VĂN CHƯƠNG TRONG VIỄN TƯỢNG

VĂN CHƯƠNG TRONG VIỄN TƯỢNG

HẬU-SIÊU H̀NH HỌC

Bùi Văn Nam Sơn

 

 

Thế giới văn chương vừa tưởng niệm một năm ngày mất của Alain Robbe-Grillet (18.08.1922 – 18.02.2008), nhà văn, nhà biên kịch, nhà làm phim, “ông hoàng” của trào lưu tiểu thuyết mới (nouveau roman). Cùng với các tên tuổi như Nathalie Sarraute, Claude Simon, Michel Butor…, sự nghiệp văn chương của Robbe-Grillet trải dài suốt năm thập kỷ và khá đồ sộ trên nhiều lĩnh vực: tiểu thuyết, tiểu luận, phim ảnh. Từ tác phẩm đầu tay Un régicide (1949, bị nhà Gallimard từ chối và chỉ được nhà Minuit công bố vào năm 1978!), ông bắt đầu nổi tiếng với Les Gommes (1953), Le Voyeur (1955), La Jalousie (1957). Với hơn mười tiểu thuyết liên tục từ 1955 đến 2007 (trong đó đặc biệt quan trọng là quyển La Reprise năm 2001 khi ông đă 80 tuổi), ba tập luận văn vào các năm 1963, 2001, 2005, trong đó Pour un Nouveau Roman / V́ một nền tiểu thuyết mới năm 1963 có giá trị như một tuyên ngôn văn học, ba tập “hồi kư”, hơn mười bộ phim…, ông lưu lại một dấu ấn đậm nét mà “cùng với sự ra đi của ông, một phần của lịch sử trí thức và văn chương Pháp đă biến mất theo” (Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy). Tôi đặc biệt cảm kích lời đánh giá “cái quan định luận” sau đây của Hàn Lâm Viện Pháp: “hôm nay, Hàn Lâm Viện Pháp đă mất đi một trong những thành viên lừng lẫy nhất và chắc chắn cũng là thành viên ương ngạnh nhất của ḿnh” (Thông báo của Hàn Lâm Viện Pháp). Nh́n nhận ông như là “thành viên ương ngạnh nhất”, Hàn Lâm Viện đầy kiêu hănh của nước Pháp đă tỏ ra thẳng thắn, cao thượng và ưu ái đối với ông biết chừng nào! Muốn ứng khẩu chứ không chấp nhận đọc bài diễn văn soạn sẵn, thẳng thừng từ chối các thủ tục “nghi vệ” khi “nhậm chức” theo thông lệ vào năm 2004, ông “Hàn” ương ngạnh này c̣n vỗ ngực: “không phải Hàn Lâm Viện mang lại vinh dự cho tôi mà chính tôi mang lại vinh dự cho Hàn Lâm Viện!”. Ông cao ngạo v́ quá tự tin vào sự nghiệp của ḿnh khi cho rằng ngay cả những kỷ vật tầm thường nhất do ông để lại rồi cũng sẽ trở thành một phần di sản của nước Pháp. Robbe-Grillet là h́nh ảnh một kẻ du hiệp “độc bộ vơ lâm” trong thế giới văn chương, và ông đă đi đến cùng với quan niệm sáng tác của ḿnh. V́ thế, ông c̣n được gọi là một “enfant terrible” của nền văn nghệ hiện đại. Vào nửa sau của thế kỷ XX, dường như chỉ có một người khác, ở một lĩnh vực khác, - lĩnh vực khoa học luận -, mới được mang “hỗn danh” ấy mà thôi, đó là Paul K. Feyerabend (1924-1994) với tác phẩm lừng danh Against Methode / Chống lại sự cưỡng chế của phương pháp (1975). Hai “enfant terrible” tung hoành trên hai trận địa - xa mà gần -, thật sự gây chấn động hầu như là một sự “thay đổi hệ h́nh” tư duy (paradigma shift), đến nỗi từ nay người ta chỉ có thể “làm” văn chương và khoa học sau khi đă có Robbe-Grillet và Feyerabend chứ không thể như trước khi có họ, hay thậm chí, như thể không có họ.

 

Với Feyerabend, ta không cần đến giả định về một thế giới đă hoàn tất (“ready made world”) hay một thực tại nhất phiến, bởi tuyệt nhiên không hề có một hiện thực tuyệt đối tách rời với mọi hệ quy chiếu. Ông nhắc nhở ta rằng “mọi khoa học đều thoạt đầu là những “nghệ thuật” (“technai” nơi cổ Hy Lạp) trước khi chúng mất đi tính chất sáng tạo trước tính khách quan vô-ư thức. Và “cả nghệ thuật lẫn khoa học đều không biết đến những điều kiện-khung ổn định” để có thể đơn giản được quy về một mẫu số chung. “Trong nghệ thuật không có sự tiến bộ lẫn sự suy tàn mà chỉ có những h́nh thức khác nhau về phong cách. Mỗi h́nh thức phong cách là hoàn hảo một cách tự ḿnh và tuân theo những quy luật của riêng nó. Nghệ thuật là việc tạo ra những h́nh thức phong cách và lịch sử nghệ thuật là lịch sử của sự tiếp diễn ấy”([1]). Một nhận định khiến ta nhớ đến Hegel và cũng có thể áp dụng cho cả khoa học lẫn triết học, bởi ta “không thể đến gần hơn cũng như không thể cách xa hơn một thực tại trinh nguyên không được nghệ thuật hay tư tưởng đụng chạm tới”, v́ thế, “đ̣i hỏi rằng một tác phẩm nghệ thuật hay một quan điểm khoa học là đúng hay tương ứng với thực tại th́ hoặc không có nghĩa ǵ cả, hoặc chính là đ̣i hỏi rằng một tác phẩm nghệ thuật hay một lư thuyết nhất định nào đó phải phù hợp với một công tŕnh đă có hay sẽ được kiến tạo nên bởi con người”. Điều này không có nghĩa rằng thực tại của chúng ta không có thật, mà chỉ có nghĩa: “ta biết những ǵ khoa học và nghệ thuật đă đạt được, nhưng ta không biết một cách tiếp cận khác có thể đạt được những ǵ”, hay nói khác đi, ta biết rằng cách tiếp cận của ta không phải là cách tiếp cận duy nhất và tối hậu. Do đó, việc lẫn lộn một sự mô tả nhất định về thực tại với bản thân thực tại nhất định sẽ dẫn đến một bản thể học giáo điều, bởi chân lư bao giờ cũng là một chân lư nội tại, không nằm bên ngoài khuôn khổ nhận thức của khái niệm, nghĩa là, luôn bên trong ranh giới của lư tính hữu hạn. Chính ở đây, ta gặp gỡ Robbe-Grillet qua lư giải của Từ Huy: “Tự do của con người… không khác ǵ một sự  phá vỡ ảo tưởng : con người không có một tự do vô hạn; nó chỉ có tự do kết hợp các lời nói sáo ṃn của ngôn ngữ xă hội. Công việc được xem là sáng tạo của nhà văn trong thực tế chỉ là một tṛ chơi kết hợp đơn giản, là tác phẩm vô danh của kẻ thư lại. Nhưng trong giới hạn này, một cách nghịch lư, con người mất ảo tưởng ấy có thể đạt tới trạng thái tự do viên măn nhờ niềm tin vào quyền năng sáng tạo của lời nói”. Ta nhớ đến câu của Nietzsche: “Chúng ta có nghệ thuật để không phải chết v́ sự thật!”.

 

Sai lầm của chúng ta, như Nelson Goodman nhận xét, là ở chỗ đối lập giữa nghệ thuật và khoa học mà không thấy rằng cả hai song hành và bổ sung cho nhau. Tuy không có sẵn một tiêu chuẩn của chân lư, nhưng chính những “phiên bản khác nhau sẽ tạo ra những thế giới khác nhau”, miễn là chúng có khả năng thuyết phục. Sự thuyết phục của những “phiên bản” mới là khi chúng có thể trở thành những lựa chọn khác cho những niềm tin trước đây, hoặc cái mới của sự lư giải sáng tạo có thể tiếp nối những h́nh dung đă qua một cách đầy nghệ thuật([2]).

 

Nếu Feyerabend khét tiếng với khẩu hiệu “Sao cũng được!” (Anything goes!) để chống lại sự độc tôn của một phương pháp nhất định, ngăn cản sự tiến bộ, th́ Robbe-Grillet nổi tiếng với câu nói: “Nhà văn đích thực không có ǵ để nói cả. Điều đáng kể là cách nói”. Đây không phải chỉ là “một cách nói” mà là cả một quan niệm sáng tác có tham vọng đánh đổ quan niệm truyền thống về tiểu thuyết, như nhận định của Jean Ricardou về “tiểu thuyết mới”: “Tiểu thuyết không c̣n là việc viết về một cuộc phiêu lưu mà là cuộc phiêu lưu của việc viết” hay qua lư giải của Từ Huy: “Tác phẩm không nói một điều ǵ khác hơn là chính kinh nghiệm của nó, một kinh nghiệm có giới hạn, bất trắc”. “Tác phẩm không phải nằm trong những sự thật được diễn tả mà nằm ngay trong chuyển động của sự diễn tả”. V́ sao? V́ “hiện tại tự sáng tạo không ngừng, tự lặp lại, tự gấp đôi lên, tự bổ túc, tự xóa bỏ, không bao giờ chất đống để làm thành một quá khứ”. Nếu h́nh ảnh “nhân vật” hay “cốt truyện” trong tiểu thuyết truyền thống là “một quá khứ” th́ nó chỉ là “một huyền thoại, một xác ướp không hơn không kém”. V́ thế, với Robbe-Grillet, sáng tác “là một quá tŕnh tạo sinh các song bản; tác phẩm được viết ra để thăm ḍ bằng cách tạo ra các dấu vết cho tương lai, chứ không phải để t́m kiếm những dấu vết của quá khứ, chính v́ vậy, ở Robbe-Grillet không tồn tại kỷ niệm, chỉ có tái diễn. Phải làm cho quá khứ sống dậy trong hiện tại, thậm chí trong cả tương lai. Ông biến tác phẩm của ḿnh thành không gian bảo tồn và không gian sáng tạo, không gian của sự tái diễn”.

 

Sự tái diễn? “Tái diễn vận hành như là nguyên tắc tổ chức tác phẩm. Không có ǵ mới, tất cả đều lặp lại, thế giới này chỉ là một thế giới của những phân thân, ở đó ta gặp phân thân của chính ḿnh, phân thân của phân thân… cứ như thế mà lũy thừa đến n lần; sự tăng sinh này hủy bỏ sự thật và tính đích thực, tạo ra những chuỗi h́nh ảnh. Trong quá tŕnh tái diễn thường hằng của những từ xưa cũ, tự do của nhà văn tồn tại dưới dạng thức của sự kết hợp các lời nói đă có, những lời này được tái tổ chức và tạo ra những hiệu ứng hỗn mang của các tái lập. Cũng chính trong tái diễn mà các từ biểu lộ quyền lực tự làm mới của ḿnh để xây dựng những cấu trúc mới”. Như thế, “cá nhân [nhân vật] chỉ là một cái bóng và anh ta phóng xuất vô số những cái bóng cho phép nhân cách của anh ta luôn mở và luôn luôn đ̣i được khám phá. Như vậy, con người tồn tại như là những khả thể vừa hiện diện vừa vô h́nh, chứ không phải như những nhân vật thực tế và cố định”.

 

Con người tuy là “thước đo của vạn vật” (Protagoras), nhưng con người liên tục tự biến đổi chính ḿnh. V́ thế, Feyerabend, trong tư duy khoa học, dường như chia sẻ cùng một cảm thức với Robbe-Grillet trong lĩnh vực văn chương: “Thế giới thế nào th́ tôi không biết, nhưng nếu ta tiếp cận nó bằng h́nh thức thích hợp, nó sẽ bộc lộ ra bằng nhiều cách khác nhau. Tất nhiên, đó không phải là một lư thuyết theo nghĩa cũ mà là một bức tranh” (…) “Đi vào thế giới ấy, người đọc trở lại với chính ḿnh như một con người khác, trong một quan hệ khác với thế giới… giống như hai con người gặp gỡ nhau, quen biết nhau, làm bạn với nhau và rồi lại xa lạ với nhau”. Nói khác đi, “tôi không chống lại các lư thuyết mà chỉ chống lại một sự lư giải các lư thuyết theo kiểu Platon, tưởng rằng có thể nh́n ra những nét hằng cửu của vũ trụ trong những sự mô tả của ḿnh”([3]).

 

Động cơ phản-siêu h́nh học ấy cũng thấm nhuần trong Robbe-Grillet khi ông tự dịch lấy một câu nổi tiếng của Kierkegaard theo cách hiểu của ông làm đề từ cho quyển Reprise của ḿnh: “Tái diễn [Từ Huy nhấn mạnh những từ in nghiêng] và hồi tưởng là cùng một vận động, nhưng theo những hướng đối lập nhau; bởi v́ những ǵ ta hồi tưởng th́ đă hoàn tất, vậy nên đó là một tái lặp hướng về phía sau; trong khi đó, tái diễn, với nghĩa sát sao nhất, có lẽ là một hồi tưởng hướng về phía trước”. Đặt vào trong văn cảnh của cả câu trước đó, ta sẽ dễ hiểu hơn điều Kierkegaard muốn nói: “Khi những người Hy Lạp [ám chỉ Siêu h́nh học Platon] bảo rằng mọi tri thức đều là hồi tưởng [anamnesis], họ bảo rằng mọi hiện hữu đang tồn tại đều đă tồn tại, c̣n khi ta nói rằng cuộc sống là một sự tái diễn, ta nói rằng: hiện thực – đă tồn tại – th́ bây giờ mới đi vào sự hiện hữu. Nếu ta không có phạm trù “hồi tưởng” và “tái diễn”, ắt mọi sự sống sẽ giải thể thành một tiếng ồn trống rỗng, vô nghĩa”… và câu tiếp theo: … “Tái diễn là cách nh́n hiện đại. Tái diễn là sự quan tâm của siêu h́nh học và cũng chính v́ sự quan tâm ấy mà siêu h́nh học vấp ngă, thất bại”. Thật thế, siêu h́nh học chỉ làm việc với cái bản chất cố định, với những quy luật nhằm cố định hóa cái biến dịch, phải tự đặt ḿnh lên trên sự biến dịch, nhưng một khi nó quan tâm đến cái biến dịch, đến cái “ở giữa” sự có mặt hoặc vắng mặt hay “ở giữa” sự khẳng định hoặc phủ định, siêu h́nh học nhất định sẽ vấp ngă, bất lực. Feyerabend và Robbe-Grillet cô đơn nhưng không cô độc, v́ sau lưng và chung quanh họ là cả một bầu khí hậu của “tâm thức thời đại”; tâm thức hậu-siêu h́nh học, như nhận định của Gilles Deleuse: Trong tất cả nỗ lực [của cả một thời đại], cốt lơi là sự vận động. Họ muốn đưa siêu h́nh học vào vận động, vào hành động. Khác với tư duy “trung giới” của Hegel, họ muốn siêu h́nh học hành động và thực hiện những hành động trực tiếp. Không phải là một sự h́nh dung mới về vận động mà biến bản thân vận động thành việc làm, không có cái trung gian, nghĩa là, dùng những kư hiệu trực tiếp thay chỗ cho những cách diễn tả gián tiếp, tạo ra những rung chuyển, cuộn xoáy, những màn luân vũ, những bước nhảy đụng chạm trực tiếp đến tâm hồn. Robbe Grillet: “Viết là bắc một cây cầu nối liền ḿnh và ḿnh, nhưng đôi khi thay v́ kết hối hai bờ của một vực thẳm, nó lại nới rộng thêm khoảng cách”, v́ “giữa ḿnh với ḿnh không có sự trùng khít. Luôn có một khoảng cách, và chính trong khoảng cách này xuất hiện những ǵ cần được viết ra”. Viết là công việc của “người thợ thêu”, chắp vá, đan dệt một quan hệ vĩnh viễn dang dở. Và cũng v́ thế, ư nghĩ tồn sinh là lời mời gọi, mời suy nghĩ, tư duy, huy động các khả năng ảo giác, những ư nghĩ chưa hoàn thiện, thiếu chắc chắn, biến động, thay đổi, không xác định. Robbe-Grillet, như nhận xét của Từ Huy, “bỏ nghề kỹ sư v́ lời mời gọi đó, để đáp lại một tiếng gọi của một cái ǵ chưa biết rơ, chỉ dành riêng cho ông”: “chắn hẳn là tôi thuộc về kiểu nhà văn viết không phải v́ anh ta hiểu thế giới, mà trái lại, v́ không hiểu nó”.

 

Cách viết ấy thực sự đẩy người đọc vào t́nh thế “mất an toàn”! Từ Huy giải thích: “Robbe-Grillet sáng tạo một kiểu tự sự nghi vấn có khả năng tự giải phóng khỏi diễn giải, hoặc khiến cho diễn giải trở nên không có hiệu quả; từ đó, một cách nghịch lư, ông biến những ǵ được kiến tạo như một nghi vấn thành ra có tính diễn giải. Công việc diễn giải bị từ chối, bởi một nhà văn chỉ chuyên đặt câu hỏi thay v́ đi t́m kiếm hoặc đưa ra câu trả lời; công việc này hoàn toàn bị đẩy cho người diễn giải. Điều này góp phần giải thích tính chất “vô trách nhiệm” của người kể chuyện theo kiểu Robbe-Grillet”. Và “kiểu người kể chuyện nhẹ tênh này buộc độc giả phải đảm nhận trách nhiệm và vai tṛ của người diễn giải, và khiến cho việc đọc trở thành một công việc nhọc nhằn [chúng tôi nhấn mạnh]. Chính tác giả cũng rất ư thức về tính chán ngán của những cuốn sách do ông viết ra. Độc giả của Robbe-Grillet đôi khi bị dẫn tới một h́nh thức “đọc trắng” (lecture blanche)”.

 

Ta thường nghe nói đến vai tṛ “đồng sáng tạo” của người đọc, nhưng có lẽ chưa ở đâu vai tṛ này trở nên bức thiết, gay gắt và đầy thách thức như thế. Và nhà phê b́nh, nhà lư luận văn học cũng không c̣n có thể chỉ đứng ngoài để “đọc vào” tác phẩm mà cần nằm ngay trong văn bản để “đọc ra”. Tác giả, độc giả và nhà phê b́nh dường như ḥa làm một, đó là điều mới lạ nhưng thật ra không phải hoàn toàn xa lạ trong đời sống tinh thần: “Càng lúc tôi càng bị thuyết phục rằng triết học và văn học có cùng những đối tượng, tiếp tục cùng những nghiên cứu giống nhau, nhưng bằng những phương tiện khác nhau, như Clausewitz đă từng nói [“chiến tranh là chính trị bằng những phương tiện khác”]… sự trao đổi căn bản này … là một sự  qua lại, vay mượn các khái niệm đă tồn tại, đă được nghĩ ra, và về mặt lư thuyết, có thể không cần đến văn học” (Robbe-Grillet). Và tác giả của chuyên luận này xác định nhiệm vụ của ḿnh: “Công việc của chúng tôi ở đây là cố gắng chỉ ra cái mà Robbe-Grillet gọi là “cùng những đối tượng”, “cùng những nghiên cứu như nhau”, những ǵ nằm trong vùng giao thoa giữa sáng tạo hư cấu và sáng tạo khái niệm, v́ G. Deleuse định nghĩa triết học như là hành động sáng tạo các khái niệm”.

 

Trong tinh thần ấy, chuyên luận sau đây không phải là một tập sách “giới thiệu hay t́m hiểu tác giả, tác phẩm” theo cách hiểu thông thường mà thật sự là một “nỗ lực khái niệm” (“Anstrengung des Begriffs”, theo cách nói của Hegel), một công tŕnh suy tưởng cùng với Robbe-Grillet trong “vùng giao thoa”, để nhận ra chiều sâu tồn tại ngay trong sự diễn giải và trong chính bản thân tác phẩm cần diễn giải. Hay nói khác đi, là một cái “đối ứng” cần thiết và tất yếu.

 

Tôi được làm quen với Từ Huy, tác giả chuyên luận, ba năm trước đây, vào một chiều nắng đẹp ở Paris, khi cô vừa “chân ướt chân ráo” từ Đại học Sư phạm Hà Nội sang Pháp làm luận án. Trong không khí thân t́nh và sôi nổi khi trao đổi về các dự định nghiên cứu, ḷng tôi không khỏi thoảng chút ái ngại. Giữa một Paris mênh mông, xa lạ, cuộc sống của một nữ nghiên cứu sinh nước ngoài thật không dễ dàng, chưa nói đến đề tài nghiên cứu đầy áp lực về một tác giả vốn không hề dễ đọc ngay cả với độc giả Pháp với cả một “hậu cảnh” triết học dày đặc và rối mù của những Nietzsche, Kierkegaard, Heidegger, Sartre, Deleuse, Gadamer… Nhưng, nh́n vào ánh mắt cương nghị của “cô Đồ Nghệ” dễ mến, tôi tin rằng cô sẽ “vượt qua”. Và hôm nay, chỉ ba năm sau, một luận án dày dặn, sâu sắc được viết bằng một thứ tiếng Pháp trang trọng, chải chuốt và một bản tiếng Việt tự cô dịch ra cho người đồng hương cùng thưởng thức đă ra đời! Tôi muốn chép lại ở đây một nhận định của Từ Huy về Robbe-Grillet: “Bằng các tác phẩm của ḿnh, Robbe-Grillet tạo ra sự tái diễn chứ không phải tái lặp, ông tin là như vậy. Sự khác biệt giữa chúng là sự khác biệt giữa quá khứ và tương lai, giữa bất động và chuyển động, giữa giống và khác, giữa bắt chước và sáng tạo (...) Một cách nghịch lư, với sức mạnh hạn chế của nó, tái diễn là một quyền năng giúp nhà văn đạt tới tự do trọn vẹn. Ư chí tái diễn của nhà văn cho thấy ông “đă chín muồi trong sự nghiêm túc”, như Kierkegaard đă nói”. Tôi xin phép mượn cụm từ đẹp đẽ ấy của Kierkegaard để chúc mừng và chia sẻ niềm vui thành công đáng trân trọng của Từ Huy.

 

 

BVNS

01.06.2009

 



([1]) P. K. Feyerabend, Khoa học như là Nghệ thuật, Frankfurt / M, 1984, tr. 29.

([2]) Nelson Goodman, Các phương cách sản sinh thế giới, Frankfurt / M 1984.

([3]) P. K. Feyerabend, Về sự nhận thức, Hai đối thoại, Frankfurt / M 1995, tr. 151.