NHÀ THƠ HỮU LOAN,
LẦN GẶP MẶT
Cung Tích Biền
Sau tháng Tư 1975, tôi có dịp gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ miền Bắc vào Nam. Những cuộc “gặp” lẫn “gỡ” này, cái đinh đóng vô đầu, vui ít buồn nhiều. Vui, là gặp được những người ḿnh từ lâu mong đợi gặp. Lại khá bàng hoàng khi đụng phải những nhà văn nhà thơ từng là các tác gia được “vang bóng một thời”, nay trở thành những cán bộ tuyên truyền, “Nói măi không thôi những điều dân miền Nam nghe muốn ói”.
Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm [1], những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.
Những người bị chế độ đương thời bắt bớ, tù đày là hầu hết những trí thức, văn nghệ sĩ có chủ trương, qua tác phẩm công khai của ḿnh trên báo chí, mục đích chống lại đường lối cai trị độc đoán, đàn áp tư tưởng, thủ tiêu quyền tự do sáng tác.
Nhớ, hôm gặp nhạc sĩ Văn Cao trong một đêm nhạc Sàig̣n chào mừng ông. Ông sinh năm 1923, lúc chúng tôi gặp ông, ông chỉ vừa độ tuổi 60, nhưng quá gầy yếu, mái tóc đă trắng phau, lưng c̣ng, trông như một cụ già gần chín mươi tuổi. Ông rất vui, lại đầy nước mắt, khi nghe-nhạc-của-ḿnh-được-hát, khi được trao những bó hoa với đầy ḷng thương yêu và kính trọng của người Sàig̣n.
Lại gặp quư ông Phùng Quán, Hoàng Cầm, Đoàn Phú Tứ tác giả Màu Thời Gian… nỗi ấm áp, cùng uống cốc cà phê, nghe chuyện. Hóa ra, quư vị ấy rất “giàu chuyện”, tuy dài dặt cuộc đời bị quản chế tư tưởng, cơ cực về đời sống, gian lao trong hành xử một xă hội bị bao vây, tưởng đă “hết chuyện”.
Nhà thơ Phùng Quán gầy ốm nhưng khí lực chừng rất mạnh mẽ. Ông rất trân quư những ǵ là tài sản văn hóa, trí tuệ, tinh thần của Miền Nam. Nhưng ông có cái thói quen gần như một quán tính, lúc ngồi tṛ chuyện ông thỉnh thoảng đảo mắt nh́n quanh, lo lắng. “Chừng như sau lưng, hay bàn kế cận có ai đó theo dơi lời nói, tư tưởng, hành tung của ḿnh”.
Phùng Quán, ông lớn hơn tôi bốn tuổi. Tôi đă thuộc nằm ḷng bài thơ Lời Mẹ Dặn của ông từ 1960, khi thơ văn của Nhân văn – Giai phẩm được phổ biến rộng răi tại Miền Nam:
“Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá”.
**
LỜI MẸ DẶN
Tôi
mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai
mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đ̣n.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
– Con ơi trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
– Mẹ ơi, chân thật là ǵ?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
-
Con
ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
– Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
– Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nh́n tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân
thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt
được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
*
Và, lúc đối diện ông, Phùng Quán giữa trời Sàig̣n, tôi cũng liên tưởng, ngỡ ra nỗi ḷng đau, qua lời thơ của nhà thơ Trần Dần:
“Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tă mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
Máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?”
*
Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Nam, đă có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó thể mô tả cảnh nghèo khó của gia đ́nh ông thuở ấy, lại khó thể h́nh dung ra cái t́nh cảnh cô đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.
Ông vào thăm Sàig̣n khá muộn màng, có thể do điều kiện kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn máy. Ông luôn bảo, “Đèo nhau xe đạp, chậm răi, th́ b́nh an hơn”.
Quán cà phê vườn khá rộng. Khi Duy Th. đưa Hữu Loan tới, quanh bàn chúng tôi đă có Tô Kiều Ngân, Bùi Giáng, mấy anh em văn nghệ, có cả một lúc có hai cô, Huyền Tr. và Thúy V. một cô là ca sĩ, một kia đang là diễn ngâm thơ cho đài phát thanh, trong các chương tŕnh thi ca.
Bùi Giáng ngạo nghễ. Hữu Loan, thoạt nh́n như một pho tượng. Sạm một màu đất nung. Khuôn mặt chữ điền, tóc dài, trán rộng, sống mũi thẳng, cao.
Tôi nghiêng người chào ông. Ông nở nụ cười. Một nụ cười cẩn thận, nói rằng thân thiện là chưa đúng. Một cái bắt tay của giao tế, dè chừng. Sống ở miền Nam, sau cơn dâu bể, nay gặp anh trở về, gặp chị ngoài kia vô, chào một nhà văn xứ Bắc vừa chạm mặt, tôi nhận ra tất cả họ đều có một hành xử khá giống nhau.
Luôn nh́n quanh, ưa quay nh́n lui sau lưng. Nói ít, nói nho nhỏ. Cẩn trọng, đề pḥng. Lâu ngày thành thói quen, trong một chế độ không thể “Trong bụng có ǵ ta có thể nói ra thế ấy”.
“Khó thể thật t́nh tỏ ḷng với nhau, th́ phải nói khéo, nói dối để che chắn sự thật, đậy nắp cái cốt lơi sự việc”. Mèo phải nước sôi phải biết sợ cả nước lạnh.
Hữu Loan có khác. Ông chừng là một bậc tiên đang bị đọa đày xuống cơi trần. Trong đau đớn tột cùng hăy c̣n phảng phất cái thanh cao. Bắt tay nhau, tôi chạm phải một bàn tay thô tháp. Những ngón to, cứng. Gân nổi trên lưng bàn tay. Sau này biết, đôi bàn tay ấy từng đẽo đá, từng đẩy xe cút kít, xe thồ, ṛng ră mấy mươi năm, để sống qua ngày, nuôi vợ con trong t́nh thế một nhà thơ bị vây khổn, bị khủng bố, cái giá treo cổ là không vô h́nh. Tất cả là bóng tối, thất nghiệp cả nhà, đói khát, cơ cực. Là cả hoạn nạn thời thế, cách ly, nghiệt ngă.
*
Hữu Loan, dù gặp mặt ngay đây, cầm bàn tay ấm áp giữa ḷng tay, ông vẫn là một huyền hoặc, với tôi. Như một truyện kể xa lơ, từ thưở tôi c̣n trẻ thơ, thời chiến tranh Việt-Pháp. Chín tuổi, tôi học thổi sáo, đàn mân-đô-lin từ người anh ruột, học thêm lư thuyết từ thầy Lê Khắc Bạc, học ghi-ta với anh Hàn Vĩ, về sau tập kết ra bắc anh là một phó khoa tại Nhạc viện Hà Nội. Theo các anh chị đánh đàn ca hát, tôi ngây thơ mê muội, nhỏ nhoi như con tằm trong nong nia, lẫn lộn với lá dâu xanh. Nhưng thuở ấy tôi đă nghe, chỉ biết nghe, chưa đủ hiểu để cảm bài thơ Màu Tím Hoa Sim của ông.
Thời ấy, những năm đầu khởi chiến chống Pháp, [1946-1949] mọi thứ c̣n hoang mộng. Cả thảy một t́nh yêu nước nồng nàn, toàn dân một t́nh cảm ngây thơ trước những mưu đồ chính trị. Sinh hoạt xă hội, ư thức hệ đối kháng, chưa từng cay nghiệt như những tháng ngày nội chiến về sau. Thuở ấy, ảnh hưởng một nền văn hóa cũ hăy c̣n. Văn thơ, là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo của Tự Lực văn đoàn, là Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… âm nhạc với Thiên Thai, Suối mơ, Giọt mưa thu, Trăng mờ bên suối, Trương Chi…
Cách sống văn hoa lăng mạn của một lối sống trí thức tiểu tư sản hăy c̣n in đậm. Những cụm từ ngày nay đă trở nên sáo ṃn cũ rích, nhưng buổi ấy là những “thanh âm” gợi cảm, gây mê cho bao thanh niên nam nữ trên đường trường chinh, những “Chiều biên khu, trấn thủ lưu đồn, sương biên thùy, chinh phu, chiến bào, sơn khê…”
Thấp thoáng dưới ánh trăng thôn dă là những bản nhạc chép tay chuyền cho nhau, những Dư âm, Nụ cười sơn cước. Tiếng hát Sông Lô. Cung đàn xưa, Làng tôi… Những thơ, Tây tiến, Đôi bờ… Và, đă có Màu tím hoa sim.
Quê tôi, nơi tôi chào đời, làng Văn An, những đồi nương thuở ấy hăy c̣n man mác rừng nối rừng sim. Hữu Loan, tác giả Màu Tím Hoa Sim, đă bồng bềnh h́nh bóng, đă vang động rất xa t́nh thơ trong tôi. Một sưởi ấm xanh lơ.
Bây giờ ông đang trước mặt. Với ly cà phê đen, bữa nay tôi có cái để mà Nhớ Lại, có cái để được Ngắm Nh́n. Hữu Loan, Ông từ đâu tới!
**
Cùng một bàn. Những tách cà phê đă vơi. Sắp mời ông đi tiệc tùng buổi trưa đây. Nhưng cuộc tṛ chuyện càng lúc càng gần gũi hơn, dù ông chỉ lắng nghe, ít phát biểu. Ít cả nụ cười. Ông được đón tiếp nồng hậu. Bùi Giáng khinh bạc nhưng rất mực yêu mến những tài năng, từng rất mê đắm Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà. Lúc này, Bùi Giáng nh́n Hữu Loan một cái nh́n trôi nổi, một ánh mắt có thể gọi là thơ dại, trong ngần như ánh trăng.
Thường khi ngồi uống rượu hay cà phê cùng anh em Bùi Giáng chỉ ngồi một lúc rồi đứng dậy đi nghêu ngao, ra đường chặn xe cộ, đùa chơi. Có khi biến mất luôn chẳng chào chia tay một ai. Hôm nay, Sáu Giáng ngồi rất lâu [*]. Bùi Trung Niên Thy Sỹ một thời trẻ chăn dê nơi núi đồi Quảng Nam, là rất đắm đuối với “Lá hoa cồn”, cùng “Đồi sim trái chín”.
Tṛ chuyện với Hữu Loan, mến ông là một người khá hiểu biết về văn chương, học thuật. Dễ là chốn tri âm, tương phùng. Có thể do ông là người có học hành tử tế, trưởng thành vào thời kỳ nước nhà c̣n lưu giữ những nền móng đạo lư, những thứ vốn văn hóa quư hiếm của giống ṇi.
Gặp ông, ngoài những chia nhau nỗi oan giữa đời, c̣n là một điều khá thú vị, v́ chúng tôi có một cái thói, rất “thoái trào” trong thời đại “cơm áo gạo tiền”, là lúc chung trà chén rượu cùng nhau, chỉ rặt bàn luận văn chương, triết học, âm nhạc nghệ thuật...
*
Một ngày gặp gỡ. Bữa trưa uống một trận bia. Chiều đưa ông thăm chơi đó đây. Buổi tối ghé một quán vườn, rất đông anh em. Sáng hôm sau ông ghé tôi. Chúng tôi cùng uống cà phê, ăn sáng. Nhà tôi ngay đường Nguyễn Huệ nên nhà hàng Givral cũng gần. Vào quán, ông đầy vẻ ngỡ ngàng. Xem thực đơn, ông nói, “Tôi không biết gọi ǵ, anh gọi dùm”.
Tôi gọi cho ông ly cà phê sữa, bánh ḿ vuông, một đĩa thịt nguội, patê, xúc xích. Lúc này chúng tôi cũng đang túng thiếu, nhưng tiếp ông phải “bề thế” tí chút. Chẳng lẽ mấy mươi năm ông nhai củ mỳ ngoài Bắc, giờ này tôi mời ông mấy củ khoai lang trộn bo bo!
Tôi nhường ông ngồi ghế bên trong, nh́n ra đường, quang cảnh góc đại lộ Lê Lợi và Tự Do. “Sàig̣n nó to rộng thế đấy”. Bên kia là Continental khách sạn thuộc loại cổ nhất Sàig̣n, nhà Hát Tây [ṭa nhà Hạ nghị viện thời Cộng Ḥa], khách sạn Caravelle. Ông măi nh́n cảnh đẹp bên ngoài, lại nh́n đĩa thịt nguội. Chừng không muốn ăn. Tôi giục ông ăn chút ǵ kẻo đói bụng. Ông nói:
“Anh cho tôi nh́n một hồi đă. Bao nhiêu năm tôi mới thấy cái món lạ lùng này”.
Ông ăn một cách khó khăn. Chừng từ lâu không quen với dao nĩa. Tôi bèn gọi một đĩa tương tự, rồi bốc mà ăn, ư hô hào ông cùng bốc mà ăn.
Nh́n ông, tôi lại nhớ nước mắt của ông buổi sáng hôm qua. Lúc tṛ chuyện, tôi nói nhỏ với Thúy V. “Em nên ngâm bài Màu Tím Hoa Sim của chính Hữu Loan để tặng ông”.
Trong quán có cây đàn ghi-ta. Vũ D. đệm đàn. Tô Kiều Ngân rút cây sáo trúc “nhà nghề”, d́u giọng người ngâm thơ. Giọng Thúy V. mượt mà, khá trữ t́nh. Nghe ngâm thơ của ḿnh, từ mấy mươi năm bị chế độ cấm phổ biến trên đất Bắc, Hữu Loan ngậm ngùi. Bất ngờ ông bật tiếng khóc.
Khuôn mặt như một phiến đá chỗ ḷng suối cạn. Khó ḷng thấm nước. Nhưng những hạt trong vắt cứ trôi xuống má. Ông có vẻ sờ soạng. Một bàn tay tḥ vào túi. Không có ǵ. Hai bàn tay thô tháp chỉ run run, ông kéo cái chéo áo ka-ki màu chàm, vải nhám, chừng cũng bẩn do mặc lâu ngày, đưa lên lau nước mắt.
Từ rất lâu, ông không có khăn tay. Nghe rằng lúc đẽo đá, những khi lao động cực nhọc, ông chỉ có một tấm áo cũ, rách không c̣n dùng được nữa, giờ dùng làm tấm khăn quàng vai, để lau “cái suối mồ hôi thân ḿnh”.
Những giọt nước mắt hiếm hoi ấy, là của ai vậy?
Của một người yêu nước, từng tham gia cách mạng rất sớm. Mặt trận B́nh dân 1936. Phong trào Việt Minh từ 1943. Là Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn, tháng 8-1945. Rồi, Ủy viên văn hóa tỉnh Thanh Hóa. Là, anh bộ đội trong Đại đoàn 304. Về Hà Nội 1954, đất nước tuy chia đôi, nhưng buổi ấy là thời ngưng tiếng súng đôi bên, Hữu Loan lại cầm bút, tại báo Văn Nghệ.
Là ai khóc vậy?
Là tác giả một bài thơ khá nổi tiếng. Ngay trên đất Bắc, nơi tác giả của nó đang dâng cả một đời ḿnh cho đất nước, đang tận tụy phục vụ, th́ bài thơ ấy bị cấm lưu hành dưới bất cứ h́nh thức nào. Lư do, một tác phẩm tiêu cực, ủy mị, thiếu tính chiến đấu, chẳng Hồng không Chuyên.
Lại lạ lùng, ngay tại Miền Nam Cộng Ḥa, đất thù của phương Bắc, bài thơ lại được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc qua nhiều tựa đề khác nhau, năm này tháng khác, đă hàng triệu người nghe. Dzũng Chinh [Những đồi hoa sim], Phạm Duy [Áo anh sứt chỉ đường tà], Anh Bằng [Chuyện hoa sim]. Duy Khánh – Song Ngọc [Màu tím hoa sim], Thu Hồ [Tím cả rừng chiều]…
**
Lịch sử, Người nước tôi, như tự sơ nguyên định mệnh đă cài lắp những triền miên nội t́nh thù nghịch lẫn nhau, chẳng phép màu nào có thể ḥa/hóa giải. Cho tới hôm nay, vẫn là một chờ đợi khó khăn: “Giờ phán xét cuối cùng”.
Nhân văn – Giai phẩm. Nhà thơ Hữu Loan qua đời vào trung tuần tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 94 tuổi. Phùng Quán ra đi ngày 22 tháng 1 năm 1995. Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997. Cùng những ngày của mùa xuân. Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang...và nhiều nữa… những thành phần trụ cột của Phong trào “Đi T́m tự do tư tưởng, đ̣i hỏi nhân quyền”, là đỉnh cao của văn hóa, cội nguồn, nay đă ra người thiên cổ.
Thiên cổ, là Bên Kia của hiện thực bên này ư? Bên kia, ai có nhớ về? Hoài niệm, bảo tôi nghĩ và viết những ḍng này.
Cung Tích Biền
Sàig̣n 1987
Little Saigon, California 2017