KiemLaiYKien

 

Kiểm lại

một số ư kiến góp về việc học [1]

Bùi Trọng Liễu

 

Tháng 4/1987, giáo sư Phan Đ́nh Diệu và tôi có viết chung một bài báo, với đầu đề là «Góp ư kiến về việc học», đăng trên báo Tổ Quốc số tháng 11/1987, rồi báo Nhân Dân đăng ngày 27/12/1987 và báo Tuổi Trẻ đăng ngày 29/11/1987. Những ư đăng trong bài đó cũng là những ư mà mỗi người chúng tôi «điều trần nội bộ» với những vị có thẩm quyền. Đă hơn 6 năm qua. Tôi muốn trích lại những điều chính phát biểu trong bài đó, và - để kiểm điểm so sánh với hiện nay - tôi xin ghi kèm theo «lời b́nh» những ǵ đă được thực hiện, những ǵ chưa đạt được, những ǵ c̣n giá trị, những ǵ đă lỗi thời. Những lời b́nh này là của riêng tôi, nhưng tôi tin rằng giáo sư Diệu cũng chia sẻ với tôi. (Dưới đây, các phần trích dẫn sẽ in bằng chữ nghiêng).

 

(Trích bài đăng năm 1987 kể trên:)

Vấn đề «đất nước phát triển, xă hội tiến bộ, cuộc sống văn minh và hạnh phúc» gắn liền với vấn đề «trí tuệ », nghĩa là gắn liền với vấn đề « học » [...].

I. Mục tiêu của việc học.

(Trích bài 1987:)

Trước hết, cần nhắc lại mấy mục tiêu của việc học:

1.- Mục tiêu thứ nhất là tạo lập một cơ sở tri thức, văn hoá cho con người và xă hội.

a/ « Học » là một đ̣i hỏi của xă hội, bởi v́ một xă hội tiến bộ chỉ có thể là tập hợp của những con người có tŕnh độ hiểu biết cao.

b/ « Học » là một nhu cầu tri thức của mỗi cá nhân: nhu cầu đó cần được đáp ứng v́ nó dựa trên quyền được hiểu biết của mỗi người.

2.- Mục tiêu thứ nh́ là việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp:

a/ Đào tạo chuyên môn nghề nghiệp để đáp ứng cho các khu vực sản xuất, kinh tế, hành chính và cho các hoạt động xă hội khác của đất nước.

b/ Cho mỗi cá nhân một (hay những) chuyên môn nghề nghiệp, để mưu cuộc sống (và để thực hiện vai tṛ của ḿnh trong chỗ đứng của ḿnh trong xă hội).

Hai mục tiêu đó tạm gọi tắt là mục tiêu « kiến thức » và mục tiêu « nghề nghiệp » quan hệ với nhau, nhưng phải được phân biệt, và không nên xem  là đồng nhất.

 

Lời b́nh (1993): Hai mục tiêu đó, ngày nay đă được chấp nhận, và trở thành b́nh thường. Nhưng nếu áp dụng vào nền đại học, tôi thiết tưởng cần nêu lại « sứ mạng » của nền đại học thời nay: truyền bá sự hiểu biết, thông tin khoa học và kỹ thuật, mở rộng văn hoá, nâng cao trí tuệ và tính độc lập suy nghĩ, hợp tác quốc tế và hoà nhập vào sự tiến triển chung của thế giới, (hoà với việc) đào tạo nghề nghiệp .

II. Vài điểm về việc học trong thời đại ngày nay.

(Trích bài 1987:)

1.- Trong sự phát triển của một nước, tŕnh độ văn hoá, khả năng học hỏi và sự hiểu biết chung của quần chúng, cũng như của lănh đạo, đóng một vai tṛ quan trọng, chứ vấn đề không chỉ phụ thuộc vào có bao nhiêu kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, vv. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, yêu cầu hiểu biết chung để trở thành một người « có văn hoá », một xă hội « có văn hoá » càng ngày càng cao [...]

2.- Không thể tách rời tŕnh độ đào tạo nghề nghiệp trong một nước ra khỏi tŕnh độ chung của thế giới: thời đại hiện nay là thời đại của trao đổi, phân công, cạnh tranh. Cần phân biệt tư tưởng « không ỷ lại » với tư tưởng sai lầm « tự cấp, tự túc » đưa đến việc đóng cửa và dàn đều ở một tŕnh độ thấp, chất lượng kém. Trong đào tạo nghề nghiệp ngày nay, cũng như trong vấn đề sản xuất, cần có lựa chọn trọng điểm, trọng tâm và bảo đảm chất lượng cao.

3.- Phải phân biệt giữa ba vấn đề : học, học vị và vị trí nghề nghiệp trong xă hội. Mặc dù ba vấn đề đó liên quan mật thiết với nhau, không thể lẫn lộn hoặc để nhập nhằng rằng cứ học là sẽ có học vị, cứ có học vị là sẽ có vị trí nghề nghiệp. Nếu không th́ học vị sẽ không đánh giá đúng tŕnh độ hiểu biết, và vị trí nghề nghiệp sẽ không tương xứng với thực lực. Và từ đó sẽ xảy ra sự hỗn loạn trong phát triển và sử dụng trí tuệ. Sự hỗn loạn đó sẽ có những hậu quả rất lâu dài, kéo theo những hỗn loạn khác trong kinh tế, luân lư, xă hội, văn hoá, vv.

 

Lời b́nh (1993): Những điểm nêu lên thời đó, ngày nay đă được coi như sự tất nhiên. Và ngôn ngữ « rào trước đón sau » cần thiết cho thời đó, ngày nay có thể làm cho người đọc mỉm cười. Nhưng cần nói thêm rằng bài chúng tôi viết từ tháng 4/1987, măi sáu tháng sau mới được đăng, có lẽ do sự quá thận trọng của một số cán bộ. Không khí hiện nay so với thời đó, đă khác nhiều. Phải chăng, đấy là bằng chứng của một sự tiến bộ?

III. Nh́n lại việc học của ta trong thời gian qua.

(Trích bài 1987:)

1.- Có ư cho rằng người Việt Nam ta vốn có truyền thống « hiếu học ». Từ xưa đến nay, hầu hết mọi gia đ́nh, dù phải thắt lưng buộc bụng, thường cố gắng cho con cháu ḿnh được học hành càng cao càng tốt, nếu không được học th́ không thoả măn. Mặt khác, quá khứ  và hiện tại cho thấy là khả năng tiếp thụ trong việc học của người Việt Nam không phải là nhỏ. Nhưng cần xem lại cách tổ chức học và cách phát huy sự hiểu biết, trong từng giai đoạn, có phù hợp với nhu cầu phát triển xă hội không.

2.- Xưa kia, từ ngày có học hành thi cử cho đến cuối thế kỉ 19, tổ tiên ta luôn luôn quan niệm vấn đề thi cử như là một biện pháp tuyển lựa một số người (quan lại) cho guồng máy hành chính nhà nước (khác với quan niệm thi cử để đánh giá một tŕnh độ kiến thức). Như vậy có nghĩa là người Việt Nam thuở xưa đă quan niệm bằng cấp dính liền với một nghề nghiệp vào « biên chế » (quan lại). Tuy nhiên, thời xưa, tuy số người đỗ ít, nhưng số người « học để đi thi » đông, cho nên phần nào tỷ số người có một tŕnh độ văn hoá so với dân số cũng không đến nỗi thấp quá. Nhưng v́ mục tiêu « kiến thức » của vấn đề « học » bị coi nhẹ, cho nên người đương thời không đủ sức để tự tạo nên sự tiến bộ cho xă hội ḿnh, mà cũng không đủ sức để tiếp thụ nổi cái mới tự bên ngoài. Những đau khổ mà dân tộc ta phải chịu đựng từ thế kỉ 19 đến một quá khứ gần đây, phải chăng cũng có phần là hậu quả của việc thiếu những kiến thức của thời đại khi cần thiết?

 

Lời b́nh (1993): Nối tiếp truyền thống của kẻ sĩ thuở xưa, chúng tôi đem gương đời trước để minh hoạ cho những ư phát biểu cho ngày nay. Tôi xin được nêu thêm hai điểm của một vấn đề: Một số người Việt Nam thường đổ lỗi cho nhà cầm quyền thế kỉ 19 (nghĩa là triều đ́nh Huế) về tội để mất nước, với lư do rằng nhà cầm quyền thời đó không biết những kỹ thuật mới của phương Tây. Tôi nghĩ hơi khác. Ngay từ đời trước đó, nhà cầm quyền đă biết, chứ không phải không biết, những thành tựu mới của phương Tây. Vài thí dụ nhỏ: việc Lê Chiêu Thống (thế kỉ 18) lúc cầm cự với Tây Sơn, dùng ống viễn kính khi ra trận (Hoàng Lê Nhất thống chí, hồi thứ 11), việc Gia Long đóng tàu chiến, đúc súng, xây thành kiểu phương Tây vv. Nhưng những sự hiểu biết đó chỉ gói trong phạm vi của mấy nhà cầm quyền, c̣n dân chúng th́ hoàn toàn ch́m đắm trong sự không biết. Đó là điểm thứ nhất. Mặt khác, nhà cầm quyền thời đó tự cho rằng ḿnh có đủ văn minh rồi (thể chế, cách trị nước, nền nếp xă hội, văn học, học vấn, vv.), chỉ thiếu một chút kỹ thuật mà thôi, cho nên các vị đó mới không nh́n nhận sự cần thiết t́m hiểu những mô h́nh xă hội, cách sống, cách làm, cách học vv... ở nơi khác. Đó là điểm thứ hai. Cho nên tôi nghĩ rằng sự thất bại của ta ở thế kỉ 19 là sự thất bại về trí tuệ, chứ không phải chỉ là sự thất bại v́ kỹ thuật thôi. Nếu rút kinh nghiệm cho ngày nay, có thể nói rằng sự học hành được tự do, dân trí cao, sự thông tin được phổ biến trong dân chúng, sự trao đổi ư kiến được bảo đảm rộng răi, chính là những « vũ khí » cần thiết để bảo vệ cho độc lập dân tộc, cho dân sinh hạnh phúc.

 

3.- (Trích bài 1987:) Những ngày đầu sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, phong trào chống nạn mù chữ đă đáp ứng được nhu cầu của thời đó, góp phần nâng tŕnh độ giác ngộ của quần chúng. Những cố gắng trong việc tổ chức việc học thời đó hẳn đă góp một phần không nhỏ vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến lần thứ nhất. Sau 1954, trong thời kỳ kiến thiết, để từ chỗ « không có » đến đào tạo để « có » (cán bộ cho mọi ngành cần thiết), rồi sau đó trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, hệ thống đại học được sắp xếp ngả theo mục tiêu nghề nghiệp và theo con số (trên nguyên tắc) phù hợp với kế hoạch nhà nước, được phân công và sử dụng theo nhu cầu. Cách tổ chức này đă đáp ứng được nhu cầu của một thời đă qua. Đó là những thành tựu của các giai đoạn đă kể trên.

4.- Ngày nay, t́nh h́nh và nhu cầu của đất nước đă thay đổi. Trong ư chí muốn phát triển, để bảo đảm và nâng cao mức sống, để đáp ứng được những đ̣i hỏi của xă hội và nguyện vọng của quần chúng, để theo kịp trào lưu tiến triển của thế giới, cách tổ chức việc học của ta cần được thay đổi. Trong cách tổ chức việc học của ta hiện nay, có một số điểm cần được xem xét lại như sau:

[...] b/ Nguyên tắc kế hoạch hoá chi li toàn bộ việc học, nguyên tắc Nhà nước bao cấp toàn bộ việc học và phân công, quan niệm học vị nặng nề, không những không đáp ứng được những nhiệm vụ thực sự của đất nước, mà c̣n có những hiệu quả tiêu cực như:

-b.1/ Hạn chế việc học [...], và tạo những bất công trong tuyển sinh.

-b.2/ Không bảo đảm được chất lượng và không nâng cao được tŕnh độ chuyên môn v́ học lực của một số học sinh, v́ Nhà nước không đủ khả năng vật chất đầu tư trang bị và bồi dưỡng cán bộ,  vv...

-b.3/ Không hợp lư trong vấn đề phân phối, sử dụng cán bộ, không đáp ứng được nhu cầu cán bộ cho địa phương.

 

Lời b́nh (1993): Về điểm b.1/ , chúng tôi muốn đặc biệt nói tới « vấn đề lư lịch » trong việc học, mà nay đă được xoá bỏ. C̣n các điểm b.2/ và b.3/ vẫn c̣n tồn tại.

 

IV. Một số đề nghị.

(Trích bài 1987:)

 Để khắc phục những thiếu sót nói trên, [...] cần có sự đổi mới cách tổ chức hệ thống học của ta. Dưới đây, chúng tôi xin nêu một số đề nghị, chủ yếu đề cập việc học ở mức đại học.

1- Nên lập hai hệ thống học (ở mức đại học và cao đẳng chuyên môn) cùng do Nhà nước quản lư:

Một hệ thống (tạm gọi là hệ thống A) tuyển sinh chặt chẽ khi vào học, với một số hạn chế sinh viên, hoàn toàn do Nhà nước trang bị và bao, và bảo đảm phân phối việc làm sau khi tốt nghiệp. Một hệ thống (tạm gọi là hệ thống B) mở rộng cho mọi người khác, miễn là có tŕnh độ học, phải trả học phí, cấp học vị khi thi đỗ, Nhà nước chỉ kiểm tra chương tŕnh học và độc quyền trong việc phát học vị, mà không bảo đảm phân phối công việc làm.

Hệ thống A chủ yếu bảo đảm được phần tối thiểu cần thiết về nhu cầu cán bộ trong biên chế của guồng máy kinh tế, sản xuất, hành chính của Nhà nước.

Hệ thống B góp phần:

a/ Giải quyết mục tiêu nâng cao tŕnh độ văn hoá chung cho cả nước, thoả măn nguyện vọng « học » của mọi người, đồng thời mang lại sự công bằng trong việc học.

b/ Cung cấp cán bộ cho mọi thành phần kinh tế, xă hội...: địa phương hay trung ương, cá thể hay quốc doanh, đồng thời là một nguồn dự trữ người có kiến thức để kịp thời hiệu chỉnh các kế hoạch nhà nước khi cần thiết.

c/  Cho  phép  nâng  cao  được  chất  lượng  chuyên  môn  nghề nghiệp của tất cả mọi thành phần trong xă hội, kể cả trong biên chế nhà nước [...]

d/ Phục hồi, mở thêm và nâng cao giá trị một số ngành học gần với « khu vực thứ ba » (dịch vụ và thông tin) như các ngành luật, kinh tế, thương mại, sinh ngữ, văn khoa, khoa học xă hội vv... Khu vực này tạo ra nguồn thu nhập ngày càng lớn, trong khung cảnh « mở cửa » làm ăn với thiên hạ vv...

 

Lời b́nh (1993): Hệ thống A và hệ thống B hiện hành trong nước không hoàn toàn giống như chúng tôi gieo ư. Nhưng đấy cũng là lẽ thường, bởi v́ môi trường thay đổi, xă hội thay đổi, th́ hệ thống giáo dục cũng phải thay đổi sao cho phù hợp. Về điểm d/, với sự đang phục hồi và đang mở thêm các ngành học liên quan đến « khu vực thứ ba » (secteur tertiaire, c̣n gọi là « khu vực dịch vụ và thương nghiệp »), trong đó có ngành quản lư, tôi nghĩ rằng cần một sự thận trọng về chất lượng cũng như về số lượng, để tránh một sự « ồ ạt » hôm nay có thể dẫn đến một sự « vỡ mộng » (désillusion) ngay mai.

 

2.- (Trích bài 1987:) Trong hướng tổ chức nói trên, đề nghị tiến tới xoá bỏ các loại « chiếu cố » trong việc tuyển sinh. Chiếu cố, nâng đỡ, từ nay chỉ ở mức tạo điều kiện vật chất (cấp học bổng), c̣n việc nhập học th́ hệ thống B đă mở rộng cho mọi người.

 

Lời b́nh (1993):  Đề cập đến các loại « chiếu cố » đây là đề cập đến vấn đề lư lịch và vấn đề ưu tiên cho một số loại người trong việc học. Đă bỏ được các loại « chiếu cố » này, là một trong những tiến bộ lớn. Nhưng hiện nay, lại xuất hiện một nguy cơ mới cần được theo dơi: đó là nguy cơ ưu tiên v́ có phương tiện tiền bạc, dẫn đến một loại bất công mới.

 

3.- (Trích bài 1987:) Các học vị là những bằng cấp chứng nhận mức độ hiểu biết của những người thi đỗ. Việc cấp học vị phải có tác dụng khoa học, chỉ cấp học vị cho những người có tŕnh độ học vấn tương xứng, chứ dứt khoát không có vấn đề chiếu cố. Mặt khác, cần xem học vị đánh giá sự hiểu biết để có thể đưa con người vào lao động, chứ không phải là một thứ huân chương, lại càng không được xem là  căn cứ vĩnh viễn để sắp xếp con người vào vị trí và chức vụ nghề nghiệp. Với quan niệm  như vậy về học vị, nên xem lại chế độ học vị « trên đại học » ở nước ta. Chúng tôi đề nghị thi hành chế độ một học vị (tiến sĩ) thay cho chế độ hai học vị (phó tiến sĩ và tiến sĩ) hiện nay.

 

Lời b́nh (1993):  Đối với tôi, cụm từ « sau (trên) đại học » là một cụm từ « không ổn », (phải dùng thời đó là một sự bất đắc dĩ) bởi v́ thông thường ở nhiều nước, mọi bằng cấp đại học đề nằm « trong » đại học, kể cả học vị tiến sĩ. Theo tôi hiểu, v́ hệ thống đào tạo của các nước xă hội chủ nghĩa mà nước ta chịu ảnh hưởng lúc đó, việc đào tạo đại học được tổ chức tuột một chặng 4 hay 5 năm rồi chứng nhận đă « tốt nghiệp đại học », và v́ hệ thống nghiên cứu (viện hàn lâm và các cơ quan phụ thuộc) rất lích kích và phức tạp, cho nên mới có khái niệm « sau đại học ». Ngày nay, ở ta đă có sự chấp nhận nguyên tắc phục hồi các bằng cấp « từng chặng » và « có tên » như cử nhân, vv... (mà tôi có góp phần khi ư khi kiến nghị thành lập Trung tâm đại học dân lập Thăng Long). Như vậy, phải chăng cụm từ « sau đại học » đă lỗi thời? [...]

 

4.- (Trích bài 1987:) Trong khung cảnh tổ chức nói trên, dần dần tiến tới việc thay thế h́nh thức « phân công công tác » (với tất cả sự tuỳ tiện đă thấy) bằng h́nh thức « tuyển lựa sử dụng » như ở các nước đă phát triển vẫn làm. H́nh thức « tuyển lựa sử dụng » trước hết là sự công khai kêu gọi rộng răi « thí sinh » nộp đơn khi có một chỗ làm, rồi dựa trên học vị để nhận đơn hay không (học vị là một thứ bảo đảm tối thiểu về tŕnh độ) rồi sau đó mới tiến hành lựa chọn hơn kém (vừa công bằng vừa tối ưu hoá được mọi mặt: dùng những người giỏi nhất, ít lăng phí trong việc đào tạo vv...). […] (Cách làm đó khác với h́nh thức thi tuyển thấp, ngưng ở mức độ thi tuyển học sinh từ trung học vào đại học, rồi sau đó sự phân công công tác hầu như là hiển nhiên, v́ vậy mà dễ tuỳ tiện).

 

Lời b́nh (1993):  Ngày nay, ư thay thế « phân công công tác » bằng « tuyển lựa sử dụng » đă được coi là chuyện tự nhiên. Nhưng « tuyển lựa sử dụng » áp dụng trong cụ thể như thế nào, c̣n là con đường dài. Nhân đây, tôi xin được đề cập đến cách tuyển lựa giáo viên, hay nói chính xác hơn, tôi muốn đề cập đến vấn đề các trường đại học sư phạm mà sự tồn tại biệt lập có lẽ là một sự trở ngại cho việc cải cách giáo dục. Phải chăng vấn đề đào tạo giáo viên có thể giải quyết được bằng cách đă kể trên (tuyển lựa từ những người đă tốt nghiệp đại học, rồi sau đó có được đào tạo thêm về phương pháp giảng dạy), bảo đảm được chất lượng cao hơn, đồng thời đỡ tốn kém và ít lăng phí về thời gian và chất xám (theo nghĩa không mất nhiều thời gian học những môn không có ích trong hằng bốn năm năm) hơn?

[...]

   

V. Kết luận.

(Trích bài 1987:) (...) Chúng tôi mong rằng, trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc học sẽ được Nhà nước và toàn dân quan tâm đầy đủ, có chính sách tích cực và được đầu tư thích đáng từ mọi nguồn xă hội.

 

Lời b́nh (1993): « Đầu tư thích đáng » th́ chưa có, nhưng « từ mọi nguồn của xă hội » th́ đă chớm nở: Nguyên tắc trường công lập, bán công, dân lập, tư lập đă được công bố, nhưng h́nh thức và qui định đă phù hợp chưa, c̣n là một vấn đề đáng được đưa ra thảo luận rộng răi.

 

Để kết luận chung, tôi nghĩ rằng phê b́nh suông th́ dễ, thực hiện một-giải-pháp-sao-cho-có-hiệu-quả th́ khó. Có người lại cho tôi là « bất cơ » (theo định nghĩa của Tư Mă Thiên, sử gia thế kỉ 2 trước Công nguyên: « bất cơ » là không biết buộc ḿnh theo tập tục, và vượt ra ngoài lề thói). Nhưng tôi không có thành kiến và tôi biết những giới hạn của ḿnh, cũng như tôi h́nh dung những khó khăn mà trong nước gặp phải: v́ thế, tôi đánh giá cao những thành tựu, nêu lên những điều không hợp lư, dè dặt trước những điều không rơ, đề nghị những giải pháp khi có thể, trong tinh thần xây dựng. Và tôi đă cố gắng viết bài này trong sự thận trọng và sự trân trọng.

 



[1] Bài đăng trong Nhân Dân Chủ Nhật 24/10/1993,  và  Tuổi Trẻ Chủ Nhật 11/1993 trích đăng phần IV