá, xay đá ven đường. Hỏi ô tô công an biển số Hà Nội đi ngược chiều. Cuối cùng t́m thấy lối rẽ. Một lối rẽ nhỏ, b́nh thường ít ai để ư. Lộ ra con đường rất hẹp. Rải đá. Có hai vệt nhẵn dành cho người đi và xe lăn bánh. Hai bên là cỏ may. Đúng con đường ḿnh vẫn nghĩ về nó. Nhưng sao không thấy núi đá bên trái, nơi toán ḷ vôi vẫn làm việc. Ḍng suối sâu bên phải có lẽ là đây. Sao suối nhỏ thế, ḷng suối sâu và cạn thế? Đúng rồi! Đúng là ḿnh đang trở lại chốn xưa rồi! Dưới ḷng con suối cạn vắng vẻ và bẩn thỉu bỗng hiện ra hơn chục người đàn ông đang trần truồng tắm. Chỉ có thể là một toán hết thời gian lao động, tắm rửa trước khi về trại. Chỉ “chúng tôi” mới tắm ở con suối cạn tới đáy này, mới trần truồng chen chúc ở một nơi hoang vắng như vậy.
Tôi reo lên, chỉ tay xuống suối:
-Ta đây rồi!!
Và bảo hai cô bạn:
-Chính hắn đấy. Các em đừng ló mặt ra. Bọn hắn trông thấy, lên đuổi là không thoát được đâu.
Nói vậy. Để tự trấn tĩnh ḿnh. Mong ước của tôi đang thành sự thật. Bao nhiêu kỷ niệm ập đến đè lên tôi. Tôi vừa nhận ra vừa không nhận ra mảnh đất đă đầy đoạ tôi. Tất cả như một nơi hoang dại. Không có dấu vết của sự sống. Không c̣n ngọn núi đá bên này suối, nơi toán ḷ vôi vẫn xô thùng búa làm việc. Tôi bỗng nhớ đến Nguyên c̣n rất trẻ, tập trung h́nh sự, toán ḷ vôi, bị tai nạn khi nổ ḿn phá đá hỏng một bên mắt, con mắt bị lép khiến khuôn mặt anh trông mới kỳ dị làm sao. Rồi nghĩ đến Lỷ X́n Cắm, khi trên xe đưa mắt t́m cái nghĩa địa tù bên suối. Không c̣n. Nói chung chẳng c̣n ǵ cả. Cả nhà gặp mặt, nhà hạnh phúc, nơi tôi đă được gặp vợ 24 tiếng. Ḍng suối cũng sâu thế này. Hai vợ chồng tôi kẻ trước người sau, lần từng bậc xuống suối, rửa rau vo gạo. Được nh́n người vợ nhỏ bé, hiền thục và đau khổ của ḿnh chuẩn bị bữa cơm, rồi nhặt nhạnh củi nhóm lửa trong bếp, giữa rừng già, ngồi sát bên nhau, ôm nhau nghe lửa reo, chờ cơm chín, rau sôi… Hạnh phúc đơn sơ làm sao, mong manh làm sao và đau đớn biết bao!
Xe đỗ ở cuối “con đường cỏ may”. Cạnh đó là chiếc cầu bê tông gẫy. Nối với “con đường cỏ may” là con đường ṃn ven suối quanh co khuất sau rừng.
Tôi đă nhận ra! Tôi đă nhận ra tất cả! Dù đổi thay, dù đă gần bốn mươi năm, tôi đă nhận ra tất cả. Đúng. Đất này là đất của tôi. Trên đất này tôi đă từng chết trong khi sống.
Chúng tôi xuống xe. Tôi bảo Hải, Huyền:
-Chính xác đây rồi các em ạ.
Tôi đứng nh́n bao quát bốn chung quanh và khẳng định lại một lần nữa điều ḿnh đă khẳng định. Nhưng tất cả đều như nhỏ lại. Núi thấp hơn, rừng bớt thâm u hơn. Suối không c̣n là suối mà chỉ là rănh nước đầy rêu. Chúng tôi đi làm qua cái cầu xi măng này, một cái cầu xi măng cốt thép mà đổ gục xuống suối, thế đấy. Chẳng cái ǵ chịu được thời gian. Sáng sáng chúng tôi vẫn qua chiếc cầu này để đi làm. Vậy là vườn rau nơi toán tăng gia chúng tôi suốt ngày lê la nhổ cỏ, gánh nước tưới ngay bên tay trái tôi. Tôi quay ngoắt lại t́m những luống rau đă thấm bao mồ hôi của tôi. Và hoàn toàn thất vọng, Những nơi trước đây là những luống rau muống được tưới ướt đẫm chạy sóng hàng hay mênh mông rau cải chớm trổ hoa chỉ c̣n là một khu đất hoang cỏ mọc rậm rịt cằn cỗi. Ngược theo ḍng suối này lên sẽ có một chỗ ngoặt. ở đó có những tảng đá cuội lớn bắc ngang suối dẫn tới vườn trong, nơi tôi được làm chân coi vườn khi di lí về Trần Phú để được tha, nhưng rồi lại từ Trần Phú trở lại trại để rồi sống tới đáy tuyệt vọng của một kiếp người. Và con đường ṃn từ một hẻm rừng xiên chênh chếch vào con đường xe chúng tôi vừa đi qua đă có một đàn bướm vàng bay, im lặng bay mất hút trong tán lá… Tôi giảng cho hai cô bạn gái về “lư lịch” những mảnh đất chung quanh tôi, về con suối dưới chân cầu, nơi chúng tôi vẫn tắm giặt trước khi về trại. Thật không ngờ nước cạn chưa đến mắt cá chân thế này mà chúng tôi vẫn tắm được.
Bên kia cầu là sân cơ quan. Nhà mới xây to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Chúng tôi đi qua chiếc cầu gỗ mới bắc. Hải với vẻ tháo vát của một phóng viên xông xáo năng động, bước tới một buồng làm việc cửa mở rồi quay ra vẫy tôi và Vũ Thị Huyền. Đó là pḥng làm việc của ông thượng tá phó giám thị. Lời đề nghị được thăm và làm việc của Vũ Thị Hải vấp ngay phải những nguyên tắc không thể đảo ngược mà ông thượng tá đưa ra. Nhưng Hải vẫn không hề tỏ ra bối rối:
-Em biết rồi. Tức là phải được sự đồng ư trực tiếp của anh… cục trưởng C26 chứ ǵ. Chúng em cũng không có ư định làm việc ngay hôm nay. Chẳng qua là chúng em đi qua đây và vào liên hệ với anh trước thôi.
Hải giải thích về sự thông thạo của ḿnh: “Em ở báo An Ninh Hải Pḥng măi mà. Anh cho em xin số điện thoại để chuyến sau em ra th́ gọi điện báo trước…”
Trong khi Hải ghi số điện thoại của ông giám thị, tôi nói vui:
-Cố lên Hải ạ. Đừng để sểnh mất mẻ này nhé. Con cá này to đấy.
Ông thượng tá hiểu rằng tôi đang nói đến chuyện chồng con của Hải. Tất cả cùng cười. Không khí đă có vẻ thân mật, chan hoà. Khi Hải ngỏ ư được đi tham quan bên ngoài trại, ông giám thị ngần ngừ một thoáng rồi thân dẫn chúng tôi đi. Thế là tôi được bước những bước trên khu tử địa của tôi.
Cái sân khu cơ quan vẫn như trước và tôi nhận ngay ra nó khi nh́n thấy dẫy nhà làm việc cũ ở phía sau sát sườn núi. Vậy là “trại giam của tôi” ở phía bên kia, trên lưng chừng ngọn núi trước mặt kia. Nhưng sao không thấy nó? Tôi rất muốn đi về phía ấy, nhưng ông giám thị dẫn chúng tôi đi ngược ḍng suối mà bên kia suối là con đường vào trại chúng tôi vừa đi qua. Tôi biết những ǵ đă tồn tại ở phía bên ấy, chỗ nào đă từng là nhà gặp mặt, nhà hạnh phúc, chỗ nào đặt máy phát điện. Và măi tôi mới hiểu ra nơi ngổn ngang nguyên vật liệu xây dựng, đá hộc, sắt thép chúng tôi đang đặt chân lên đây là khu làm việc của các toán quản chế: mộc, rèn, may ngày trước. Giăng, Giả Phỉ, Dũng cốc, Dũng chầy, Minh ba đen, Tuất ba tai… ngày ngày tới đúng mảnh đất này.
Một cổng trại to lớn và một nhà tù với tường đá cao vút hiện ra trước mắt chúng tôi. Chúng tôi đi theo ông giám thị vào khu vực sẽ là trại giam. Một công tŕnh đang xây dựng dở dang. Đă hoàn thành một khu buồng giam, có hàng rào sắt vây quanh và trên mảnh sân nhỏ phía trong hàng rào sắt tôi thấy một đám tù nhân đang ngồi gục đầu phơi nắng.
Chúng tôi xin phép chụp bức ảnh kỷ niệm ở cửa tam quan và được ông đồng ư. Rồi chúng tôi mời ông chụp ảnh với chúng tôi. Hải nói với ông:
-Anh đă ở đây hai mươi năm rồi cơ à? Em chia buồn với anh phải chịu “án chung thân”.
Tất cả cười. Đó là một sự chia sẻ với ông, với việc đă hai mươi năm ông sống tại chốn rừng sâu heo hút này và không biết c̣n ở đến bao giờ. Nhiều “ông quản giáo” trẻ cũng đă nhận ra Vũ Thị Hải. Họ bảo Hải:
-Em nhận ra chị rồi. Trên ti vi. Trong chương tŕnh Người Đương Thời.
Điều đó tạo thêm thuận lợi cho chúng tôi. Với lại chỉ có nơi chúng tôi vừa đến (một trại giam đang trong giai đoạn xây dựng và đă có một số ít tù nhân) là quan trọng. C̣n tất cả là một con suối cạn, những cánh rừng vây quanh, và con đường độc đạo, không một bóng người, cả quản giáo lẫn tù nhân, chẳng có ǵ phải giữ ǵn, cảnh giác. Chúng tôi đi chậm hay đi nhanh, ông giám thị cũng chỉ đứng một chỗ nh́n theo. (Tôi xin được nói ngay ở đây rằng ông thượng tá phó giám thị không có một lỗi nhỏ nào trong việc để chúng tôi đi men theo bờ suối và những khu đất hoang trong trại. Hơn nữa chúng tôi có đủ giấy tờ. Không có chuyện dễ dăi mất cảnh giác ở ông thượng tá.)
Đă tới chỗ ngoẹo suối, nơi ḷng suối rộng ra, sâu hơn, cầu rửa của nhà bếp, nơi mỗi năm một lần buộc lũ trâu già chờ giết thịt đón tết. Suối cạn, rêu xanh, chiếc cầu gỗ bắc ngang suối để chúng tôi đi về không c̣n nữa, thay vào đó là một con đường đá vắt ngang như một cái đập nhỏ. Đúng là trại giam chúng tôi ở lưng chừng ngọn núi trước mặt rồi. Nhưng chỉ c̣n một cḥi gác nhô lên rất cao vượt trên tán lá rừng là cái mốc để tôi định vị. Mà rừng ở đây cũng như tất cả rừng vây quanh không c̣n là rừng đại ngàn nguyên sinh uy nghiêm tuổi tác rêu phong ẩm ướt chằng chịt dây leo gai góc hăm doạ nữa. Rừng trồng. Một mầu xanh dịu của những cây keo đă trưởng thành đều tăm tăm. Đă biến mất hoàn toàn những tán rừng xanh thẫm của cành lá cổ thụ vươn lên, nhoai ra chen nhau nhấp nhô trên nền trời. Mấy chục năm qua người ta đă đủ thời gian để triệt hạ cả một dải rừng Đông Bắc. Nhưng tôi vẫn nhận ra cái dốc cao sau trại, cái dốc cao nhất, cái dốc cuối cùng trên đường gánh phân từ nhà ḅ trở về, một bên là vực sâu, một bên là hàng rào trại giam cao vút, tiếng chân lên dốc chạy gằn từ gót dội lên mang tai, mồ hôi dính áo, Lê Bá Di đă hào phóng tặng tôi một băi phân trâu ở lưng chừng dốc bên kia.
Cái hàng rào vĩ đại quanh trại cũng không để lại dấu vết, cái hàng rào làm bằng những thân cây trồng ken sít nhau. Cũng phải thôi. Gần nửa thế kỷ rồi c̣n ǵ. Bao nhiêu thời gian. Bao nhiêu mưa nắng… Lớp tù ngày ấy đến bây giờ c̣n sống những ai. Minh Ba đen. Hỉn Sán. Cắm X́n. Vọng Kỷ Ḿnh, Chí Lồng Sếnh, Tằng Śnh Quay, Vọng Śnh Hắm… Cái nhà kho. Mảnh sân vôi trước cửa kho nung nóng không kém chảo rang, chiều tháng sáu hầm hập, mồ hôi từ cằm từ lông mày, rỏ xuống sân khô ngay. Tôi và Vọng Kỷ Ḿnh ngồi xổm nhặt những hột lạc rơi văi cho vào lồ. Kỷ Ḿnh bảo tôi:
-Đi tập trung cải tạo khó lắm a Tấn à…
Có lẽ cái đám ấy chết gần hết rồi. Trừ Giả Phỉ, Minh Ba Đen là kém tuổi, bọn tập trung chính trị (phần lớn là những người đi lính và làm việc cho Pháp) đều hơn tuổi ḿnh, chắc chẳng c̣n sống bao nhiêu. Ngay cả đám trẻ nữa. Như Đỗ Lương, như Giăng. Cũng đă chết rồi. Người chết trên biển khi vượt biên. Người chết khi ngồi ô tô đi chơi Đà Lạt… Chả biết đâu mà lường. Ḿnh c̣n sống đến bây giờ là lăi rồi.
Đến được đây một lần. Toại nguyện.
Hải bảo tôi:
-Anh cúi xuống như là rửa tay ở chỗ nhà bếp làm thịt trâu đi. Để em chụp ảnh.
-Anh nh́n về phía vườn trong để em chụp.
Tôi làm theo mọi “mệnh lệnh” của Hải rồi đứng lặng nh́n trời nh́n đất, nh́n rừng, nh́n suối. Bốn mươi năm. Cảnh xưa không c̣n, người xưa không c̣n.
Một nỗi buồn dâng lên trong tôi. Những ǵ tôi ghi xương khắc cốt và quan trọng đến thế đối với cuộc đời tôi chỉ c̣n trong suy nghĩ. Thời gian đă xoá đi tất cả. Không như ḿnh vẫn đến với nó đêm đêm.
Có lẽ tôi là người duy nhất trong số cả ngàn anh em tù ngày ấy hôm nay trở lại chốn này. Ngoài tôi, có ai biết cái nơi đă từng ngấm đắng cay đau đớn vào máu thịt ḿnh, vào từng tích tắc đời ḿnh thay đổi thế này không. Biến mất rồi rừng của tôi, buồng giam của tôi, trại tù của tôi, những bạn tù, những ông quản giáo, những ông giám thị của tôi. Biến mất rồi nơi xẩy ra cuộc chết của tôi và cuộc chết của biết bao người. Không một dấu vết c̣n lại để những người sống hôm nay biết và nhớ lấy. Gió vẫn thổi. Trời vẫn mây. Rừng vẫn xanh. Nhưng trời, mây, gió, rừng đều đă đổi thay, hơn nữa rừng gió trời mây đều không kư ức. Thời gian sẽ nuốt chửng tất cả. Những tốt đẹp và những thối nát. Những chân thành và giả dối lừa mị. Những tiếng cười đắng cay. Những hy vọng và tuyệt vọng. Thời gian đă nuốt nhiều người trong số chúng tôi và sẽ nuốt tất cả vào cái dạ dầy không đáy của nó. Mà cuộc sống của chúng tôi đáng được mọi người biết đến. Nó cần được lưu giữ trong kư ức cộng đồng như bao điều cần được lưu giữ trong kư ức dân tộc!
Thật may. Tôi cũng c̣n vớt vát được chút ít. Rất ít. Trong CKN 2000. Và mấy cái truyện ngắn. Nếu không có những trang giấy mỏng manh ấy, tất cả sẽ mất tăm.
Hy vọng nó sẽ là một cái bong bóng nhỏ cùng với nhiều bong bóng khác nổi lên trên mặt hồ tĩnh lặng của kư ức dân tộc về một thời mọi người đều có thể bị biến đổi gien.
Đứng bên cạnh tôi, Vũ Thị Hải khe khẽ.
-Em sẽ đưa anh lên Vĩnh Quang. Nhưng phải đợi đến mùa xuân…
Tôi nắm tay Hải thay lời cảm ơn.
Vĩnh Quang, một trại nữa đang chờ tôi trở lại.
(1) Thơ Chế Lan Viên
(2) Thơ Nguyễn Đ́nh Thi
(3) Tuỳ bút Phạm Văn Hạnh
(4) Những tác phẩm của Makarenko (Liên Xô cũ) viết về công cuộc cải tạo thanh thiếu niên hư hỏng