Tháng Ba Găy Súng
Tựa
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đă trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đă viết về những chuyện chiến trường th́ h́nh như chẳng có ai dự.
Trong lứa tuổi của tôi, lứa tuổi dưới mười khi theo gia đ́nh di cư từ Bắc vào Nam, ngoại trừ những người có thân nhân ruột thịt bị giết bởi Việt Cộng, c̣n hầu hết, có bao nhiêu người thực sự căm thù Việt Cộng đâu, v́ rơ rệt một điều là từ lứa tuổi tôi trở xuống, có đứa nào biết Việt Cộng là cái ǵ đâu. Cũng y như lứa tuổi dưới mười khi theo cha mẹ qua Mỹ từ năm 1975 ở đây bây giờ. Cũng thù ghét Việt Cộng vậy, nhưng chỉ là cái thù gia truyền, cha mẹ thù ghét th́ ḿnh cũng thù ghét theo thế thôi, chứ chẳng có ǵ là sâu đậm cả. Cho đến khi lớn lên, đầu óc đă tạm đủ để suy xét th́ khổ một nỗi, hệ thống tuyên truyền của Việt Nam Cộng Ḥa lại có giá trị phản tuyên truyền nhiều hơn là tuyên truyền. Cho nên khi vào quân đội, tôi t́nh nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt v́ căm thù kẻ địch th́ ít mà v́ cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, v́ bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường th́ nhiều.
Tuy nhiên, v́ ở một đơn vị thường xuyên tác chiến, cùng gian nguy, cùng sống chết với nhau nên tôi đă gắn bó với bạn bè, đồng đội trong đơn vị như với anh em ruột thịt. Tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi b́nh thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.
Nhưng, khi hai ông xếp lớn của tôi là đại tá lữ đoàn trưởng và trung tá lữ đoàn phó bỏ lữ đoàn gồm bốn tiểu đoàn tác chiến và các đơn vị phụ thuộc tổng cộng vào khoảng trên dưới bốn ngàn người trong cơn quẫn bách để chạy lấy thân th́ ḷng căm hận của tôi đột nhiên bùng dậy. Tôi giết Việt Cộng không gớm tay nhưng không bởi ḷng căm thù v́ giữa chúng tôi và Việt Cộng đă có lằn ranh rơ rệt, hai bên chiến tuyến hẳn ḥi, hễ cứ thấy mặt nhau là giết, dùng mọi mưu mọi cách để giết nhau. C̣n đằng này, vừa mất niềm tin vừa tủi nhục v́ những người ḿnh vừa kính trọng vừa phải tuân lệnh một cách tuyệt đối.
Làm thuyền trưởng th́ phải sống chết theo tàu, làm đơn vị trưởng th́ phải sống chết theo đơn vị. Tôi muốn nói đến tinh thần trách nhiệm của người chỉ huy. Người có quyền hành mà không có trách nhiệm nào có khác ǵ kẻ phản bội. Chúng ta thua không phải v́ kẻ địch mạnh mà v́ trong hàng ngũ chúng ta có quá nhiều kẻ phản bội và hèn nhát. Chính v́ ḷng thù hận sự hèn nhát và vô trách nhiệm của cấp chỉ huy nên h́nh ảnh và diễn tiến những ngày cuối cùng trước khi cả lữ đoàn tan ră và bị bắt bởi khoảng hơn một đại đội du kích Việt Cộng vào nửa cuối tháng Ba năm 1975 đă như một cuốn phim nằm in trong trí nhớ của tôi, chỉ cần một cái ấn nút là được chiếu lại một cách rơ nét với đầy đủ những suy nghĩ và phản ứng của tôi, với từng diễn tiến nhỏ mà tôi đă phải trải qua.
Tôi ôm cái kỷ niệm đau đớn và tủi nhục này cả chục năm nay, qua những năm tù đày, qua những ngày tháng lang thang ở trại tỵ nạn, qua đến Mỹ, tôi đọc được lời tuyên bố của một ông tướng cũ nào đó trên báo đại khái "Để mất nước là tội chung của mọi người, làm lớn th́ tội lớn, làm bé th́ tội bé". Tôi nghĩ ngay đến một điều là những thằng đâm sau lưng chiến sĩ có tội, và những thằng chiến sĩ đưa lưng cho xếp của ḿnh đâm cũng có tội luôn. Điều này đă là cái ấn nút để tôi kể lại câu chuyện này.
Điều tôi muốn nói trong quyển sách này là không ai là không quay lại nh́n chỗ ḿnh vừa ngă, và cũng không ai là không quay lại nh́n đống phân ḿnh vừa thải. Ngă là lỗi của chính ḿnh, và phân có thối cũng là phân của ḿnh, vậy mà tại sao cả chục năm nay vẫn không thấy ai dám quay nh́n lại cái lỗi đă làm cho ḿnh ngă lên ngay trên đống phân của ḿnh, mà chỉ có toàn những lời chửi bới và đổ lỗi cho người khác, can đảm lắm cũng chỉ dám nhận một cái lỗi chung chung "lớn lỗi lớn, bé lỗi bé" đúng theo cái kiểu "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Thằng thất phu c̣n có lỗi th́ c̣n ai mà không có lỗi, tôi cũng đành có lỗi vậy.
Tôi không nhớ câu này của ai: "Cái đám quân thần của triều đ́nh cũ chẳng có ǵ phải ngại cả, v́ khi có quân có quyền trong tay họ c̣n chẳng làm được tṛ trống ǵ, th́ bây giờ, chỉ c̣n trơ lại có mỗi cái thân giá áo túi cơm, hỏi rằng họ sẽ làm được ǵ hơn ngoài cái giá và cái túi".
Đâu phải đất nước ta là một bàn cờ để hễ đánh thua ván này, xóa đi xếp quân làm lại bàn khác mà tướng vẫn là tướng, quân vẫn là quân. Đâu phải những con xe, con mă, con chốt đă chết đi đều có thể dựng đầu dậy để làm lại một trận mới.
Trí đă không mà dũng cũng không, chỉ có mỗi cái tài dở dở ương ương là sử dụng một cách bừa băi cái dũng của người khác đến nỗi phải bỏ cả đất nước mà chạy, đánh lừa để bỏ hàng triệu thằng dám chiến đấu tới cùng vào trong những trại tù đỏ, vậy mà vẫn c̣n dám chường mặt ra đ̣i tiếp tục làm cha mẹ dân th́ quả là quá lắm lắm. Cái dĩ văng thối tha và hèn nhát th́ dù cho người đương thời có thể bỏ qua, nhưng lịch sử đâu có tha thứ. Vẫn cái chính danh là chống Cộng nhưng cái ngôn của các ông trước kia làm xếp lớn đă không thuận rồi, bây giờ phải để cho lớp người mới. Với tư thế mới, họ mới là những người thuận ngôn. Danh chính ngôn thuận mới có thể thắng được Việt Cộng, khôi phục lại được đất nước. Những con chốt thấp cổ bé miệng, những thằng bị đè đầu sai khiến ngày xưa và những người mới lớn bây giờ mới có quyền nói và mới là người có tư cách làm.
Quyển sách này không hề là một tiểu thuyết mà là một hồi kư. Bởi v́ tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. Tháng Ba th́ mọi người đă rơ, c̣n Găy Súng, tôi muốn nói lên một điều đau ḷng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn th́ giá trị không bằng một khúc củi mục, chính tôi đă dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải là đă bị bẻ găy không khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đấu? Ai đă bẻ găy súng của chúng tôi? Tôi đặt chữ Găy Súng cho quyển sách này là như vậy.
Và tôi gọi Tháng Ba Găy Súng là hồi kư v́ tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết, tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào, chắc chắn là tôi đă quên khá nhiều chi tiết, và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đă không được biết. Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đă nhận lệnh và đă thi hành.
Nếu Tháng Ba Găy Súng là tiểu thuyết th́ tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ư muốn...", trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ư muốn là tôi đă không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết.
Cao Xuân Huy
http://kesach.org/archives/1257
Trích đoạn:
1
Tôi và thằng bạn lang thang khắp các quán nhậu, quán bia ôm trong thời gian thành phố đang xôn xao về chuyện mất Ban Mê Thuột. Vừa mới xong vụ Phước Long thương khó, bây giờ lại đến Ban Mê Thuột "khó thương". Không biết lần này những nơi ăn chơi của trai thanh gái lịch Sài G̣n có bị đóng cửa ba ngày như lần trước không? Nhưng cả chuyện mất Ban Mê Thuột lẫn chuyện đóng cửa những nơi du hí chẳng ăn nhậu ǵ đến bọn tôi cả. Cho dù tất cả những quán bia ôm bị đóng cửa, bọn tôi vẫn có thể lê la những quán cóc lề đường. Hơn nữa, lúc này đă vào nửa cuối tháng lương mà ngày vui chắc chắn sẽ c̣n rất dài nên chuyện ngồi quán cóc lại là điều hợp lư và hợp tiền. Thành ra với bọn tôi, nhậu cái ǵ cũng là nhậu. Chúng tôi cần nhậu và sau đó xuống xóm t́m chị em ta, thật giản dị và dễ tính. Quán cóc và các xóm chị em ta bảo đảm là không bị ảnh hưởng một tí ǵ về chuyện thành phố phải để tang cho một địa danh nào đó vừa mất.
Tôi cũng vậy. Phước Long mất; Ban Mê Thuột mất; Pleiku, Kontum đang chuẩn bị mất tôi xem như "nơ pa", bởi v́ tôi sống và lớn lên ở Sài G̣n nên tôi đă thừa hưởng trọn vẹn cái thói thản nhiên, cái tính phớt tỉnh Ăng Lê hơn người Ăng Lê của dân Sài G̣n. Thành thử một địa danh nào đó dù lớn dù nhỏ, vừa mất đi hay vừa chiếm lại được nếu không ăn nhậu ǵ đến chuyện làm ăn của ḿnh, chuyện mất mát người thân của ḿnh hay ảnh hưởng đến chuyện ăn chơi của ḿnh th́ dĩ nhiên không phải là chuyện của ḿnh. Tiếng súng ở ngoài tầm tai của mọi người mà. "Tôi vẫn sống, tôi vẫn ăn và tôi vẫn thở...".
Tôi đă trú đóng một thời gian ở Ban Mê Thuột, cũng có một ít kỷ niệm lăng nhăng về t́nh cảm ở Ban Mê Thuột. Nhưng tôi không có tài sản, tôi không có thân nhân đang ở hay đang đánh đấm ở Ban Mê Thuột, và những nơi ăn chơi của tôi ở Sài G̣n không bị ảnh hưởng bởi chuyện mất Ban Mê Thuột, nên một năm mười hai tháng, chỉ có mấy ngày là được ăn nhậu thoải mái, không phải lo bất cứ chuyện ǵ, vậy th́ tại sao tôi phải bận tâm về những chuyện không phải của ḿnh? Mất hay không mất Ban Mê Thuột th́ đă sao?
La cà ở các quán nhậu và sau đó xuống xóm đă là một chương tŕnh bất di bất dịch trong những lần phép ở Sài G̣n. Đă có lần tôi viết thư cho một người bạn kể về những lần phép và những ngày phép của tôi: "Ở Sài G̣n, suốt ngày tao chỉ ngồi và nằm, ngồi với rượu và nằm với gái, v́ cả năm sau đó tao không c̣n được ngồi và nằm thoải mái nữa, và chưa chắc tao đă có thêm được một lần phép kế tiếp. Lư do thật giản dị là mỗi buổi sáng mở mắt ra mới biết là ḿnh đă sống thêm được một ngày".
Thời gian này tôi chỉ tiếc một điều là Rex vừa chiếu một xuất đặc biệt phim Exorcist để lấy tiền giúp đồng bào chạy loạn; giá vé thật đắt nhưng đă hết nhẵn từ chiều, kể cả vé chợ đen đắt gấp ba bốn lần giá vé chính thức. Tôi đến trễ nên không mua được vé. Không hiểu cả năm nữa tôi mới được về, chắc ǵ đă đúng vào dịp phim này được chiếu lại. Tôi tiếc không phải v́ tôi đă không được đóng góp chút đỉnh tiền theo kiểu trước mua vui sau làm việc nghĩa để cứu giúp đồng bào ḿnh, mà v́ phim này được quảng cáo hấp dẫn quá, tôi muốn được xem đă từ lâu rồi. Thôi th́ lại nhậu.
Đến ngày hết hạn trên giấy phép tôi ra tŕnh diện hậu cứ ở Vũng Tàu để gia hạn, v́ tôi đă lên máy bay rời Huế chậm hơn ngày ghi trong giấy phép. Đường Sài G̣n - Vũng Tàu lúc này hơi mất an ninh nên những chuyến liên lạc giữa hậu cứ tiểu đoàn với Bộ tư lệnh ở Sài G̣n thưa hơn trước. Trong khi chờ đợi quyết định của tiểu đoàn trưởng ở hành quân, tôi la cà ở Băi Trước để tránh phải nghe chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu nhau của những bà vợ sĩ quan ở khu gia binh của hậu cứ.
Ăn nhậu ở đây quá phí tiền nên không đợi tiểu đoàn trưởng gia hạn giấy phép - tôi biết chắc chắn là tôi sẽ không được gia hạn - và cũng không đợi để đi theo chuyến liên lạc, tôi tự động coi như ḿnh đă hợp lệ chuyện kéo dài ngày phép, tôi lên xe đ̣ về Sài G̣n sau một chầu nhậu say mèm với bọn đệ tử ở hậu cứ. Thủ hai quả lựu đạn trong túi quần cho chắc ăn, nhưng vừa bước chân lên xe tôi đă ngủ như chết. Về đến Sài G̣n tên lơ xe c̣n phải lay một hồi lâu tôi mới tỉnh.
Tôi lại liên miên sáng xỉn chiều say tối nằm quay với gái, mặc dầu đă hết cả những ngày phép tự gia hạn. Nhưng nhằm nḥ ǵ, tôi vẫn c̣n những ngày phép tự kư nữa v́ tôi là một thằng có biệt tài trễ phép. Tùy cơ ứng biến, tôi có trăm phương ngh́n kế để trễ phép mà không bị phạt. Tôi đă từng đi hai mươi tám ngày trong khi phép chỉ có bốn ngày, ra đơn vị cũng chỉ cười trừ. Lần đi phép này, tôi đă không định trễ, nhưng v́ tôi đă bị tiểu đoàn trưởng giữ lại đơn vị đến qua Tết ta trong khi giấy phép của tôi đă được gửi về hậu trạm trước Noël, nên không lư do ǵ mà tôi không trễ phép để bù lại sự thiệt tḥi vô lư đó.
Suốt bảy năm lính tôi chỉ được ăn Tết lén ở Sài G̣n một lần vào đầu năm 70 v́ tôi t́nh nguyện đi học khóa Rừng Núi Śnh Lầy ở Dục Mỹ để câu giờ kiếm cái Tết. Để trả thù v́ bị mất khơi khơi một cái Tết huy hoàng ở Sài G̣n tôi tính phải trễ phép một tháng tức là phải ở Sài G̣n một tháng rưỡi mới hả dạ. Tôi được phép thưởng đặc biệt mười lăm ngày, cho nên đă hết những ngày phép tự gia hạn, tôi c̣n đến một tháng phép tự kư nữa. Thiếu một thằng sĩ quan tại một đại đội lúc nào cũng có sẵn hai, ba thằng sĩ quan dự bị th́ đâu có nhằm nḥ ǵ, mợ đi lấy chồng th́ chợ vẫn vui mà.
Nhưng chợ đă không vui.
Chiều 15 tháng Ba, tôi gặp thiếu úy Bé Quân Cảnh vừa từ Bộ tư lệnh hành quân về, cho biết tiểu đoàn tôi đang đụng lớn. Tiểu đoàn tôi nằm ở cây số 23 về phía bắc trên quốc lộ 1 tính từ Huế. Khu vực trách nhiệm của tiểu đoàn từ bờ bắc sông An Lỗ ra đến căn cứ Ḥa Mỹ. Sát sông An Lỗ là hai làng Cổ Bi và Hiền Sĩ, nơi đă xảy ra những trận đánh lớn sát quốc lộ, và hiện nay vẫn đang bị đặc công và du kích quấy phá, nhưng chỉ là quấy phá chứ không có ǵ đáng ngại. Sát căn cứ Ḥa Mỹ là làng Đồng Lâm, một cái làng mà hầu như từ trưởng ấp trở xuống đều là Việt Cộng. Phía đông là băi cát mênh mông, có một ít dân Quảng Trị chạy loạn về tạm cư lập thành một vài xóm nhỏ, tương đối an toàn. C̣n về phía tây của vùng trách nhiệm, nơi đối diện thực sự với Việt Cộng, nơi mặt đối mặt, có chạm tuyến, có điểm đóng quân, nơi phía tây này có một trọng điểm là đồi 51. Từ đồi 51, chúng tôi có thể quan sát được những cuộc chuyển quân, kiểm soát được những hoạt động tại các vị trí của Việt Cộng, và cũng từ đồi 51, Việt Cộng có thể kiểm soát được các vị trí đóng quân của chúng tôi, kể cả một đoạn quốc lộ 1. Việt Cộng có thể dễ dàng liên lạc với bọn du kích nằm trong làng Đồng Lâm, nằm ngay sát quốc lộ và ngay bên cạnh căn cứ Ḥa Mỹ.
Nếu tiểu đoàn tôi đụng lớn, chắc chắn là đụng tại đồi 51. Tính theo ṿng thay đổi điểm đóng quân trong tiểu đoàn th́ đại đội tôi đang nằm ở đồi 51.
Ban Mê Thuột mất không ăn nhậu ǵ đến tôi. Người ta đang bỏ Pleiku, Kontum cũng chẳng nhằm nḥ ǵ đến tôi. Nhưng đồi 51, một ngọn đồi nhỏ không có tên, chúng tôi phải lấy cao độ của nó để đặt cho nó một cái tên cho dễ gọi, nơi mà không một người Sài G̣n nào nghe nói đến, nơi mà dù có mất nó cũng không đáng để cho người ta xê dịch cái kim hay đổi màu bút ch́ mỡ trên bản đồ chiến sự trong những báo cáo hằng ngày, nơi mà bản tin chiến sự hằng ngày của đài phát thanh quân đội cũng không buồn đọc, nơi mà báo chí hằng ngày cũng coi như không đáng đăng bằng tin xe cán chó, th́ chính nó, cái đồi trọc lóc, nhỏ xíu và lùn tịt nằm ở cực bắc Việt Nam Cộng Ḥa, lại là điều rất quan trọng đối với tôi, đă làm tôi bỏ ăn bỏ nhậu, đă làm tôi đang phè phỡn phải t́m mọi cách ra đến nơi càng sớm càng tốt. Nó mạnh hơn những ngày phép trả thù của tôi, nó hạ đo ván tất cả những lư do, những cái mánh tôi đang sắp xếp để qua mặt Tiểu đoàn trưởng, v́ đó là ngọn đồi mà đại đội tôi đang trấn đóng, nơi mà anh em bè bạn, thầy tṛ của tôi không biết thằng sống thằng chết ra sao.
Sáng 16 tháng Ba, tôi lên tŕnh diện Bộ tư lệnh, pḥng Tư cho biết ít ra phải cả tuần nữa mới có được tên trong danh sách của chuyến bay ra Đà Nẵng - phi trường Phú Bài đă không sử dụng được v́ nằm trong tầm pháo của Việt Cộng. Lúc ăn điểm tâm tại Thị Nghè sáng ngày 17 tôi đă năn nỉ thượng sĩ Tuấn, người phụ trách lập danh sách cho các chuyến bay của Sư đoàn để được có tên trong chuyến bay ngày 18.
Chiều 17 tháng Ba, tôi chào gia đ́nh để đi. Bà ngoại ôm tôi khóc. Mẹ tôi không muốn tôi đi. Và cậu tôi - tuy là em của mẹ tôi nhưng ông mới chính là bố tôi v́ ông đă nuôi tôi từ ngày c̣n đỏ hỏn cho đến khi tôi bước chân vào đời - khuyên tôi nên đào ngũ v́ t́nh h́nh theo ông biết là Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam. Ông nói:
"T́nh h́nh lúc này không c̣n được như trước nữa đâu con ạ! Những người Mỹ cậu quen đă lục tục về nước gần hết, chỉ c̣n ít người ở lại để thu xếp công việc, cậu chắc là rồi họ cũng sẽ đi nay mai ǵ đó thôi. Tốt nhất là con nên ở nhà để c̣n lo liệu cho gia đ́nh. Nhà ḿnh chỉ có cậu với con là đàn ông thôi."
Tôi tin là ông nói thật. Dĩ nhiên là ông không nói hết những điều ông biết nhưng ông cho tôi một lời khuyên gói trọn tất cả những điều ông cần nói. Sự quen biết của ông đủ để bảo đảm những điều ông nói nên tôi tin là ông thực sự muốn tôi đào ngũ ở nhà để tránh phải húc đầu vào những trận đánh vô ích. Nhưng tôi không nghe lời ông. Chắc chắn là Mỹ không bỏ Việt Nam, bao nhiêu xương máu và của cải của Mỹ đă đổ xuống đây rồi. Và hiện giờ Mỹ chỉ không tăng viện trợ chứ Mỹ đâu có cắt hết viện trợ. Chúng tôi đă chẳng phải chiến đấu theo kiểu nhà nghèo từ sau ngày ngưng bắn rồi ư. C̣n một điều nữa là bạn tôi, anh Phát làm ở Hạ Viện, cho biết là sẽ cắt đất hoặc ở An Lỗ hoặc ở Lăng Cô.
Hơn nữa, c̣n đồng đội tôi, c̣n đàn em tôi, c̣n danh dự tôi. Tôi sẽ ăn nói thế nào với họ khi mà tôi, thằng Huy Râu của tiểu đoàn 4 đào ngũ khi đơn vị đụng trận. Riêng chuyện trễ phép trong khi đại đội bị tấn công ở đồi 51 đă không đủ nhục hay sao, không lẽ bây giờ tôi lại bỏ mặc tụi nó, đào ngũ để lo cho thân ḿnh v́ chuyện khó tin chưa xảy ra. Không, cậu tôi nói thật nhưng chỉ là điều ông căn cứ vào những tin tức từ bạn bè, người quen của ông; c̣n tôi, tôi không thể nghe lời ông v́ tôi không muốn là một thằng hèn. Tôi nói với ông: "Sống chết sướng khổ ǵ cũng có số hết cậu ạ. Cháu không muốn phải ngượng mỗi lần gặp lại bạn bè, đồng đội."
Tôi không phải là một người hùng, nhưng tôi cũng không phải là một người hèn. Tôi chỉ là một người lính, lính của một binh chủng chuyên môn đánh trận và chỉ nhận những người t́nh nguyện; tôi phải xứng đáng với màu mũ tôi đang đội, màu áo tôi đang mặc, và hơi cá nhân một chút, tôi phải xứng đáng với cặp lon tôi đang đeo... Nhưng tôi cũng không phải là một người lính gương mẫu, đúc khuôn theo những điều được huấn luyện trong quân trường, thi hành đúng 8 điều, 10 điều tâm niệm của mấy ông Chiến Tranh Chính Trị đẻ ra mà chính mấy ông ấy lại không bao giờ thi hành. Tôi là một thằng lính ba gai, cờ bạc, rượu chè, trai gái đủ cả nhưng đánh giặc cũng rất tận t́nh. Chưa một ai, thượng cấp cũng như thuộc cấp, phải than phiền về tôi trong những trận đánh.
Trưa 18 tháng Ba, ra đến Đà Nẵng, tôi phải ngủ lại một đêm v́ không có xe ra Huế. Bộ tư lệnh hành quân đang chuyển từ Hương Điền Huế vào căn cứ Non Nước Đà Nẵng. Xe cộ đang dành ưu tiên để chuyển các tiểu đoàn của Lữ đoàn 258 và 369 vào Đà Nẵng thay cho các tiểu đoàn Dù rút về Sài G̣n.
Ngoại trừ phi trường Đà Nẵng rất đang chộn rộn về những đống quan tài phủ cờ được đưa về Sài G̣n và những người dân Pleiku, Kontum được di tản bằng máy bay đến, nhịp sống của những người dân trong thành phố h́nh như không có ǵ thay đổi. Tôi và mấy người lính cùng tiểu đoàn lại lang thang trong thành phố để t́m các quán nhậu và xóm chị em ta. Cà phê, xi nê, vũ trường vẫn đông đảo tấp nập. Buổi tối chúng tôi c̣n kéo nhau đến xem hội chợ tại một trường nữ trung học nhân dịp lễ kỷ niệm một nữ anh hùng nào đó trong lịch sử mà tôi không nhớ. Người ta vẫn ăn diện, người ta vẫn chơi bời, người ta vẫn vui vẻ thoải mái, đường xá vẫn rất nhộn nhịp. Sinh hoạt b́nh thường này đă làm yên ḷng những người dân vừa từ Quảng Trị và Huế chạy vào.
Căn cứ chuyển vận vẫn tối tăm, hôi hám và bẩn thỉu như thuở nào, vẫn nhộn nhịp và ồn ào v́ chưa bao giờ được yên tĩnh. Những ông già mệt mỏi và những người đàn bà xốc xếch đang vật vă khóc quanh những quan tài phủ cờ được mang để ở đây không biết từ lúc nào, và cũng không biết đến bao giờ mới được mang đi. Máy bay đă không c̣n chỗ cho những chiếc quan tài này, và đường thủy cũng chỉ nhận mỗi ngày một số rất hạn chế.
Có cả xác của những người lính của tiểu đoàn tôi đă nằm đợi ở đây bốn, năm ngày. Và thân nhân của họ ở đâu miệt lục tỉnh cũng đă ra đến, xác của họ phải được mang đi gấp v́ họ chết ít ra cũng đă hơn một tuần, không hiểu thứ tự ưu tiên của căn cứ được sắp xếp thế nào mà xác họ vẫn c̣n để đây. Và điều này cũng làm tôi thắc mắc là từ ngày Sư đoàn tôi ra Quảng Trị, chúng tôi vẫn có những chuyến bay riêng để tiếp tế, tải thương, tải xác... tại sao bây giờ chúng tôi lại phải tải xác qua hệ thống chuyển vận của căn cứ này? Tôi được yêu cầu đứng ra can thiệp nhưng chẳng đi đến đâu cả, chỉ nhận được những lời hứa, mà lời hứa th́ giá trị khỉ ǵ trong lúc này!
Chúng tôi lại kéo nhau ra cái quán nằm xế cổng căn cứ nhậu tiếp. Lại nhậu, mặc dầu mấy thằng chỉ c̣n một cây thuốc Capstan đem theo để đổi rượu. Tại quán nhậu, tôi gặp mấy người lính Lôi Hổ đóng tại Đà Nẵng, họ cho biết nửa khuya này họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Tôi nghĩ bụng quả là chó má khi cố t́nh giết thêm một ít người nếu đúng như họ phải nhảy vào Ban Mê Thuột. Hy vọng điều này không đúng với sự thật. Quyết định thí quân hay quyết định sai lầm của một cấp chỉ huy có thể giết chết hàng đơn vị lớn cũng không đáng trách, nhưng quyết định thảy một toán lính vào một nơi mà hàng sư đoàn không chống giữ nổi, kéo theo cả một quân đoàn phải rút chạy th́ cái chết của họ phí quá. Ai là người chịu trách nhiệm về những cái chết kỳ cục vô ích này? Lính cũng là người chứ đâu phải đồ chơi cho những ông xếp lớn!
Trưa 19 tháng Ba, tôi ra đến Huế. Sinh hoạt ở đây rất vội vă, vội vă chứ không ồn ào. H́nh như người dân ở đây đă quá quen với những lần phải bỏ nhà bỏ cửa chạy lấy người, và h́nh như những người chuyên gây ra chuyện ồn ào đă bỏ chạy từ trước rồi. Những người nhà giàu đă vào Đà Nẵng hoặc Sài G̣n, những người trung lưu cũng đă vào Đà Nẵng trú thân, cái vội vă chỉ xảy ra ở những người buôn bán nhỏ, hoặc ở những người c̣n cố nán lại ở thành phố để kiếm thêm chút "cháo".
Tôi cũng vội vă không kém. Tôi phải mua ít đồ lặt vặt để đi gấp ra tiểu đoàn trong buổi chiều để c̣n kịp về đến đại đội trước khi trời tối. Tôi không thể đợi đến ngày hôm sau đi theo chuyến tiếp tế v́ tiểu đoàn trưởng ra lệnh tôi phải ra hành quân ngay trong ngày bằng mọi giá. Vả lại, tôi cũng không thích nh́n thành phố Huế đang trên đà giăy chết này nên ra hành quân cho êm chuyện.
Xuống xe tại sân tiểu đoàn, tôi gặp một thiếu tá rất lạ mặt đang đứng với tiểu đoàn trưởng ở cửa lều ban Ba. Tôi tŕnh diện. Ông thiếu tá lạ hoắc đó tên là Thành cũng mang bảng tên màu đỏ của tiểu đoàn. Ông bắt tay tôi và hỏi tiểu đoàn trưởng:
"Ông sĩ quan này đây hả?"
Nghe câu này, tôi biết chắc là hai người đă nói chuyện về tôi, và dĩ nhiên không phải là nói tốt. Nhằm nḥ ǵ! Tiểu đoàn trưởng không trả lời, quay sang nói với tôi:
"Đụ mẹ, ông về đại đội liền bây giờ."
"Đại đội tôi nằm đâu, thiếu tá?"
"Đụ mẹ, không biết, ông đi cho khuất mắt tôi đi!"
Tiếng chửi thề của ông rất nhỏ nhưng tôi biết ông chửi thề v́ thấy môi ông mấp máy trước khi nói. Tôi chào và quay đi với một chút thích thú, đâu phải thằng nào cũng làm cho "Hitler" chửi thề được, dù chỉ chửi lẩm bẩm trong miệng. Ông đuổi tôi đi ngay lập tức, tức là tôi không phải trả lời ông về lư do trễ phép, dĩ nhiên như vậy tôi đâu có bị phạt. Ra đến Huế, hậu trạm đă cho tôi biết đại đội bị "banh ta lông" ở đồi 51 không phải là đại đội tôi, như vậy, cái gánh nặng trong người tôi đă được trút bỏ, chỉ c̣n mỗi cái gánh nhè nhẹ là bị phạt này bây giờ cũng được tháo bỏ nốt.
Trung úy Xuân đại đội trưởng đại đội chỉ huy cho tôi biết là thiếu tá Thành sẽ thay thế thiếu tá Toàn làm tiểu đoàn trưởng, hẳn là hai ông đă bàn giao cả cái ba gai của tôi. Đại úy Phó đang tập sự làm trưởng ban Ba để đi với thiếu tá Toàn qua tiểu đoàn 18, đại đội 3 của đại úy Hiếu đă qua tiểu đoàn 14 trước, c̣n đại đội mới thành lập của đại úy Chiêu nay trở thành đại đội 3 đă "banh" mất nửa đại đội tại đồi 51, thiếu úy Sáng đại đội phó chết cùng với lính, trong số chết có thằng Hiếu, tên cao bồi ruột của tôi.
Khi thành lập đại đội mới, tôi chắc mẩm là qua làm đại đội trưởng nên đă đưa Hiếu qua trước để khi tôi qua khỏi bị rắc rối giấy tờ, nhưng cuối cùng đại úy Chiêu làm đại đội trưởng và thiếu úy Sáng làm đại đội phó, tôi gửi Sáng thằng Hiếu, đâu ngờ tôi đă gửi thằng Hiếu cho cái chết.
Tôi cũng được biết đáng lẽ đại đội 4 tôi lên nằm đồi 51 theo đúng ṿng luân phiên nhưng v́ thiếu đại đội phó -là tôi- nên đại đội 3 đă lên thay. Như vậy, chuyến đi phép của tôi đă cứu tôi và cứu nửa đại đội của tôi, nhưng chuyến đi phép của tôi đă làm chết oan Sáng và nửa đại đội của Sáng. Đồi 51 đă được đại đội 2 lấy lại sau đó một ngày, giải thoát được một tiểu đội c̣n bám lại và lấy lại toàn bộ vũ khí bị mất, chỉ thiếu có bộ phận máy nhắm của một khẩu súng cộng đồng, đồng thời tịch thu được khá nhiều vũ khí. Xác lính thiếu mấy cái được kể như mất tích. Xác thiếu úy Sáng cởi trần và không có thẻ bài, được nhận diện bằng cái ống quần chật cố hữu và cái khóa thắt lưng đặc biệt, loại chỉ có khung mà không có mặt.
Sáng và tôi ở hai đơn vị khác nhau, học cùng một khóa ở Rừng Cấm, trung tâm huấn luyện của sư đoàn, cùng về đại đội một ngày, tuy mỗi thằng chỉ huy một trung đội nhưng thường đi cặp với nhau trong những trận ủi băi. Hai thằng tôi c̣n là một cặp tri kỷ về nhậu. Sáng, tôi và Thiện - đă đi đơn vị khác - được mệnh danh là ba cái nắp nhạo. Sáng đeo lon chuẩn úy hơi lâu trên cổ - bốn năm - mà không v́ một lư do nào hết, là một trung đội trưởng kỳ cựu nhất tiểu đoàn - hơn ba năm - nên vừa lên thiếu úy vài tháng đă được làm đại đội phó. Cuộc đời binh nghiệp của Sáng khá lận đận mặc dầu là một người rất tôn trọng kỷ luật chứ không thuộc loại mất dạy như tôi. Bây giờ lên lon, lên chức liên tục dù rằng đă trễ, tưởng rằng sự nghiệp kaki sẽ khá hơn chút đỉnh, nào ngờ lương thiếu úy chưa được lănh, hồ sơ chức vụ đại đội phó chưa điều chỉnh xong th́ đời Sáng đă xong.
Khi địch tràn ngập vị trí pḥng thủ ở đỉnh đồi, Sáng đă xin pháo binh bắn thẳng vào đầu ḿnh, không khóa, không mă, không ngụy, không ám danh đàm thoại ǵ hết trên hệ thống truyền tin, tiếng Sáng ngắn gọn sau một tiếng chửi thề: "Đụ mẹ, nó đông quá, chụp lên đầu tao!" Pháo đă chụp lên đỉnh đồi và hai chiếc máy bay cũng nhắm thẳng đỉnh đồi mà dội.
Cái chết thật anh hùng nhưng cái chết thật vô danh - đă đành -. Cái sống anh hùng của cả một tiểu đội vẫn bám chặt, vẫn chiến đấu trên ngọn đồi đă bị địch tràn ngập cho đến khi được giải cứu, đă chỉ được nhắc nhở đến như một tin tức b́nh thường. Có vô t́nh quá không, mặc dù ai cũng hiểu một vài điều khích lệ lúc này, một chút cử chỉ quan tâm lúc này c̣n giá trị hơn một triệu hành động tuyên truyền chiến tranh chính trị. Tôi thắc mắc không hiểu tiểu đội anh hùng này là người hùng riêng của tiểu đoàn 4 hay họ cũng là anh hùng của cả binh chủng, của cả quân đội. Chắc chỉ có những ông xếp lớn chết hoặc sống hơi "ngon" một chút mới đáng là anh hùng, c̣n những thằng cỡ thiếu úy Sáng, cỡ tiểu đội cố thủ trên đồi 51 này th́ là "cái mẹ ǵ". Quân đội không thiếu những anh hùng cỡ là "cái mẹ ǵ" mà thành ra thiếu anh hùng một cách trầm trọng. Tôi sực nhớ lại một trong những người là chiến sĩ xuất sắc thuộc tiểu đoàn tôi về dự đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài G̣n năm 73 là người quanh năm suốt tháng ở hậu cứ, hầu như suốt cuộc đời nhà binh chưa hề nghe một tiếng súng bắn ngược. Hoan hô những người hùng.
Tôi hỏi trung úy Xuân:
"Đại đội tôi nằm ở đâu ông?"
"Chỗ cũ, đến đường rầy quẹo trái."
Tôi ra khỏi chỗ đóng quân của Ban chỉ huy tiểu đoàn, băng ngang quốc lộ đi dọc lên phía bắc, qua chợ Đông Ḥa cũ, mặc dù hôm đi phép tôi c̣n ngồi ở góc chợ uống bia chờ xe đ̣, nhưng bây giờ chưa đầy một tháng vắng mặt, tôi đă phải gọi là cũ v́ nó chỉ c̣n trơ ra những cái xạp cháy dở và những tấm vách nằm ngổn ngang đầy những dấu đạn đại bác. Tôi quẹo trái vào con đường đất đỏ dẫn vào phía núi.
Con đường nhỏ dẫn vào chân núi này rất quen thuộc với tôi nhưng bây giờ lạ hẳn. Ngay từ căn nhà đầu tiên, quán nhậu của mẹ con cô giáo Hương đă không c̣n nguyên vẹn, mái tôn đổ ụp xuống làm văng tung tóe những tấm ván thùng đạn pháo binh được đóng làm vách, căn nhà bên cạnh, tiệm hớt tóc miền quê cũng không c̣n cái cọc nào đứng nguyên. Suốt một dọc, những căn nhà ven chợ này đều có chung h́nh dạng tan nát của cái chợ. Càng vào sâu, nhà cửa càng tan hoang, dấu vết của những đợt pháo kích khủng khiếp.
Qua hết khu "thị tứ" ven chợ, băng qua một vũng śnh lớn, tôi đến khu trong. Gọi là khu trong v́ có đám śnh ngăn cách với khu buôn bán bên ngoài chứ thực ra chỉ có lèo tèo vài căn nhà lụp xụp để ở. Khu trong c̣n nguyên vẹn. Tôi đến gần, một bà sư từ trong nhà đi ra, gọi tôi hỏi: "Răng eng đi giờ ni mà đi có một miềng?"
Câu hỏi làm tôi sững người. Mặt trời đă lặn, tuy c̣n thấy rơ mặt người nhưng chỉ là ánh sáng phản chiếu mà đường vào đến đại đội tôi c̣n xa. Bây giờ tôi mới chợt để ư là khu này không c̣n người dân nào, v́ nhà cửa họ cháy hết đă đành, mà t́nh h́nh lúc này không c̣n phải là t́nh h́nh của những ngày tôi chưa đi phép. Nh́n xuống khẩu súng, tôi nổi gai ốc khắp người, súng tôi không có đạn.
Bằng động tác rất tự nhiên, tôi kê khẩu súng lên túi đạn bên hông - dĩ nhiên túi đạn cũng rỗng - đứng nghiêng người để bà sư không thể nh́n thấy chỗ lắp băng đạn của khẩu M-16 tôi cầm trên tay đang rỗng tuếch. Tôi trấn tĩnh rất nhanh.
"Có lính ra đón tôi. Tại sao bà lại ở đây có một ḿnh?"
"Tui tu hành mà eng. Eng đi cho cẩn thận chứ mấy hắn thường ra giờ ni nớ."
Tôi bước đi, trong đầu không c̣n nghĩ đến Sáng, không c̣n nghĩ đến Hiếu, không c̣n nghĩ đến hùng đến hèn ǵ nữa mà chỉ c̣n nghĩ đến ḿnh. Tôi đă quá cẩu thả để không hỏi rơ t́nh h́nh, để không lấy vài băng đạn đem theo, để không gọi máy về đại đội gọi lính đi đón. Sự cẩu thả này không thể chấp nhận được. Cái lỗi này chỉ cần một chút "xui" là không bao giờ c̣n vấp phải lần thứ hai v́ chắc chắn không c̣n lần thứ hai nào nữa để mà vấp phải. Tôi bước đi, hấp tấp nhưng phải cố làm ra vẻ như ḿnh không hấp tấp, mắt đảo thật nhanh, láo liên như một thằng ăn cắp, nhưng lại phải rất kín đáo nh́n lại phía sau, súng không có đạn mà lúc nào cũng phải nắm lấy tay cầm của khẩu súng trong tư thế sẵn sàng bắn, nhưng dĩ nhiên phải giấu phía gắn băng đạn quay vào người. Cứ trong tư thế mâu thuẫn như vậy tôi đi. Trời không lạnh mà tôi run, trời không nóng mà tôi toát mồ hôi. Bàn tay phải đă ướt nhẹp mà tôi không dám rời tay cầm của khẩu súng để lau. Tôi phải giữ đúng tư thế sẵn sàng tác chiến với hy vọng may ra đánh lừa được tên du kích nào lấp ló ở đâu đó chăng. Tôi cố gạt phắt ư nghĩ là nếu thằng du kích nào đó có súng th́ cho dù tôi có ở tư thế "hiên ngang" như thế nào đi nữa th́ nó vẫn có thể "tỉa" tôi một cách dễ dàng. Nhưng với tư thế này của tôi, biết đâu nó có thể nghi rằng đàng sau tôi đang c̣n một tốp lính nữa mà tôi chỉ là thằng xích hầu, nếu chỉ có một ḿnh chắc chắn nó sẽ không dám bắn. Một cú tháu cáy cạn láng mà tôi chỉ có đôi bạt mặt.
Sự b́nh tĩnh gần như chỉ c̣n là phản ứng không phải của tôi, được tăng lên theo sự rút ngắn của đoạn đường, nhưng lại giảm xuống theo sự mất dần của ánh sáng. Lời nói dối bà sư khi năy trở thành niềm hy vọng to lớn tôi mong chờ: tôi chờ được gặp tốp lính đang trên đường đi đón.
Đến đường rầy là ngă ba đường th́ cũng lại là ngă ba đường của tôi, "chỗ cũ" của đại đội tôi và "tới đường rầy quẹo trái" là hai địa điểm ngược đường với nhau, quẹo trái th́ không thể nào đến chỗ cũ, mà đi băng qua đường rầy th́ lại sai với lời chỉ đường. Tôi chửi thầm trung úy Xuân đă chỉ đường cho tôi một cách bá láp, tôi chửi thầm tôi đă không kịp nhận định cho rơ trước khi rời tiểu đoàn, tôi cũng chửi thầm luôn đại đội trưởng đă biết tôi về đến mà không cho lính đi đón.
Tôi phân vân nhưng không được phép chần chừ, quyết định chậm phút nào là kéo dài sự nguy hiểm thêm phút nấy. Tôi không dám lên chỗ cao để nh́n cho xa, v́ ánh sáng lúc này không đủ cho tôi nh́n xa và bóng tối lại quá đủ cho thân h́nh tôi in rơ nét trên nền trời. Chỉ c̣n chừng ba mươi thước là đến đúng chỗ rẽ, suy tính của tôi không được phép lâu hơn ba mươi bước đôi của một người bước vội. Tôi không c̣n lựa chọn giữa hai nơi "chỗ cũ" và "đến đường rầy quẹo trái" nữa, mà tôi chỉ c̣n được phép chọn lựa lối đi theo địa thế. Nếu đi băng qua đường rầy tôi sẽ phải đi băng qua mấy cái đồi trọc nằm thoai thoải, dễ chết quá, tôi sẽ là một mục tiêu rất rơ cho những tay súng nhắm bắn từ sát mặt đất. C̣n nếu quẹo trái, tôi sẽ phải đi vào con đường ṃn thật nhỏ, quanh co và nhiều bụi rậm, cũng dễ chết lắm v́ khu này đă không được "ổn" từ những ngày tôi chưa đi phép, huống hồ bây giờ.
Tôi quyết định quẹo trái v́ chưa chắc hiện giờ lối nào "ổn" hơn lối nào. Nếu đi trên đồi, hai bên gặp nhau th́ thằng chết chỉ là tôi, nghĩa là kể cả trường hợp tôi thấy địch trước, v́ tôi không có lấy một viên đạn... làm thuốc. C̣n nếu quẹo trái, ngộ nhỡ có đụng đầu nhau, kể cả trường hợp tôi thấy địch sau, tôi vẫn c̣n có thể lủi vào bụi rậm hai bên đường để mà "chẩu".
Tôi đi rất cẩn thận, nghe ngóng và dọ dẫm ở những khúc quanh và chạy thật nhanh ở những khúc thẳng. Đến bụi rậm cuối cùng, tôi dừng lại quan sát ngọn đồi trước mặt. Con đường lượn lên dốc thoai thoải ṿng quanh chân đồi, bên phải trống trơn, một vài bụi rậm nhỏ không đủ che giấu cho tôi đi qua được chân đồi v́ bên trái con đường, lên cao một chút trên sườn đồi đang có lố nhố mấy người đứng ngồi nhấp nha nhấp nhô. Bằng mắt với ánh sáng và khoảng cách lúc này tôi không thể phân biệt được họ là ai, ḿnh hay địch. Không phân biệt được bằng mắt th́ phân biệt bằng tai vậy: tôi cố gắng lắng nghe họ nói chuyện. Dĩ nhiên với khoảng cách này th́ chỉ tiếng được tiếng mất, nhưng tôi đâu cần nghe câu chuyện của họ, mà tôi chỉ cần phân biệt cái giọng của họ, nếu giọng Nam th́ thật "đă đíu", mọi chuyện sẽ êm xuôi tại đây, c̣n nếu giọng Bắc nhà quê hoặc giọng trọ trẹ miền Trung th́... đằng sau quay, và chắc chắn là tôi sẽ có một đêm ngủ vật vờ trong bụi để làm mồi cho lũ muỗi rừng và... đợi sáng tính sau.
Tôi vận dụng tất cả mọi khả năng, dồn hết sức sống của tôi vào đôi tai để chờ đợi, nhưng ngoài tiếng côn trùng và tiếng gió, tôi không nghe được một tiếng nói nào của mấy người trên sườn đồi kia. Tuy nhiên, tôi b́nh tĩnh thật lạ lùng, cái b́nh tĩnh của thằng lính khi ra trận đă biết rơ mục tiêu, biết rơ từng vị trí của địch, đă nghe tiếng súng nổ, không c̣n sự hồi hộp lo sợ của sự chờ đợi những viên đạn đầu tiên của địch thay cho lệnh khai hỏa ghim vào thân thể ḿnh trước khi kịp nghe tiếng súng, không c̣n là chuyện may rủi trời kêu ai nấy dạ của những viên đạn bắn sẻ nữa, mà là cái b́nh tĩnh của một sự việc đă được tính toán, đúng th́ sống mà sai th́... húp cháo rùa.
"Đù má, lâu dzậy mảy?"
Tiếng nói đột ngột, không đủ lớn nhưng đủ lọt vào tai tôi. Xong rồi! Tiếng chửi thề nghe sao dễ thương lạ. Tiếng chửi thề đă chấm dứt sự nguy hiểm bao quanh tôi. Bọn này hẳn phải là lính đại đội tôi, đang gài ḿn tại tiền đồn cấp tiểu đội.
Tôi ung dung trở ra đường ṃn, bằng điệu bộ rất thoải mái, súng vác vai vừa đi vừa huưt gió "cờ bay cờ bay oai hùng..." để tránh sự bất ngờ có thể gây ra ngộ nhận. Mấy người lính dừng tay nh́n tôi, và khi đi ṿng theo chân đồi không thấy ai lên tiếng hỏi thăm, chắc là tối quá tụi nó không nhận ra ḿnh, tôi lên tiếng:
"Đứa nào đó bay?"
Không nghe tiếng trả lời, tôi hỏi tiếp:
"Đại đội 4 phải không?"
"Đụ mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội?"
Tôi bực ḿnh, lính tráng thế này th́ hỏng rồi, tôi xẵng giọng:
"Đại đội nằm đâu?"
"Ủa, phép ra há mảy, đi tới là gặp liền. Mà đi lẹ lẹ nghe cha nội, coi chừng tụi nó gài "đồ chơi" rồi đó."
"Có máy không, báo là tao về tới, khoan gài."
"Không."
Tiếng không cụt ngủn và có vẻ hơi xẵng. Tôi vừa bực ḿnh vừa buồn cười liên tưởng đến một chuyện cũ. Năm 72, tôi bị thương, trong khi nằm ở tiểu đoàn đợi trực thăng tải thương, có một tay cũng bị thương và đợi trực thăng như tôi xin tôi điếu thuốc và hỏi một câu làm quà:
"ĐM, mày cũng bị thương hả?"
Tay lính này chắc chắn chưa tới hai mươi, mặt mũi c̣n non choẹt và điệu bộ đầy vẻ dê cỏn buồn sừng. Tôi trả lời ậm ừ. Nó hỏi tiếp:
"Mày trung đội mấy?"
"Trung đội 2."
"Tao cũng trung đội 2, mày tiểu đội mấy?"
"Tao ở PC trung đội."
"ĐM, mày tà lọt mà cũng bị thương hả?"
"Ờ, tao trung đội trưởng."
Thằng bé bẽn lẽn:
"Ủa, ông thầy, em đâu có biết."
Dĩ nhiên là nó không biết tôi, và cả tôi cũng không biết nó. Nó là một thằng lính mới ṭ te, rất ṭ te vừa được đưa từ trung tâm huấn luyện Rừng Cấm ra tiểu đoàn, ban Một tiểu đoàn phân phối cho đại đội, thường vụ đại đội chia cho trung đội, trung đội phó nhận rồi đưa ra tiểu đội. Trung đội đang "ủi băi", nó về đến trung đội buổi chiều, buổi tối tôi bị thương, nó đâu thể biết trung đội trưởng là ai được.
C̣n một chuyện nữa, cũng năm 72. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là trung tá Quang. Trên hệ thống truyền tin ông là Quang Trung, nhưng trên cửa miệng của những thằng lính chúng tôi th́ ông là Quang Bóp Cổ. Nghe tên Quang Bóp Cổ phải hiểu ngay ông là nhân vật như thế nào trong đơn vị. Tiểu đoàn nằm ở thôn Bích La bên cạnh bờ sông Vĩnh Định, đại đội tôi nằm ôm tiểu đoàn. Một hôm Việt Cộng chen vào giữa đại đội 2 và tiểu đoàn. Sáng hôm sau chúng tôi đánh bật Việt Cộng ra ngoài đồng trống, thôi th́ lính tráng tha hồ bắn những cái bia di động. Quang Bóp Cổ cũng lấy M-79 ra bắn loạn xà ngầu. Tụi tôi thấy Quang Bóp Cổ thằng nào cũng né, dạt ra một nơi. Chuẩn úy Chiếm lúc đó đang đi OJT trong đại đội, thấy một thằng mặc áo thun ba lỗ bắn M-79 dở ẹc, anh chàng đi tới vừa giựt khẩu súng vừa chửi thề: "Đụ mẹ, bắn như cái con cặc mà cũng đ̣i bắn, đưa đây tao!"
Đó là những mẩu chuyện ngộ nhận, nhưng trường hợp tôi bây giờ lại khác. Trong toán lính này ít nhất cũng phải có một thằng biết tôi; không kể thời gian làm trung đội trưởng, tôi đă làm đại đội phó đại đội 4 này ít ra cũng đă hơn hai năm rồi. Tại sao ngay cả tên chỉ huy cũng không nhận ra tôi? Hay là...
Tôi chạy thật nhanh, lần này th́ chạy thật chứ không c̣n giả vờ ǵ nữa, để kịp về đến đại đội trước khi ḿn và lựu đạn gài chặn lối đi. Tôi chạy một mạch gần hai trăm thước tới chân đồi đại đội, thấy mấy người lính đang từ trên đồi đi xuống, tôi đi ngược lên. Khi tới ngang họ, tất cả dừng lại tránh lối cho tôi đi lên, họ nh́n tôi có vẻ ngạc nhiên, tôi nh́n họ cũng rất ngạc nhiên, tất cả những khuôn mặt đều lạ. Tôi hỏi:
"Đại 4 phải không?"
"Ừa, đại 4."
Một người lính từ trong lều trên đồi bước ra hỏi vọng xuống:
"Ǵ đó bay?"
Tôi bỏ toán lính, đi tiếp lên đồi. Toán lính nh́n nhau rồi nh́n tôi, rồi lại nh́n nhau. Khi tôi đi qua người lính gác, đi tới người lính đứng trên đồi, họ mới tiếp tục đi xuống. Người lính đứng trên đồi hỏi vọng xuống là ông thượng sĩ già. Tôi nh́n kỹ bảng tên, bảng tên màu hồng. Té ra đây là đại đội 4 của tiểu đoàn 7. Rơ chán!
"Thượng sĩ cho tôi gặp đại đội trưởng."
Người lính già trố mắt nh́n tôi, chắc chắn là không hiểu ǵ cả, bảo tôi đứng đợi rồi chui vào cái lều lớn ở giữa sân. Ông ta không hiểu nhưng tôi hiểu là ḿnh đă đến lầm đơn vị, và việc của tôi ngay lúc này là phải gặp đại đội trưởng ở đây để nhờ liên lạc với đại đội tôi cho người đến đón. Nguy hiểm có thể đă hết, nhưng mệt th́ c̣n nhiều. Ông thượng sĩ trở ra, tay cầm đèn được thắp bằng pin của máy PRC-25; một người nữa ra theo, tôi nhận ra người đi sau là Minh, bạn tôi.
"Ê Minh, cho tao gặp đại đội trưởng mày."
Ông thượng sĩ lại trố mắt nh́n tôi thêm một lần nữa, ông ta không thể hiểu tôi là cái giống ǵ Tôi không đeo lon. Tuy nhiên ông ta không nói tiếng nào, lặng lẽ bỏ đi khi nghe Minh nói với tôi:
"ĐM, mày làm cái con c. ǵ mà tới đây giờ này, vô đây phê pháo cái đă, mọi chuyện tính sau."
Tôi theo Minh vào lều nhưng sốt ruột, lại hỏi:
"Tao gặp đại đội trưởng mày đă, phê pháo mẹ ǵ."
"Phê pháo đă mà, ổng đang bận."
"Ủa, bộ mọi chuyện đại đội trưởng mày làm hết hả?"
"Đâu có, đại đội phó làm chứ."
"Vậy ổng bận cái ǵ?"
"Bận tiếp khách."
"Mẹ kiếp, té ra mày là đại đội trưởng à?"
"Chứ c̣n thằng con c. nào vô đây!"
Vừa uống cà phê tôi vừa kể cho Minh nghe chuyện vừa qua, Minh nh́n tôi cười:
"ĐM, mật mày lớn mà mạng mày cũng lớn, lóng rày tụi nó ra hà rầm."
"Lớn cái con củ cải, tao biết chó đâu đó, đến lúc biết đă ngồi cha nó trên lưng cọp rồi."
Tôi nhờ Minh liên lạc với đại đội tôi, nhưng v́ khác tiểu đoàn nên không có tần số để liên lạc, tôi đành phải xin ít đạn và mấy quả lựu đạn để tiếp tục... du lịch. Minh cho mấy người lính đi theo tôi. Về đến chỗ cũ của đại đội, đại đội tôi không c̣n đóng ở đấy, thay vào đó là một toán tiền đồn thuộc đại đội Trinh Sát của sư đoàn - Viễn Thám cũ. Tôi cho lính của Minh về và nhờ một người lính Trinh Sát đưa tôi về gặp trung đội trưởng của họ. Người trung đội trưởng này là một sĩ quan c̣n rất trẻ mà tôi không quen nên anh ta nói chuyện với tôi một cách dè dặt. Tôi phải moi tất cả giấy tờ có trong người như thẻ căn cước quân nhân, chứng chỉ tại ngũ và cả tờ giấy phép có chữ kư của trung tướng Ngô Quang Trưởng cho anh ta xem. Tôi chỉ nhờ anh ta mỗi một điều là báo cáo và cho người dẫn tôi về gặp đại đội trưởng của anh ta. Lại muốn gặp đại đội trưởng!
Tôi nghe rất rơ tiếng ông đại đội trưởng -tôi biết là đại úy Lực- phát ra từ ống liên hợp của máy truyền tin.
"ĐM, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó ǵ. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người Nam."
Tức cười, lúc năy tôi đă dùng cách phân biệt Bắc Nam để phán đoán ta hay địch, bây giờ tôi lại bị người khác dùng cùng một cách để đánh giá tôi là ai. Hỏng bét rồi, tôi là một thằng Bắc Ḱ trăm phần trăm, không sai một ly ông cụ nào, từ giọng nói đến những tiếng tôi đang dùng đều là Bắc Ḱ đặc.
"Ông này Bắc Ḱ nhưng trông cũng có vẻ lính ḿnh."
"Ông cho người mang thằng đó về đây cho tôi."
Mang tôi đi tức là tôi bị tước súng và áp giải như một thằng tù binh. Mẹ kiếp, thằng này chứ có phải thằng nào khác đâu, đâu có chuyện tước súng tôi một cách dễ dàng như vậy được.
Bỗng nhiên tôi nổi giận:
"Này, đừng có làm cái tṛ sỉ nhục nhau như vậy chứ thiếu úy!"
Anh ta cho một người lính dẫn tôi về đại đội Trinh Sát.
Đại úy Lực không tiếp tôi. Ông ta để tôi đứng ngoài sân với người thượng sĩ thường vụ, tiếng ông ta hỏi vọng ra từ trong lều:
"Anh ở đơn vị nào?"
"Đại đội 4 tiểu đoàn 4."
"Chức vụ ǵ?"
"Đại đội phó."
Tiếng ông ta dịu lại:
"Đại đội trưởng anh là ai?"
"Tôi không phải là tù binh để phải đứng ngoài trời này khai lư lịch vọng vào lều cho đại úy. Tôi chỉ nhờ đại úy liên lạc với đại đội tôi cho lính đến đón tôi về."
"ĐM, liên lạc đâu có khó, nhưng tôi phải biết anh là ai chớ!"
"Đại đội trưởng tôi là 369. Đại úy chỉ cần nói là 520 đang ở chỗ đại úy."
Chừng hai phút sau, ông ta nói vọng ra không phải với tôi mà với ông thượng sĩ.
"Ông cho dẫn người này ra chỗ toán của thằng..." (tên người này tôi không nhớ).
Thượng sĩ thường vụ đi gọi người. Lúc này đại úy Lực mới từ trong lều chui ra, ông ta tới bắt tay tôi:
"Thằng Gắt" - đại đội trưởng tôi - "cho người đi đón ông lâu rồi, tôi cho người dẫn ông tới đó."
Tôi cám ơn rồi đi theo người lính dẫn đường. Toán lính đi đón đang ngồi đợi tôi ở ngay chỗ đại đội tôi đóng cũ, vị trí của toán tiền đồn Trinh Sát, nơi mà tôi và mấy người lính của Minh đă đến. Phải chi tụi nó đến sớm hơn một chút hoặc phải chi tôi ngồi chơi với Minh lâu hơn một chút th́ đâu đến nỗi phải đi ḷng ṿng và phải khai lư lịch với bọn "vịt tiềm" này.
Trung sĩ Khang cho tôi biết là họ phải băng ngang làng Đồng Lâm ra đón tôi ngoài quốc lộ, sợ tôi đi qua làng một ḿnh chắc chắn sẽ bị "xé phay" liền. Đợi hoài không thấy, họ phải đi dọc quốc lộ về tiểu đoàn t́m tôi, gặp trung úy Xuân nói tôi đi về chỗ đại đội đóng cũ, sau đó đại đội trưởng cũng gọi máy bảo họ về chỗ này đợi tôi.
"Đại đội nằm đâu, mày?"
"Sau làng Đồng Lâm. Mấy hôm nay ḿnh ăn pháo lia chia!"
"Có thằng nào bị ǵ không?"
"Có mỗi một trái lọt vô vị trí, banh một cái lều c̣n th́ rớt cách ḿnh cả trăm thước. Có điều ban ngày ḿnh không dám căng lều, sợ tụi nó thấy."
Bọn tôi đi tắt đường ruộng về đến đại đội, lính đổi gác cũng đă đến ca áp chót.
…