CaoXuanHaoTieuSu

 

Cao Xuân Hạo

Tiểu sử

Soạn: AM 677855 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Giáo sư Cao Xuân Hạo sinh năm 1930 tại Huế, thân phụ là Cao Xuân Huy. Từ nhỏ, ông đă nổi tiếng với giai thoại tự học nghe, nói và viết thành thạo tiếng Pháp chỉ từ việc chơi với một người bạn Pháp. Ông từng làm giảng viên ngôn ngữ học, khi đó ông đảm nhận phần lớn công việc dịch sách và hiệu đính các sách dịch tại bộ môn ngôn ngữ học, tại Đại học tổng hợp Hà Nội. Ông từng là thành viên của Hội nhà văn Việt Nam. Tuy nổi tiếng như một nhà ngôn ngữ học, dịch giả, ông c̣n nổi tiếng như một nhà văn. Năm 1985 giáo sư Cao Xuân Hạo đă được trao tặng giải thưởng về dịch thuật 1985 của Hội nhà văn Việt Nam.

Giáo sư Cao Xuân Hạo từ trần lúc 19h40' ngày 16 tháng 10 năm 2007 tại bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh sau hai tuần nằm bệnh từ một cơn đột quỵ.

  Những đóng góp ngôn ngữ học và dịch thuật

  Tác phẩm dịch đă xuất bản

·                                                                           Người con gái viên đại uư (truyện 1959)

·                                                                           Chiến tranh và ḥa b́nh (tiểu thuyết 1962)

·                                                                           Chuyện núi đồi và thảo nguyên (truyện ngắn 1963)

·                                                                           Trên những nẻo đường chiến tranh (tiểu thuyết 1964)

·                                                                           Truyện ngắn Goócki (1966)

·                                                                           Con đường đau khổ (tiểu thuyết 1973)

·                                                                           Tội ác và trừng phạt (tiểu thuyết 1983)

·                                                                           Đèn không hắt bóng (1986)

·                                                                           Papillon (1988)

·                                                                           Khải hoàn môn (1988)

·                                                                           Nô Tỳ Isaura (tiểu thuyết 19??)

  Sách đă xuất bản

·              (1985) Phonologie et linéarité : réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine,  Hội Ngôn ngữ học và Nhân loại học Pháp (SELAF) xuất bản.

·              (1998) Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa, Hà Nội: NXB Giáo dục.

·              (2001) Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, NXB Trẻ.

·              (Quư II năm 2006) Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXBKhoa học xă hội và Công ty văn hóa Phương Nam.

  Bài viết quan trọng đă đăng báo

·           "Hai cách miêu tả hệ thống thanh điệu của tiếng Việt"

·           "Chiết đoạn và siêu đoạn trong ngôn ngữ học phương Tây và trong tiếng Việt" và "Nguyên lư 'tuyến tính của năng biểu" trong âm vị học", Phonologie et linéarité: réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine, 1985 - viết bằng tiếng Pháp, do Hội Ngôn ngữ học và Nhân loại học Pháp (SELAF) xuất bản

·           "Vấn đề âm vị trong tiếng Việt"

·           "Trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt" (1978)

·           "Về cương vị ngôn ngữ học của 'tiếng'"

·           "Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam"

·           "Một số biểu hiện của cách nh́n Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt"

·           "Về cách phân tích âm vị học một số vận mẫu có nguyên âm ngắn trong tiếng Việt"

·           "Thêm mấy giải pháp âm vị học cho các vận mẫu có nguyên âm ngắn của tiếng Việt"

·           "Sợ hơn băo táp", Báo Văn Nghệ

 Một  số ư kiến của Cao Xuân Hạo

·          "...Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuư ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rơ nhất và tai hại nhất là trong các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt.(...) Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai hoạ không c̣n hoán cải được nữa, nhưng ta có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn học bắt buộc ở trường phổ thông...". [Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, NXB Trẻ, 2001, bài "Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ"]

·         "Chẳng hạn, từ những năm 20 của thế kỷ XX những người làm từ điển Anh - Việt đă thấy ngay rằng (lạ thay!) tiếng Việt không có "tính từ", là v́ nếu có th́ không thể nào hiểu nổi tại sao người Việt nói Cha tôi già rồi mà không cần và không thể dùng một "động từ" như to be xen vào giữa (tức nói Cha tôi là già rồi)." [Lời giới thiệu cuốn T́m về linh hồn tiếng Việt, Nguyễn Đức Dương, Nhà xuất bản Trẻ 2003, trang 7]

·         "Câu là mệnh đề được thể hiện bằng ngôn từ thực hiện ngay trong lúc nó được phát ra." [T́m về linh hồn tiếng Việt, Nguyễn Đức Dương, Nhà xuất bản Trẻ 2003, trang 152]

·         "Những cuốn sách đầu tiên viết về ngữ pháp tiếng Việt, - trừ một số ngoại lệ hiếm hoi như những tác phẩm của Trương Vĩnh Kư, Trần Trọng Kinh, Phạm Duy Khiêm (đó là những người không phải chỉ biết tiếng Pháp), - đều do những người chỉ được học một thứ ngữ pháp duy nhất là ngữ pháp tiếng Pháp, hay có chăng cũng lại là một thứ tiếng châu Âu nào đó khác, cho nên dễ tưởng rằng đó là thứ ngữ pháp duy nhất mà một ngôn ngữ có thể có được. Thế là từ đó trở đi các thế hệ sau, tuy hầu hết không biết tiếng Pháp, đều coi sách vởi của các bậc tiền bối như là hiện thân của chân lư và không có mấy ai thấy cần nghiên cứu lời ăn tiếng nói của người Việt nữa. Ngữ pháp sao chép từ tiếng Pháp trở thành một thứ tôn giáo nghiệt ngă: bất kỳ một nhận định nào về tiếng Việt cho thấy một cái ǵ không giống tiếng Pháp đều bị coi là tà thuyết. Từ đo, ta có thể hiểu tại sao 75% những câu thông dụng nhất của tiếng Việt không bao giờ được dạy ở nhà trường." [Lời giới thiệu cuốn T́m về linh hồn tiếng Việt, Nguyễn Đức Dương, Nhà xuất bản Trẻ 2003, trang 10]

·         "Họ [học sinh] chỉ được học những kiểu câu nào hoàn toàn giống câu tiếng Pháp, c̣n những kiểu câu có thật trong tiếng Việt (vốn chiếm khoảng 75% tổng số câu), th́ không có sách nào viết lấy một ḍng. Chính ca dao tục ngữ - những câu tiếng Việt mẫu mực nhất, kết tinh những phẩm chất đáng tự hào nhất của linh hồn dân tộc - nằm trong cái số 75% kiểu câu bị loại ra khỏi nội dung giảng dạy ấy. 25% là một tỷ lệ quá ít ỏi để có thể nói rằng học sinh đă học xong ngữ pháp tiếng Việt. Những cách hành văn như ca dao, tục ngữ thường được coi là "lỗi thời" và "không chuẩn" chỉ v́ đó chính là cách hành văn thuần tuư Việt nam, cho nên không giống tiếng Pháp, mà đă không giống câu tiếng Pháp th́ tất nhiên là sai chuẩn, là vô văn hoá tồi, c̣n học làm ǵ cho nó hư người đi?" [Lời giới thiệu cuốn T́m về linh hồn tiếng Việt, Nguyễn Đức Dương, Nhà xuất bản Trẻ 2003, trang 11]

  Những nhận định về Cao Xuân Hạo

·              "Cao Xuân Hạo thuộc vào số rất ít nhà ngữ học Việt Nam vượt lên khỏi cái địa vị thuần túy cung cấp tư liệu minh họa cho các lư thuyết ngữ học của phương Tây, để đĩnh đạc tranh luận với giới ngữ học quốc tế." (Hoàng Dũng viết về Cao Xuân Hạo)

·              "H́nh như trong cuộc đời ông cũng chịu không ít bầm dập. Nhưng tôi cho là may mà đời có ông. Ông chân thực vô tư mà minh triết như chú bé trong ngụ ngôn Andersen đă nói huỵch toẹt: hoàng đế cởi truồng. Không hiểu sao tôi có liên tưởng ngộ nghĩnh: một chiều gió bấc, một con đường ṃn xa tít hun hút tới chân trời. Trên đó chàng kỵ sĩ gầy, mái đầu muối tiêu, nách cắp cây thương, cưỡi trên con ngẽo cà khổ. Đó là ông, Cao Xuân Hạo, chàng kỹ sĩ độc hành. Trong chiều tà, ngọn bút của ông được phản quang phóng to thành cây thương. Một người một ngựa, ông trơ trọi đi trong chiều vắng. Trước mắt, những hồn ma bóng quế chập chờn. Nhưng ông vui v́ tin rằng một ngày mai những con chữ Việt sẽ tưng bừng trong cuộc hoan ca chào đón ông - người giải phóng." (Hà Văn Thuỳ viết về Cao Xuân Hạo)