CongHocTuHoc

Vài suy nghĩ về «công học» và «tư học» [1]

Bùi Trọng Liễu

 

Lúc này, vấn đề tổ chức việc học theo trường công và trường tư vẫn đang được đặt ra ở mọi nước và vẫn thường được coi là một vấn đề tế nhị. Nh́n từ nước ngoài, vấn đề này ở Việt Nam có vẻ lại càng tế nhị và phức tạp hơn nữa. V́ vậy tôi xin được nêu một vài suy nghĩ và một số câu hỏi, mong góp phần làm sáng tỏ một phần vấn đề.

1. Trước hết, tôi có cảm tưởng là đôi khi ở một số người, có một sự lẫn lộn ở chữ «công», song song với một sự lẫn lộn ở chữ «tư». Theo định nghĩa của một cuốn từ điển, « công » là của chung. Nhưng «công» c̣n được hiểu là «do Nhà nước tổ chức», do «nhà cầm quyền tổ chức». Kèm theo đó là một sự lẫn lộn, vô t́nh hay hữu ư, giữa chữ «tư nhân» (bên ngoài tổ chức của chính quyền) và «cá nhân (chủ nghĩa)» (chú trọng quyền lợi riêng của ḿnh, đặt quyền lợi ấy trên quyền lợi của đoàn thể, xă hội).

Xét thử một thí dụ về việc học thời thượng cổ ở Trung Quốc (đối với Việt Nam là nước đồng văn): Khi chưa chế ra mực, giấy, chưa viết trên lụa, giấy, khi người ta c̣n «viết» bằng cách khắc chữ trên mai rùa hay thẻ tre, việc ghi chép, tàng trữ và di chuyển «sách» rất là phức tạp, việc học rất đắt, chỉ vua quan và con cháu họ (là những người cầm quyền và nối nghiệp cầm quyền) mới được học. Việc học lúc đó, ngoài tầm của người dân thường. Cho nên «công học» lúc đó thật ra là «quan học». Cho đến thời Xuân Thu, điều kiện thuận lợi hơn cho việc «tư nhân» mở trường dạy học, và Khổng tử (khoảng 500 năm trước Tây lịch) là người tiêu biểu nhất trong việc «tư nhân» mở trường dạy học này. «Tư học» lúc đó lại mang tính chất tích cực, bởi v́ nó đă mở việc học ra cho những người không thuộc quí tộc, nghĩa là trên nguyên tắc, đă mở ra cho những ai có thể học được; và lúc đó cũng đă có những người học tṛ nghèo.

2.  Nước ta, dưới triều Lư, năm 1075, mở khoa thi đầu tiên ; năm 1076 thành lập Quốc tử giám; một nền học vấn có qui củ được bắt đầu. Nhưng, cũng như dưới các triều đại nối tiếp sau đó, việc học mà Nhà nước tổ chức chỉ giới hạn ở một số nhỏ trường. Nói theo ngôn ngữ ngày nay : Nhà nước chỉ độc quyền tổ chức việc thi cử và phát bằng cấp, c̣n việc mở trường dạy học chủ yếu là do « tư nhân ». Các ông nghè, ông trạng, ông cử mở trường dạy học tư như Chu Văn An, Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (trừ thời gian phu tử được vua Quang Trung giao cho việc lập Sùng Chính thư viện), cũng đều là những « tư nhân » góp phần đào tạo nên những người trí thức nối tiếp nhau tham gia vào sự tiến triển của xă hội Việt Nam thuở xưa. Họ là những « tư nhân », nhưng họ không « cá nhân chủ nghĩa », mà c̣n đóng góp cho lợi ích chung.

Thời phong kiến đó, dù sao nhà cầm quyền cũng chú ư đến một mong muốn thiết tha của mọi gia đ́nh, đó là sự tự do học hành. Và mỗi lần có ngăn cấm là có tai hại cho đất nước. Một thí dụ điển h́nh là chuyện ông Đào Duy Từ. Ông Đào Duy Từ (1572-1634) quê ở Đàng Ngoài, thông minh, học rộng, nhưng v́ gia đ́nh làm nghề hát xướng nên không được đi thi. Phẫn chí v́ luật lệ khắt khe, có tài mà không được dùng, ông bèn bỏ quê, trốn vào Đàng Trong. Được chúa Nguyễn trọng dụng, ông đă bày mưu tính kế, luyện quân tuyển tướng, đắp luỹ Trường Dục và Nhật Lệ ngăn đường Nam tiến của chúa Trịnh, sau được coi là công thần khai quốc ở Đàng Trong. Có thuyết cho rằng sau khi ông bỏ đi, chúa Trịnh ân hận, cho người vào Đàng Trong dụ ông trở về, nhưng ông từ chối. Theo thuyết ấy, mấy câu thơ dưới đây là của ông, ngụ ư trả lời chúa Trịnh:

    - Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

    Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!

    - Tiếc ǵ một mớ trầu cay,

    Sao anh chẳng hỏi những ngày c̣n không.

    Bây giờ em đă có chồng...

Thời đó, trừ vài trường hợp đặc biệt như kể trên, dù khi Nhà nước chưa đủ phương tiện để trợ cấp, nguyên tắc tự do học hành vẫn tương đối được bảo đảm. Tôi muốn nhắc lại chuyện ông Bùi Xuân Trạch thuở xưa: Ông lúc trẻ, nhà nghèo, theo việc cầy cấy, lại chăm học, mang sách vừa bừa vừa học, đêm bắt đom đóm đựng vào túi để soi sách học. V́ thế nên việc làm ruộng không bỏ mà sức học ngày càng tiến. Năm 28 tuổi, ông đi thi một lần đỗ ngay tiến sĩ (năm 1478). Tương truyền hôm treo bảng, ông c̣n cầy ở ruộng, người thời đó cho thế là hay. Sau ông theo vua Lê Thánh Tông, lập nhiều công lao.

Cũng phải nói thêm là thuở xưa, tuy quan niệm thi là «thi tuyển» (tiếng Pháp gọi là concours, chủ yếu theo số chỗ, theo thứ bậc, khác với quan niệm «thi để đánh giá một mức độ hiểu biết», mà tiếng Pháp gọi phân biệt là examen), các bằng cấp đều là «bằng cấp có tên» (tiến sỹ, cử nhân, ...). Điều này cho phép người có bằng được quyền sử dụng bằng cấp của ḿnh theo luật lệ hiện hành mà đồng thời cũng chứng tỏ một sự tôn trọng của xă hội nói chung và của nhà cầm quyền nói riêng, đối với sự hiểu biết. Tôi xin kể một câu chuyện xưa để minh hoạ cho rơ ư: Ông Vũ Duy Đoán, đỗ hội nguyên tiến sĩ năm 1664, làm quan đến thượng thư thời chúa Trịnh Tạc. Vào một dịp trái ư, chúa sai băi chức đuổi về, và sai đ̣i lại sắc mệnh. Ông trả lại tất cả, duy c̣n một đạo sắc «khoa tự» (là đạo sắc ban cho lúc thi đỗ), viên quan phụng sai đ̣i măi, ông nhất định không trả, nói rằng: «Các đạo sắc kia, Chúa ban cho, tôi đă trả lại, c̣n đạo sắc khoa tự là do tài học của tôi làm nên, tôi không nộp lại». Viên quan phụng sai không dám cưỡng đ̣i.

3. Khi Tân học thay thế cho Nho học, ở Việt Nam, trường công và trường tư vẫn tồn tại song song, nhưng các gia đ́nh nói chung vẫn trọng trường công hơn trường tư, v́ cho rằng trường công «có tiếng» hơn trường tư. Thậm chí có khi bắt con cái học lại một năm, hai năm, để được vào trường công. Tuy vậy, tổ chức việc học lúc đó vẫn trên nguyên tắc là Nhà nước (kể cả Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1945, 1946 ...) độc quyền tổ chức thi cử và phát bằng cấp, và để người dân tuỳ tiện học và thi. Thời đó, vấn đề không ở chỗ được tự do học hay không, mà là ở chỗ có được nâng đỡ về tài chính để có phương tiện sống mà học hay không.

Rồi đến những năm cuối thập kỉ 50 và sau đó, việc học được tổ chức lại, có qui mô rộng, trên nguyên tắc nâng đỡ con em các tầng lớp lao động. Thời đó, không c̣n «tư học» nữa. Nhưng lại có vấn đề lư lịch, vấn đề dành chỗ cho thành phần này thành phần nọ. Rồi sau 1975, và nhất là những năm gần đây, với t́nh h́nh kinh tế khó khăn, «công học» dần dần càng không đáp ứng được sự mong đợi nữa. Nhưng câu hỏi hiện nay vẫn là: giải pháp nào là thoả đáng khi ngân quĩ nhà nước không thể bảo đảm một nền học hoàn toàn «công học» được, khi  không thể tăng ngân quĩ giáo dục đào tạo  lên tới mức cần thiết để có thể «vực» các trường công dậy và để bảo đảm điều kiện hành nghề của đội ngũ giảng dạy? Và hướng hiện tại (trường công, trường bán công và trường tư trong qui chế hiện hành) có đẻ thêm ra vấn đề ǵ khác nữa không? Những câu hỏi này lại càng đáng nêu lên trong một lúc mà đất nước muốn đổi mới và mở cửa: trong kinh tế thị trường và giao lưu quốc tế, tŕnh độ dân trí nói chung, và tŕnh độ chuyên môn kỹ thuật của các chuyên viên nói riêng, lại càng phải cao, nếu muốn giữ được quyền tự quyết, và bảo đảm tương lai cho con cháu ḿnh không rơi vào sự phụ thuộc.

Trái với một số người tưởng lầm : ở những nước phát triển, luôn luôn có sự quan tâm và can thiệp của Nhà nước vào hệ «tư học» (từ việc tài trợ và nâng đỡ những trường tư đứng đắn, tới việc kiểm tra chất lượng và ngăn chặn những tệ nạn loại mua bán bằng cấp, v.v...). Mặt khác, người ta dùng cơ sở kinh doanh để hỗ trợ cơ sở giáo dục đào tạo, chứ không dùng cơ sở giáo dục đào tạo để kinh doanh. Ở mức tiểu học và trung học, trường tư góp một phần tích cực vào công cuộc giáo dục ở một số nước, mà không gây những khó khăn nan giải, có lẽ là v́ Nhà nước biết nắm được khâu kiểm tra bằng cấp ở những mốc chủ chốt, như đặt bằng cấp ở các đợt thi hết cấp. Nhưng ở mức đại học th́ vấn đề phức tạp hơn nhiều, nhất là trong trường hợp nước ta hiện nay, khi nền kinh tế c̣n đầy khó khăn, mà «ư chí học hành» lại tụt xuống ở mức thấp. [...]

 

Chú thích: Luật «cấm con cháu gia đ́nh làm nghề hát xướng không được đi thi» thuộc đời Hồng Đức (Lê Thánh Tông). Măi đến đời Lê Dụ Tông (đầu thế kỉ 18), vợ chúa Trịnh Cương là bà Trương quốc mẫu, vốn xuất thân là ca nữ, được chúa rất yêu quí, năn nỉ xin, chúa mới băi bỏ luật lệ nói trên.

 



[1] Bài đăng trên các báo Tuần Tin Tức 10/4/1993 và Quê Hương tháng 7/1993