Đặng Tiến
Nguyễn Bắc Sơn
Đọc lại thơ Miền Nam, ba mươi năm sau ngày chiến tranh kết liễu :
Mai ta đụng trận ta c̣n sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Đây là một đoạn thơ Nguyễn Bắc Sơn đă từng làm xao xuyến dư luận khi xuất hiện trên báo giới Sài G̣n khoảng 1970, như trên tuần báo Khởi Hành của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Nhiều người đọc, nhất là giới thanh niên, ngạc nhiên và sảng khoái trước những lời thơ ngang tàng, bi tráng, ư thơ u uất, kiêu bạc, bất cần đời. Câu thơ phơi trải tâm trạng một lớp thanh niên Miền Nam, vào thời điểm quyết định của chiến tranh – và từ đó – làm chứng từ cho một khía cạnh của cuộc chiến kéo dài non hai mươi năm.
Tâm trạng kia và chứng từ nọ đă được ghi lại trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi xuất bản năm 1972[1] thời đó đă ít người được đọc trực tiếp nguyên tác ; bây giờ dĩ nhiên là tuyệt bản.
Năm nay nhiều cơ quan tổ chức kỷ niệm ba mươi năm chấm dứt chiến tranh (1975-2005), tưởng cũng nên đọc lại chứng từ Nguyễn Bắc Sơn. Th́ may thay, các bạn ở nước ngoài đă sưu tầm và tái bản tập thơ để tặng biếu bạn bè. Đây là một việc làm cao đẹp, đi từ t́nh bằng hữu thủy chung và nồng nhiệt đến việc bảo tồn văn học lâu dài, bên ngoài mọi ư đồ chính trị. Thậm chí cái năm 2005 kỷ niệm này có lẽ cũng chỉ là t́nh cờ so với việc tái bản. Việc làm như thế đáng được giới thiệu rộng răi và nhiệt thành cổ vũ [2].
Nhiều người nhớ đoạn thơ nói trên v́ tâm tư một thời đại, nhưng nó tồn tại lâu dài trong tâm thức người đọc là nhờ giá trị nghệ thuật – bên cạnh giá trị lịch sử mà không ai chối căi.
Điển h́nh cho thi pháp Nguyễn Bắc Sơn là từ vựng : câu đầu trên 7 chữ, đă có 5 từ diễn tả niềm hoang mang trước cuộc sống mỏng manh, bao quanh một chủ từ « ta » phù du hiu hắt ; « mai » là cuộc sống đếm từng ngày ; động từ « đụng » vừa chủ động : có đi mới đụng, vừa thụ động v́ có tính cách t́nh cờ, tai hại ngoài ư muốn : « anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay ». Người lính đụng trận như người thường đụng xe, đụng mưa ; b́nh thường, chính xác hơn, người khác sẽ nói : đụng giặc, đụng địch. Nhưng trong thơ Nguyễn Bắc Sơn không thấy có đối phương. Trong câu sau Sông Mao là một thị trấn nổi danh v́ chiến tranh : từ 1955 Sư Đoàn 5, người Nùng đóng ở đó, với khu gia binh di cư vào, và đời sống mang sắc thái riêng, về sau là các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Do đó địa danh Sông Mao, tự nó đă có âm hưởng chiến tranh, và quả thật nơi đấy « có nhiều nhà điếm và nhiều trại lính » (tr. 11) như lời thơ Nguyễn Bắc Sơn.
Nói phá phách chơi là phách lối chơi, nói cho hả, nói cho đă, chứ Nguyễn Bắc Sơn là binh nh́ Địa phương Quân « hiền khô, lính cậu » th́ sức vóc bao nhiêu mà phá phách, nhưng giọng thơ ngang tàng ở đây pha lẫn một ít Lương Sơn Bạc, Tiếu Ngạo Giang Hồ với tính cách lê dương mà tác giả, sinh năm 1944, c̣n ghi trong kư ức ; « đốt tiền » cũng là lối nói ngông, như Nguyễn Bính « tiêu hoang cho đến hết », nhưng chữ « đốt » ngông cuồng, nóng nảy hơn, phục vụ đắc lực cho ư đồ « mua vội một ngày vui » với những âm môi m, v mấp máy và luyến láy, như hấp ta hấp tấp.
Tâm t́nh tác giả buồn vui lẫn lộn, mâu thuẫn : chia sớt nỗi buồn nghĩa là nỗi buồn tràn bờ, nỗi buồn hiện hữu làm căn bản cho cuộc sống. Sau trận đánh c̣n sống, tự thân nó, chưa phải là niềm vui, cho nên phải đốt tiền để mua vui. Ở một bài thơ khác, tác giả nói rơ :
Một trẻ con mới sinh
Chắc ǵ là một điều đáng vui
Một người chết
Chắc ǵ đă là điều đáng tiếc (tr. 25)
Một câu thơ khác, hào sảng, bi tráng hơn :
Đời ḿnh như ly rượu cạn,
Hắt toẹt đời đi chẳng nhíu mày (tr. 58)
Hắt toẹt là một h́nh ảnh khinh bạc chưa từng thấy trong thơ Việt Nam.
Đời đáng sống hay không đáng sống là câu hỏi đă ngàn năm của loài người. Nhưng ở mỗi thời điểm nó dấy lên nét bi đát riêng. Vào khoảng 1970 hơi thơ Nguyễn Bắc Sơn tính phi lư và bi kịch đă được chiến tranh, vào giai đoạn cuối, nâng tầm lên cao điểm.
Có nhiều lối nh́n khác nhau về bản chất cuộc chiến, thịnh hành nhất vẫn là lối nh́n từ bên chiến thắng. Đây là cách nh́n của Nguyễn Bắc Sơn :
Chiến tranh này cũng chỉ một tṛ chơi
Suy nghĩ làm ǵ lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc.
Đây là tṛ chơi súng đạn, sống chết và hai đối thủ xem nhau như cừu thù :
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm ḿnh
Ăn muối đá mà điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ư nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi v́ ngươi bạc phước
V́ căn phần ngươi xui khiến đó thôi..
Đây là kinh nghiệm đánh chác :
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hăy tựa gốc cây, hăy ngắm mây trời
Hăy tưởng tượng ḿnh đang đi pic nic
… Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh.
(Trích từ bài Chiến Tranh Việt Nam và Tôi, tr. 38)
Sau cuộc chiến, nhà thơ Cao Tần di tản sang Mỹ, hồi tưởng lại đời lính, cũng chẳng khác chi Nguyễn Bắc Sơn :
Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lư
Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai
(Cảm Khoái, 1977) [3]
Nguyễn Bắc Sơn không lừng khừng triết lư, mà để hồn ḿnh bay bổng ra khỏi nhân gian :
Đêm nằm ngủ vơng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong ḷng ḿnh bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu
Khổ thơ này cũng như đoạn « mai ta đụng trận » trích ở đầu bài nằm trong một bài thơ mang tên Mật khu Lê Hồng Phong, một chiến trường ác liệt, chạy dài khoảng 40 cây số dọc biển, từ Phan Thiết đến Phan Ri. Nơi đây, năm 1970 đă xảy ra nhiều cuộc ác chiến – phần nào để giải tỏa bớt sức ép của chiến trường Căm-Pu-Chia vừa mới mở ra. Trước trận Sông Mao này không lâu, th́ Thiện Giáo, 1969, cũng là chiến trường ác liệt.
Chiều Thiện Giáo hồn ḿnh đầy bóng núi
Con đường ḿn ươm vết máu đơm khô
Nhưng nhà thơ « lao đao » v́ bị lắc lư trong trực thăng nhiều hơn v́ lo toan về chiến cuộc, vẫn thả hồn phiêu lăng :
Đêm ngủ đổ ngâm thơ cùng đại bác
Hồn lao đao trong chuyến trực thăng bay
Đâu có chắc mặt trời mai sẽ mọc
Trời rây mưa lành lạnh khiến thèm say
Và anh ngờ vực viễn tượng ḥa b́nh – trước sau ǵ cũng phải đến với ḥa hội Paris đang hứa hẹn :
Chiến tranh quá dài nên người quá khác
Không thể mừng vui khi tiếp rước ḥa b́nh
Đêm đen quá dài nên người quá khác
Không thể nào tin sẽ có b́nh minh
Hai ông Sơn Trịnh và Sơn Nguyễn, cùng thế hệ, cùng tâm trạng nên có nhiều ư tưởng hao hao. Trịnh Công Sơn, 1968, cũng có hát : đêm nay ḥa b́nh sao mắt mẹ chưa vui ? Do đó, Nguyễn Bắc Sơn giữa chiến trận ngâm thơ cùng đại bác, đồng thời cũng lắng nghe :
Chảy trong ḷng men nhạc Trịnh Công Sơn
Đêm không ngủ trong những ngày băo táp
Ôi những ngày máu ứa xác quê hương...
Tôi hởi tôi xin đừng chết nhé
Bóng ḥa b́nh thấp thoáng ở miền Nam.
(tr. 45)
Thơ trích từ bài Nhắc đến Ma Lâm, một thị trấn gần Phan Thiết, địa danh nghe ma quái như con sông Ma Hư gần đó :
Buổi chiều uống nước đồng Ma Hư
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang Khinh
Câu thơ nghe rờn rợn : Thằng Xuân, thằng Mang Khinh là ai ? đồng đội hay đối phương ? quan hệ thế nào với tác giả ? Chữ “thằng” nghĩa là ǵ ? bắn chết trong hoàn cảnh nào ? Ở đây, sao cái chết dễ dàng quá, như trong một bài hát “chết chẳng hẹn ḥ, chết thật t́nh cờ, nằm chết như mơ”. Câu hát Sơn Trịnh là một h́nh ảnh văn học, ví von đúng quy cách, người nghe nắm bắt trọn vẹn ư nghĩa mà không thắc mắc. Trái với câu thơ Sơn Nguyễn trần trụi, bất ngờ. Bản thân tôi có kinh nghiệm đọc thơ, cảm nhận bi kịch trong câu thơ và nhận diện được câu thơ hay, mặc dù (hoặc bởi v́) không hiểu cặn kẽ ư nghĩa cụ thể của sự kiện được tường thuật. May mắn là được tác giả kể lại câu chuyện. Trong một cuộc hành quân cấp đại đội, anh đi làm thông dịch cho cố vấn Mỹ; đến một con suối th́ dừng quân xuống tắm. Mang Khinh là một đồng đội gốc Chăm đứng chơi trên bờ. Xuân là trung đội trưởng, nghe thấy hay nh́n thấy động tĩnh ǵ đó, bèn lia một tràng đạn về phía khả nghi. Mang Khinh đứng chơi lớ ngớ bên bờ suối lănh đủ băng đạn. Nhà thơ bơi nhởi trong ḷng suối th́ không việc ǵ, bàn luận về tử sinh, trong hai câu tiếp theo :
Hỡi ơi sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh ḿnh.
(tr.37)
Bài Thảo Khấu này, câu kết thật hay, b́nh thường nhưng thấm thía v́ nhân đạo, nhưng cũng v́ những cái chết phi lư mà Nguyễn Bắc Sơn đă kể ra tưng tửng :
Chiến chinh chinh chiến bao giờ dứt
Sắt đá ồ sao lại nhớ nhà
(tr. 37)
Nhạc Trịnh Công Sơn được người đời đặt tên là phản chiến. Nguyễn Bắc Sơn thẳng thừng tự xưng ḿnh như vậy :
Trong thành phố này ta là người phản chiến
Ngày qua ngày ta chỉ thích đi câu (tr. 32)
Bài thơ mang một tiêu đề tiêu biểu : cười lên đi tiếng khóc bi hùng.
Lư do phản chiến th́ nhiều: có khi v́ lư tưởng ḥa b́nh cao đẹp, có khi v́ quan điểm chính trị, có khi v́ sợ chết, sợ khổ. Nơi Nguyễn Bắc Sơn có thể c̣n lư do riêng : thân phụ anh đi kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Có thể ông lại vào Nam chiến đấu, và khách quan, có khả năng là đối tượng trước mũi súng Nguyễn Bắc Sơn, và anh khó bề dễ dàng, an nhiên “nhắm thẳng đầu thù mà bắn” như một khẩu hiệu có từ 1964.
Trong thực tế, ông cụ đă vào Nam chiến đấu “phía bên kia”, cùng trong một địa bàn với con, ở cương vị phó chủ nhiệm cục chính trị quân khu 6. Trung ương T́nh Báo Việt Nam Cộng Ḥa có lẽ cũng biết được nên đă đưa Nguyễn Bắc Sơn ra đơn vị chiến đấu. Sau ngày kết thúc chiến tranh, người cha đă trở về đoàn tụ với gia đ́nh, trên cấp bực đại tá quân đội nhân dân. Ông có bao che cho con cái và bạn bè của con, trong cùng cảnh ngộ, như Lê Mai Lĩnh bị tù cải tạo đến cuối 1983, gần đây c̣n chân thành kể lại[4] .
Ông cụ qua đời trong một tai nạn xe hơi đă gây nhiều nghi vấn. Nguyễn Bắc Sơn có làm bài thơ nhớ bố :
Bố tôi qua đời đúng năm năm
Tôi viết thơ này
Để tâm sự cùng người khuất núi
Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng
Ông càng làm cách mạng chừng nào
Th́ loài người càng thêm sặc máu
Tôi ước mơ cơi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Th́ loài người càng xấu xa chừng nấy.
Bố ơi bố đă ra về
Con ở lại làm thơ và chữa bịnh
Chúng ta đến nơi này để phát huy một tấm ḷng son
Thành hay bại chỉ là chuyện vặt.
(Trích theo Lê Mai Lĩnh, số báo đă dẫn)
Cái chết của Mang Khinh và hoàn cảnh bố con Nguyễn Bắc Sơn nhắc lại một câu chuyện Vơ Phiến kể, cũng trong năm 1972, trong đó anh tóm tắt số phận người dân Việt Nam trong ba mươi năm chiến tranh, qua cái chết của hai anh em nhà kia, trong một câu súc tích, ngắn gọn đến tàn nhẫn “kể chết do cối, người chết do câu” [5]. Câu chuyện như sau : có hai anh em nhà kia, người anh đi dân vệ ở trong đồn, chết v́ đạn súng cối bên ngoài nả vào, gọi là “mọt thụt” ; đứa em nhỏ lui cui trong vườn trúng đạn trọng pháo trong đồn “câu” ra. Rồi Vơ Phiến thắc mắc : kẻ chết do cối người chết do câu, đố ai biết được giữa địch ấy và ta ấy, có cái ǵ khác nhau trong “tư tưởng”. Nhưng không phải v́ lẽ không t́m được sự khác nhau mà bà con trong làng không giết nhau. (bài đă dẫn).
Vơ Phiến là nhà văn chững chạc, lập trường kiên định, không giống Nguyễn Bắc Sơn, kẻ làm thơ đôi khi biến thành du đăng ; nhưng cái nh́n về cuộc chiến, trên cơ bản, không khác nhà thơ. V́ vậy, từ 1970, Vơ Phiến đă có bài giới thiệu thơ Nguyễn Bắc Sơn trên báo Bách Khoa, số Xuân Canh Tuất, 1970, in lại trong Chúng Ta Qua Cách Viết, 1972. Năm 1994, ở Mỹ, anh c̣n viết bài ca ngợi thơ mới làm sau này của Nguyễn Bắc Sơn mà dường như anh không quen biết [6].
***
Chiến tranh, sau này ta mới biết, để lại những vết thương nan y, trên cơ thể và trong tâm hồn. Không cứ ǵ ở Việt Nam mà c̣n hoành hành nhiều nơi khác trên thế giới. Nguyễn Bắc Sơn đă tiên cảm được điều này :
Ta mắc bệnh ung thư thời chiến
Thoi thóp c̣n một trái tim khô
Sợ hăi con người hơn thú dữ
Nh́n nơi nào cũng thấy hư vô
Mai kia trong những ngày ngưng chiến
Ta chắc rằng không thể yêu ai
Nhà thương điên nếu c̣n chỗ trống
Xin chiếc giường cho xác tàn phai.
(tr. 52)
Nhưng rồi chiến tranh kết thúc, nhà thơ vẫn sống b́nh thường, bên cạnh vợ con, trong ngôi nhà xưa, thành phố cũ là Phan Thiết :
Ta may mắn tay chân lành lặn
Nhưng tâm hồn trống rỗng bơ vơ
Mỗi ngày chữa bệnh bằng ly rượu
Tối nằm đánh vật với cơn mơ.
(tr. 51)
Thỉnh thoảng trong đêm mù thác loạn, Nguyễn Bắc Sơn có những cơn khủng hoảng, nghe đâu có nhảy lầu tự tử hụt đôi ba phen. Nhưng thơ anh, như bài Tâm Hồn Trẻ Thơ kể chuyên đi hớt tóc, làm khoảng 1990, vẫn c̣n hào khí sung măn, đoạn cuối thanh thản :
Dường như đứa trẻ ngh́n năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc c̣n nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua.
Một đứa trẻ con, một Lăo Ngoan Đồng nào đó, hay sao Thiên Đồng đă cứu mạng Nguyễn Bắc Sơn, và giải thoát nhiều người trong mỗi chúng ta.
***
Thơ có tuổi và chiêm bao có tích, Hàn Mạc Tử nói thế, chắc cũng là cao hứng, nhưng câu thơ gợi lên một chân lư thâm hậu. Thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng như bất cứ ḍng thi ca nào đều có cội nguồn, đều đón nhận những mạch nước gần xa. Nguyễn Bắc Sơn suốt đời quanh quẩn trong quê nhà B́nh Thuận, hành quân, đánh chác loanh quanh những Sông Lũy, Ma Lâm. Về mặt địa dư nguồn thơ hào sảng, ngang tàng, gần anh nhất là bài thơ Tống Biệt do Phan Khôi trích dẫn của một thi nhân B́nh Thuận :
Trái mù u trên núi
Chạy xuống cửa Phan Rang
Ông đi về ngoài nớ
Trong ḷng tôi chẳng an.
Bao giờ ông trở vô
Gặp tôi ở giữa đàng
Nắm tay nói chuyện chơi
Uống rượu cười nghênh ngang [7]
Phan Khôi không tiết lộ tên tác giả, đời sau cứ xem như là thơ Phan Khôi, v́ giọng thơ ngang tàng giống ông.
Bài thơ tân kỳ, hào hứng ; từ vựng hồn nhiên, mới mẻ, nhịp thơ phóng túng, nhanh nhẹn, khí thơ đi liền một mạch ; thơ làm vào những năm 1930 mà ngày nay ta vẫn thấy mới lạ. Và cái hào khí ở đây không khỏi nhắc ta nhà thơ B́nh Thuận Nguyễn Bắc Sơn.
Lần lên xa hơn nữa, theo lịch sử th́ thơ cổ Trung Quốc đă có truyền thống trầm hùng, nhiều trước tác về chiến tranh như bài Văn điếu Chiến Trường Cũ của Lư Hoa, đầu đời Đường, nhưng được truyền tụng nhiều nhất là thi phẩm của Phái Biên Tái như Sầm Tham, Cao Thích. Gần Nguyễn Bắc Sơn nhất là bài Lương Châu Từ của Vương Hàn :
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Phỏng dịch :
Rượu hồng đêm ngọc chén lưu ly
Men bốc tỳ bà ngựa dục đi,
Dặm cát say khoèo ai chớ riễu
Những bao chinh chiến những ai về.
Nguyễn Bắc Sơn cũng có tâm t́nh na ná :
Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoáng đă ở phương Tây
Nếu ta lỡ chết v́ say rượu
Linh Hồn chắc sẽ thành mây bay
(Mật khu Lê Hồng Phong)
Thơ chinh chiến của cổ nhân là thơ quan quyền; ra quân phải có nhạc tỳ bà trên lưng ngựa; rượu th́ phải Bồ Đào. Thơ Nguyễn Bắc Sơn là thơ lính, ra quân không đua đ̣i Mỹ Tửu nhưng phải có “đế Nùng” đặc sản do người Nùng địa phương Sông Mao sản xuất từ các trại gia binh.
Khi tao đi lănh khẩu phần
Mày đi mua rượu đế Nùng cho tao
Chúng ḿnh nhậu để trừ hao
Bảy ngày sắp đến nghêu ngao trong rừng
Mùa này gió núi mưa bưng
Trong ḷng thiếu rượu anh hùng nhát gan
Mùa này gió bụi mưa ngàn
Trong ḷng thiếu rượu hoang mang nhớ nhà
(Một Tiếng đồng hồ trước khi lên đường hành quân)
Ư thơ b́nh dị, lời dân dă, nhưng vẫn một giọng ngông nghênh, phúng thế và khắc họa một h́nh ảnh trong tâm lư thời chiến.
Trong ḍng thơ Việt Nam, tác gia gần Nguyễn Bắc Sơn nhất có lẽ là Tú Xương, với lối thơ ông tớp rượu vào ông nói ngông. Tú Xương dùng thể tự sự, tự riễu ḿnh để mô tả thời thế. Lời thơ chua cay, khinh mạn :
Hán tự chẳng biết Hán
Tây tự chảng biết Tây
Quốc ngữ cũng dốt đặc
Thôi th́ về đi cày
Trồng khoai rồi trồng đậu
Cấy chiêm lại cấy mùa
Ăn không hết th́ bán
Bán đă có Tây mua.
Được tiền th́ mua rượu
Rượu say rồi cưỡi trâu
Cưỡi trâu thế mà vững
Có ngă cũng không đau.
Từ cách xử lư cuộc đời, lối nh́n vào xă hội, đến cách sử dụng ngôn ngữ, Tú Xương báo trước một Nguyễn Bắc Sơn, “ thằng ta đây” :
Bạn mày nằm nhà thất nghiệp dài
Mẹ già không tính tiền cơm thuốc
Ngày xưa văn nghệ ta mê làm
Cách mệnh c̣n hăng say vượt bực
Giờ tối nằm mơ chỉ thấy tiền
Nhân nghĩa ǵ ǵ quên tuốt luốt
Thèm tiền song quả đứa vô tài
Nên thằng ta đây chỉ có nước
Mỗi tuần một vé số mười đồng
Thê thảm ôi làm sao tả được
Hai ta cùng quẩn như thế này
Nhắc làm chi nữa cho tủi nhục
Vậy xem như ḿnh đă chết rồi
Chí lớn mộng to đều đă vứt
Quên trời quên đất quên luôn ta
Dăm đồng rượu trắng cùng say khướt
(Bài Hát Khổ Nhục, tr. 56)
Bạn ở đây là một người lính từ chiến trường về : thất thểu chỉ c̣n xương với cốt / chinh chiến sao mày không chết tốt.
Trong văn chương truyền thống, t́nh bạn thường là quan hệ trí thức : tri âm như Bá Nha, Tử Kỳ, tri kỷ như Montaigne, La Boetie, khoa giáp như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê. Dù có phải bưng thúng theo đàn bà, th́ Nguyễn Vỹ và Trương Tửu vẫn tự hào về nghề văn nghiệp bút. Gần Nguyễn Bắc Sơn hơn, Hoàng trúc Ly có viết Ngươi bên chân trời đánh giặc mướn / Ta theo cuộc đời đi viết thuê th́ hành trạng, hành trang vẫn trí thức.
Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, t́nh bạn không có quy chế xă hội, bạn bè là một lớp bụi đời, bên lề xă hội, bên lề đường chinh chiến, như hạt bụi nằm con gió trớt. Họ là những mảnh vỡ mà cuộc đời vun lại bên nhau :
Có khi nghĩ trời sinh một ḿnh ta là đủ
V́ đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để quàng vai ấm áp cuộc rong chơi
(Mai sau dù có bao giờ, tr. 30)
Thậm chí t́nh yêu cũng vậy, nó nằm ngoài quy chế văn học dù truyền thống hay lăng mạn, tân thời :
Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng v́ sao ta lại yêu em ?
Ôi mắt em nh́n như là bẫy chuột
Ta quàng xiên nên đă sa chân
Chuyện t́nh yêu bẫy chuột này trích từ bài Trên đường tới nhà Xuân Hồng, tức là phu nhân tao khang của nhà thơ từ xưa đến nay.
Trong ḍng thơ ngang tàng trước Nguyễn Bắc Sơn phải nhớ Độc Hành Ca của Trần Huyền Trân làm năm 1940 :
Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao
… Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang trời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Trong trường phái khí phách giang hồ này Thâm Tâm có bài Tống Biệt Hành nhiều người biết, ông c̣n những bài Tráng Ca, Vọng Nhân Hành, và nhất là Can Trường Hành, báo hiệu Nguyễn Bắc Sơn
Phiếm du mấy chốc đời như mộng
Ném chén cười cho đă mắt ta
Thà với măng phu ngoài bến nước
Uống dăm chén rượu, quăng tay thước
Cái sống ngang tàng quen bốc men
Vào thời điểm bài thơ này, 1944, Nguyễn Bính vốn thân thiết với Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, đă sáng tác bài Hành Phương Nam nổi tiếng, trong cùng một nguồn thi hứng :
Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Đă dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Nhưng trong lối thơ chếnh choáng hơi men này, đặc biệt nhất – không phải hay nhất – là bài Gửi Trương Tửu mà Nguyễn Vỹ sáng tác trong cơn say, trộn lẫn văn chương với chả cá.
Chúng tôi nghĩ : đặt Nguyễn Bắc Sơn vào một ḍng thi ca đă trường lưu, là một cách đánh giá nghiêm chỉnh và thông thoáng một tài thơ được khoanh vùng trong một hoàn cảnh chính trị và xă hội hạn hẹp. Và cũng giúp ích cho người đọc thưởng thức văn chương bên ngoài những chấn động của lịch sử.
***
Vào khoảng 1970, khi thơ Nguyễn Bắc Sơn xuất hiện và gây ngạc nhiên, nhiều người cho rằng có hơi hướm thơ Quang Dũng, có lẽ v́ đề tài chiến tranh và lời thơ bi tráng. Nhưng xét kỹ th́ không đúng : thơ Quang Dũng lăng mạn và lư tưởng, thơ Nguyễn Bắc Sơn ngược lại, phi lăng mạn và phi lư tưởng. So với các nhà thơ khác, mà chúng tôi vừa trích dẫn, thơ Nguyễn Bắc Sơn cũng có nét khu biệt, là chất bụi đời, mà nhà thơ tự cho là “du đăng”. Tống Biệt Hành là thơ để đời ; Nguyễn Bắc Sơn là thơ bụi đời. Độc Hành Ca là loại thơ “miếu đền”, Nguyễn Bắc Sơn là thơ lề đường, quán sá. Xă hội, hoàn cảnh Miền Nam thời đó đă tạo một nguồn cảm hứng như thế và chỗ đứng cho một thể loại bất cần đời như thế. Và dư luận thời đó, của những nhà văn tên tuổi có thế lực văn học, lập trường chính trị vững vàng, như Vơ Phiến trên Bách Khoa, Chu Tử trên báo Sống, Doăn Quốc Sĩ trên báo Văn, đă đồng loạt hoanh nghênh [8].
Sau 1975 Nguyễn Bắc Sơn có bài Một Ngày Nhàn Rỗi :
Buổi sáng mang tiền đi hớt tóc
Vô t́nh ngang một quán cà phê
Giang hồ hảo hán dăm thằng bạn
Mải mê tán dóc chẳng cho về
Về đâu, đâu cũng là đâu đó
Đâu cũng đ́u hiu đất Hán Hồ
Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ
Ba ngh́n thế giới cũng chưa to
Vẫn một giọng thơ, một cốt cách, một phong thái. Vơ Phiến, hai mươi năm sau cuộc chiến, có đủ b́nh tâm và khoảng cách để nh́n lại thơ văn và tâm t́nh một thời đại và thông hiểu thấu đáo hiện tượng Nguyễn Bắc Sơn, trước sau như nhất, “cũng cái ngông nghênh ấy” :
“Ngày trước trong chiến tranh, ông kể chuyện chơi tṛ nổ súng cắc cù rất độc đáo ; ngày nay ḥa b́nh thiên hạ hớt hơ hớt hải lăn xả vào cuộc giành giật đồng tiền, th́ ông nói chuyện hớt tóc cạo râu : lại rất độc đáo.
Thành thử giữa ông Nguyễn Bắc Sơn trong chiến tranh và ông Nguyễn Bắc Sơn sau chiến tranh vẫn có một chỗ nhất trí. Tuy hai mà một. Do hoàn cảnh khác nhau nên đề tài câu chuyện khác nhau ; nhưng phong thái vẫn một thôi. Phong thái ấy khiến cho thời chiến ông là kẻ phản chiến, thời b́nh ông thành kẻ phản lao động. Thực ra thơ ông phát biểu về một thái độ sống, không phải chỉ là một thái độ đánh nhau hay một thái độ làm lụng. Sống là nhẹ, không phải chỉ riêng : đánh nhau là giỡn, là nhẹ. Đời không có nghĩa phải quấy. Một khi đời đă không có nghĩa, th́ mọi hoạt động ở đời (kể cả chiến tranh) đều vô nghĩa. Hoặc giả nó có được trao cho ư nghĩa th́ ông cũng không lư đến. Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ; bắn nhau cắc cụp lỡ có trúng đạn chết tươi cũng là chuyện nhỏ thôi”. (1994) [9]
Làm sao mà Vơ Phiến có thể viết sành sơi ngon lành như thế về Nguyễn Bắc Sơn ? Xin thưa : v́ anh tự viết về ḿnh đó thôi. “Đời không có nghĩa phải quấy” là tư tưởng của Vơ Phiến, là sợi chỉ xuyên qua nhiều tác phẩm của anh. Nhưng áp dụng vào thơ Nguyễn Bắc Sơn th́ đúng boong.
Nói vậy để thấy rằng tâm t́nh Nguyễn Bắc Sơn gửi gắm qua thơ là phổ biến, là niềm phân vân tự nhiên của nhiều người, của con người trước cuộc sống. Cơn băo lịch sử đă thổi tạt cái b́nh thường đến chỗ lạ thường, biến thành biệt lệ văn học : sắt đá ồ sao lại nhớ nhà...
Tâm t́nh ấy được Nguyễn Bắc Sơn diễn đạt bằng một phong cách nghệ thuật tài hoa, vừa hồn nhiên vừa bi tráng. Kinh nghiệm sống chết hằng ngày được thăng hoa qua một thi pháp tươi trẻ mà già dặn.
Tác phẩm Nguyễn Bắc Sơn, bên dưới những chứng từ lịch sử, là những bài thơ hay, trong lối văn “ thốn tâm thiên cổ ”.
Tấc ḷng lưu vọng ngàn năm.
Đặng Tiến
Orléans, ngày 11/9/2005
[1] Nhà xuất bản Đồng Dao, 1972, Sài G̣n. In lại 1995, có sửa đổi và bổ sung, dưới một cái tên khác : Ở đời như một nhà thơ Đông Phương., nxb Đồng Nai, TPHCM.
Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn tên thật là Nguyễn văn Hải, sinh 1944 tại Phan Thiết, hiện cư ngụ cùng gia đ́nh tại Phan Thiết
[2] Nhà xuất bản Thư Ấn Quán, 2005. Liên lạc : Trần Hoài Thư, P.O. Box 58, S. Bound Brook, NJ 08 880.
[3] Cao Tần, Thơ Cao Tần, nxb Tin Yêu, tr. 41, Seattle, 1984.
[4] Lê Mai Lĩnh, tạp chí Thư Quán Bản Thảo, tr. 67, tập 20 tháng 7-2005, New Jersey, USA.
[5] Vơ Phiến, Nhớ Làng, đăng trong tạp chí Chính Văn, tr. 49, số 1 tháng 7-1972, Sài G̣n. In lại trong Quê, nxb Văn Nghệ, 1993, California.
[6] Vơ Phiến, Thơ Miền Nam, tập II, tr. 51, nxb Văn Nghệ, 1995, California in lại trong bộ Văn Học Miền Nam, Thơ, tr. 1927-1935, nxb Văn Nghệ, 1999.
[7] Phan Khôi, Chương Dân Thi Thoại, nxb Đắc Lập, 1936, Huế. Vũ Ngọc Phan trích lại, Nhà Văn Hiện Đại, quyển II, tr. 238, nxb Tân Dân, 1942. Nxb Khoa Học Xă Hội in lại, tập I, 1989, Hà Nội.
[8] Ng, Thư Quán Bản Thảo, tạp chí, số đă dẫn, tr. 86
[9] Vơ Phiến, Thơ Miền Nam II, sđd.