Mai Ninh
Làng bảo lão ấy gàn. Lão Bỉnh cười hềnh hệch, gắp miếng dồi chó chấm bát mắm tôm vắt chanh. Hơi rượu bốc mau, mặt lão đỏ bừng bừng. Một mình lão bên mâm rượu bâng khuâng nhìn bụi chuối bên cầu ao: tàu chuối xanh lè, bèo dưới nước cũng xanh. Sáng hôm sau lão khoác túi nải vào núi tìm kho báu.
Từ dạo làng được Tỉnh Ủy tuyên dương Làng Văn Hóa người ta vẫn bỏ làng lên thành thị kiếm kế sinh nhai. Cuộc sống nông thôn đói kém háo hức mơ văn minh bột giặt, máy lạnh, nước giải khát và điện thoại cầm tay. Bây giờ đổ xô về chốn đô hội kiếm phồn hoa (dẫu có giả tạo) chứ ai người ta ham hố vinh quang nơi đồng bái quê mùa. Bọn trẻ nghe hai chữ Văn Hóa bĩu môi, thật ra có mẹ gì: vào năm Đinh Vị (1787) Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm, con rể Nguyễn Nhạc, đem quân ra Thăng Long thanh trừng Đại Tư Đồ Nguyễn Hữu Chỉnh; Vũ Văn Nhậm trên đường ra xứ Bắc Hà có ghé ngang qua làng. Cụ tổ cái lão gàn bướng kia đã đem hiến ông Nhậm con ngựa hạc, gọi là góp của giúp nhà Tây Sơn phò vua Lê diệt kẻ cậy công chuyên quyền. Tương truyền rằng đấy là con tuấn mã nổi tiếng khắp một vùng, lông xám mượt như nhung, chạy trăm dặm không bết. Con ngựa ấy do một người Hoa để lại: khách trú lưu lạc trời Nam chẳng may lâm bệnh hen thổ huyết, cụ tổ lão Bỉnh thương tình đem về nhà chăm sóc. Khách lên cơn sốt, vật vã suốt hai ngày hai đêm. Trống điểm canh tư đêm thứ ba, biết mình không qua khỏi căn đọa, người nọ thều thào trăn trối cùng cụ tổ lão Bỉnh và trao cho cụ cái gói bọc da. Mở ra trong gói thấy quyển kinh. Đoạn khách trú xin được nằm xoay đầu về phương bắc, trống báo canh năm hộc máu chết.
Người ta bảo với lão Bỉnh, vàng bây giờ ra chốn chợ mà hốt: ở đấy có cái gọi là kinh tế thị trường. Mà muốn làm kinh tế thì cứ phải tuông đại vào, mau chân nhạy miệng; đừng nhắc chuyện ngày xửa ngày xưa làm gì, đừng ê a nhân lễ nghĩa trí tín nữa, lôi thôi lắm. Lão Bỉnh nghe người ta bảo thế lão dạ, rúc một hồi thuốc lào, lim dim nhìn những cơ hội một thời tan theo mây khói. Đã hơn ba mươi năm rồi, vợ con lão mất cả trong một trận phi cơ oanh tạc. Ở đơn vị về, lão dựng lại nếp nhà, sống an phận với nửa sào vườn, cái ao thả cá, mươi con vịt. Khi ấy lão Bỉnh chưa đầy ba mươi tuổi. Lão ở vậy vò võ một mình, giờ được ăn lễ thọ sơ tuần lão lại dở người dở ngợm bỏ lên núi.
Sáng sớm hôm đó sương bay là đà mặt đất, nền trời xám mỏng như tráng trũng lài xuống trên những thửa ruộng xăm xắp nước không người trông nom. Gió đông bắc thổi se một bên da mặt. Lão Bỉnh đi hết cánh đồng trời đỏ đằng đông, thuông cái bóng nhờn nhợt của lão về phía trước trên con đường đất lầy lội. Đến cửa rừng lão nghỉ chân giở cơm nắm ra ăn; một mình lão mỉm cười với trời đang lướt sướt khoe nắng mới.
Đường lên núi qua thung rừng trắc trở; lão Bỉnh trậm trầy trậm trật vung rựa phát lối. Xiên tán cây dày lá nắng lỗ chỗ những sợi mỏng nhấm nền rừng mục ướt tanh lợm. Lão Bỉnh vã mồ hôi ướt lưng áo, chốc lại lấy tay vuốt mặt: lão xăm xúi tiến bước cố bỏ xa những tiếng thét lìa hồn tán phách, lách mình qua xác những thằng Nghiêm thằng Cẩn thằng Bân thằng Bường; lão mạnh tay chém phập nhát rựa cho đứt lìa ám ảnh gian nan kinh hoàng. Thế nhưng không cưỡng được: lão luôn nghểnh tai nghe ngóng động tĩnh trên không.
Trước mặt lãogiờ là lưng chừng núi. Trời trưa bổ nhào xuống dội lửa lên đỉnh đầu. Lão Bỉnh kiếm hốc núi bên vách đá cheo leo ngồi thở nhặt hơi, ngắm chừng: điệu này trèo được đến đỉnh cũng đã tối trời. Vô tình tay lão quệt phải quyển kinh nhét cộm lên trong nải bố quàng vai: lão Bỉnh ngẩng mặt, phác thuần cười với vầng thái dương. Gia bảo này cụ tổ lão đã cẩn mật đem chôn xuống nền nhà bên dưới tủ thờ; cụ bảo chớ, của này vào tay kẻ mông muội chỉ chuốc lấy oan gia. Đứa cháu đích tôn của cụ (tức bố đẻ ra ông kỵ lão Bỉnh) năm Nhâm Tý (1852) lều chõng vào Thanh Hóa thi Hương đỗ cử nhân, nhưng phải tội đam mê thơ phú nên chẳng màng đến chốn quan trường, ở nhà kết phường kết bọn đàn địch ngâm nga lêu lổng - chính ông đã cất công giải mã quyển kinh. Đến đời ông nội lão Bỉnh (ông bỏ cơ nghiệp theo cô đầu, vì câu ứ hự bán cả ruộng lẫn trâu) lại đem phiên diễn ra vần quốc ngữ: quyển kinh hóa là một thi tập; lận trong ngôn từ bóng bẩy kia là những chỉ dẫn tỉ mỉ, những địa danh địa đồ. Thật thì chẳng câu chữ nào trong tập thơ ám chỉ rằng đâu đó có người đem chôn của cải trong núi; cổ nhân chả rành rọt hứa hẹn điều chi cả: lời truyền thụ mơ hồ, bảo đốt kinh thấy kho báu. Phần lão Bỉnh, thật tình lão chỉ tin vào cuộc phiêu lưu. Lão không biết mình mong đợi gì.
Khi lão Bỉnh rướn mình bám tay vào mỏm trời xâm xẩm trên đầu, bát ngát ruộng một miền tím hồng đùng đục chao đi dưới chân lão. Dưới chân núi lầm thầm hơi sương trườn mặt đất từ cửa rừng mon men ra mé đồng. Tiếng cuốc kêu xa rất xa, chơ vơ như mũi đinh thích nhẹ vào thinh không bàng bạc. Lão nằm vật ra mặt đá mát rượi, rùng mình nghe nỗi đơn côi chai cứng ngấm qua lưng áo. Lài lài đổ về hướng tây núi trơ trơ một quãng trống lộng gió cằn cỗi, một thoáng chiều còn sót lại trỏ cho lão thấy từ mép vực rừng đen đặc trùng trùng nổi gồ. Ngày vừa tắt ngúm đêm phóng đãng vương vãi sao. Lão Bỉnh lần mò theo khe đá được chỗ khuất: cơm nước xong, lão ngồi trùm chăn, miệng chúm chím mở lời trêu ghẹo bóng đêm lóng lánh diễm tình.
Lão vượt rừng ba hôm rừng mở ngảng thoát lối ra trảng cỏ hoang vu. Lão Bỉnh quen phản ứng thao luyện bao năm ngồi thụp xuống cỏ quan sát bốn bề. Đấy là một thung lũng không sâu lắm, lừa nẽn men sang mé trái lại thấy rừng rậm rạp. Hêu hêu trên ngọn tùng cổ thụ bên kia bìa trảng chim ưng làm tổ. Trời thở ra, bông cỏ trắng phau vi vu chạy từng gợn từng gợn đuổi bắt nhau. Quanh đây chỉ thấy thiên nhiên trầm tiềm, đủng đỉnh nghìn năm lần nghìn chuốt ngót hoành đồ cổ đại. Lão Bỉnh để tai lắng nghe núi rừng dạt dào một nỗi u huyền của riêng nó.
Đi thêm độ ngày đường lão trông thấy bãi đất khoảng khoát cỡ sân đình biết mình đã đến nơi. Ở đây vách đá chênh vênh bọc xung quanh hãm mây mù, lởn vởn chắt ra một thứ ánh sáng ướt sũng, sền sệt như nước hến. Ngoài bãi trống ba phiến đá hình thoi sừng sững dựng đứng thành hàng làm nên cái cổng tam quan giữa núi rừng trùng điệp. Quả nhiên nom kỹ thấy di tích một nền nhà: thời gian nhẵn thín trên mặt bằng những vuông đá sắp đặt theo lề lối. Lão Bỉnh rét quá hai hàm răng va cầm cập. Chốn này chìm đắm trong tiết đông tối mờ. Lão đã nhìn kia cái hang trong vách núi, lùm bụi um tùm mọc chắn lối vào. Lão Bỉnh ngẩn ra ngắm cái hang bề ngang cũng đến hai sải tay, chiều sâu xoải chân cũng được năm bước, trần cao đánh vòm đoán chừng cũng đến ba thước tây; cuối hang có bậc tam cấp lên cái đài thềm cao đến ngực. Khí lạnh trong hang nặng như chì, nén chặt trong khí quản đau nhói lồng ngực. Lão quay vào rừng nhặt cây khô về nhóm lửa. Ngồi xổm trên đài huơ tay sưởi lão Bỉnh sởn gai ốc phát hiện những nét điêu thạch lập lòe trên vách đá: hai bên chạm nổi hai hàng cột cái, bên trên vì kèo bắt trính đội mái ngói âm dương; trong hang là hoạt cảnh nghênh phong chiếu thủy nơi đình tạ huê viên. Hoa cành công hạc khắc tỉ mỉ, gió lành nước ngọt ai dụng công trổ khéo léo. Lối vào hang khuỳnh khuỳnh hai bên hai ông hộ pháp: tả dực ông thủ đại đao, hữu chi ông múa song chùy; cả hai ông đang dõi mắt vào hiểm họa vô hình đến từ bên kia vách núi thâm u.
Đúng lời truyền dạy, lão Bỉnh ngồi trong hang đến đêm thứ ba đem quyển kinh ra đốt. Lão mảng tư lự nhìn tàn tro bay lất phất thốt đâu gió nổi cuồng, ù ù tung đất bụi, xoáy vận thành cột lừng lững đâm đầu xuống nền đá ngoài bãi trống. Lửa trong hang tắt phụp. Gió thét tưởng không dứt chợt im bặt. Lão Bỉnh hoàn hồn trõm mắt trông ra ngoài kia đêm trong suốt. Lão đợi. Lung linh sao trời tẽn tò thắp đuốc hoa trong hôn lễ thiên hà. Đợi thêm một thôi vẫn chỉ thấy đêm, lão nhón bước đến nấp sau lưng ông hộ pháp cao lớn; sừng sững ông hộ pháp nổi cuồn cuộn trên vách núi, đã tự bao giờ tay vẫn lăm lăm thủ đại đao. Thăm thẳm trên cao trời thủy tinh, không gian ấm áp như ngày đầu xuân.
Im lặng.
Đêm vẫn trôi với nỗi vô tận câm nín của riêng nó.
Lão Bỉnh nín thở nghe thăm thẳm đêm trôi.
Im lặng.
Mới hay cũng chỉ có thế, lão nghĩ. Lão Bỉnh ngồi bệt xuống đất dựa lưng chân tượng; khoanh tay ôm gối lão bâng khuâng ngắm trời đêm...
Tích tịch tình tang.
Tích tịch tình tang đàn ai dạo ngập ngừng. Ngại câu mở lời.
Tách. Nhịp phách giòn giã đun đẩy. Tách. Gióng giả.
Xập xình xập xình hòa quyện tiếng đàn tiếng phách. Đưa ý đưa tình.
Ai đánh chuông, bình bồng. Mặt đá thâm nghiêm đứt nối, bình bồng. Ngân đứt nối. Bình bồng. Sáo trúc ai thổi. Véo von, tình bằng là véo von đêm lướt đi lại liệng về.
Trầm bổng này, thanh âm trầm bổng. Trài ra thuồn vào. Tách, sánh điệu tương hỗ. Tách, triêng chẳm vờn xoáy ối a. Đuổi bắt nhau. Rộn bâng.
Tán tụ này, cung bậc. Ối a. Khi tỏ khi mờ này. Ma trơi í a.
Và đĩ thõa này. Tình bằng này, đĩ thõa. Ối a.
Tích tịch tình tang xoắn xuýt cơn lốc giao hưởng. Đất với trời. Lật ngửa lưng lại. Tích tịch tình tang trời với đất. Xăng bồng.
Ối a này, đĩ thõa. Ối a hỏa đàn.
Thân tùng ai sắp ngang dọc giữa sân một giàn. Đỏ vách núi. Lửa rực cháy cao quá đầu người, đỏ vách núi. Hỏa đàn ai dựng cao quá đầu người. Tan loãng ra.
Đêm xuống thật gần, tan loãng ra.
Thùm.
Thùm.
Thùm. Thùm. Trống lệnh dồn hồi rung chuyển núi rừng.
Thùm.
Lửa bập bùng quải lự. Tâm thần đảo ngược.
Ơi vong linh, thót mình trong kinh hãi u huyền.
Thùm.
Giấc mộng muôn thuở, những giấc mộng một thời. Tất thẩy phát rồ đâm đầu xuống nhục thể vĩ vèo.
Thùm.
Thùm.
Thùm. Thùm.
Lòng trắc ẩn, nỗi khuy tâm, quay mòng liễn kết trong đối nghịch tiếm soán rồi tự hủy.
Thời gian đi một vòng rồi trở lại... i.
Hiển vinh hào nhoáng, ư tình là hiển vinh... ư. Hào nhoáng... í i động tình.
Nguyên lai mắc mớp lại thụt lùi... i. Nguyên khí... i cùng khoáng chất đồng nhịp thở mằn mặn... ư.
Ư tình này là mằn mặn... ư động tình.
Lão hô toáng lên, tôi đánh hơi được từ khóe âm nhai thốt lên tiếng thét hồng hoang đỏ ửng. Thét lên, xé toạc màn đêm nguyên thủy. Ngày khung lung trào ộc ra. Ham muốn trinh tuyền nhỏ giọt xuống thinh không hóa giờ khắc... ư, vật vã.
Vật vã kêu van và vỡ toang địa đàng.
Ối a tan vỡ địa đàng.
Nữ thần hóa thân trần truồng. Như ánh nắng tịch hoang buổi sáng đầu tiên trên mặt đất... ư. Tình rằng.
Ối a mà rằng tịch hoang. Mà rằng ối a là tình. Tình mang đầy lòng, tình bồng mát tay... ư, mấy kiếp.
Phiếm bạc mấy kiếp, thần nữ bảo, nhặt khổ đau buộc táp đòn trầm luân quảy lên vai. Người ở lại, hay Ta ở lại. Ta đi, người có đi cùng.
Đỗi đường đi không đến, lão rên rỉ, chờm hớp té hen, hộc ra một ít ước mong phì nộn.
Nữ thần trần truồng man rợ. Khoảnh khắc trỗi mình tự lặp lại, và thiên trường địa cửu trỗi mình lưu chuyển từ đấy. Máu mủ tủy cốt lởi rởi đóm trẽn, đói lòng nài cho được dâm thinh réo rắt... ư. Đánh bồng.
Cao cung lên, này.
Cao cung lên, giật mình chiêm ngưỡng: lệ quỷ uy nghi trong xiêm y lộng lẫy, tuông pha rắc muôn vàn châu báu trải ngự đạo lên đỉnh thịnh điển điên dại.
Thình thùng thình.
Lão nhớ. Thình thùng thình.
Lâng lâng lão bước. Thình thùng thình.
Cứ thế, lão bước từng bước trên âm sắc lên chín bậc hai bên hạc chầu.
Lạy mời Con Người lên ngôi trị vì oan khiên, chúng cười. Lũ quỷ hung dữ ấy. Quái điểu biết nhái tiếng người quây quần hát khen tấn tuồng hoan lạc. Tấn tuồng lệ giai.
Thần nữ trần truồng hung ác ra oai.
Thoát thai... ư, trần truồng.
Sóng cả này. Hung tợn.
Khoan hò sóng cả... ư.
Hự.
Hỏi ai ai biết... ư.
Hồn tìm hương duyên. Hự.
Hương duyên say khúc Nghê Thường, hự, biết ai mái khuya buông nhát.
Hồn lạc giang đầu. Hự.
Khoan hò biết ai.
Sông mê nước chảy đôi dòng.
Hự.
Dô khoan dô huầy. Chảy đôi dòng.
Từ ly ấy đổ vào sông mê cuồng.
Thần nữ trần truồng.
Hự.
Thần nữ trần truồng đứng mũi du thuyền.
Dô khoan dô huầy.
Đất với trời lấp lánh tan làm một... ư. Thuyền lướt đi trên trùng trùng thiên thể.
Muôn vàn tinh tú từng dợn vỡ tung tóe mạn thuyền. Vú nữ thần phập phồng căng mọng. Tay nắn vú miệng vọt lời hiểm độc. Và thiên thể căng mọng phập phồng.
Cho tôi đi cùng, lão thét. Hự.
Dô khoan dô huầy. Đi cùng.
Mái tóc nữ thần lồng lộng tinh tú.
Hự.
Sông mê nước lú chảy đôi dòng. Hờ... ơ à... ớ... Cõi lòng đánh mất, hờ... ơ..., đánh mất cõi lòng trần. Hờ... ơ à... ớ... Lòng trần đem đáo... ơ, lòng trần đem đáo giấc mê cuồng.
Lả lơi tắm mát trên nguồn, thần nữ thầm thì, bung thùa ham muốn bừng thoắt lên.
Lão khuỵu gối phát dục, vòng tay ôm lấy lưng thần nữ. Chỉ có một đời, lão bảo và vục mặt vào đêm rất thơm.
Hờ... ơ à... ớ...
Một trời thánh thót sương trinh... ơ...
Thuyền ra vạn dặm... à ơ... thuyền ra vạn dặm chút tình khai ân.
Hờ...
Sao Khuê một giấc mông mênh... ơ... Người đi hay ở, ơi người. Chỉ có một đời.
Hờ...
Gieo sầu mà chi, gieo thảm mà chi.
Gieo thương gieo cảm mà chi.
Hờ... ơ à... ớ...
Phát thông phát thổ chạy kiếm cũng chỉ có một đời, lão Bỉnh gào.
Vẫn quẩn quanh sinh tử tử sinh đấy mà, thần nữ bảo và bật cười man rợ. Và ngửa lưng mở lòng. Thần nữ mở lòng, rỉ rén... ơ, son sẻ rỉ rén... ơ, cõi lòng.
Hờ...
Tử sinh sinh tử, cái trò phách rẹt và diêm dúa ấy.
Và lão Bỉnh co giật trút mình. Hờ... Có loài quỷ dữ theo bên phò huề.
Hờ...
Từ nay có loài quỷ dữ theo bên phò huề.
Hờ... ơ à... ớ...
Sao Khuê một giấc mông mênh... ơ...
Phấn thơm trái ngọt... à ơ... phấn thơm trái ngọt bồng bềnh dung hoa.
Hờ... ơ à... ớ...
Hờ...
Hãy đem đời hiến dâng Ta, thần nữ bảo. Ta là ngọc miện, là ngai báu; vương quốc kia một cõi hoan lạc. Đây, thể xác Ta, thần nữ lại cười điên loạn, Ta ban phủ việt. Hiến dâng rốt ráo không chừa. Người cũng chỉ một lần ngự tọa, một lần thôi cả một đời.
Hờ... ơ à... ớ.
Hờ... ơ...
Lão Bỉnh ngửa hai tay đón nhận.
Hờ... ơ... dài thêm mấy nỗi phấn hưng... ơ...
Phấn hưng lã chã... ơ, duỗi thân dầm dề.
Hờ...
Rồi đây tôi quản gì rơm khô cỏ rác, lão bảo, tôi sá chi ràn lấm tráp nè.
Hờ... ơ...
Một lần thôi, lão Bỉnh run rẩy nấc nghẹn. Một lần thôi, lão sẽ kỳ vĩ trong ánh dương kiêu hãnh.
Hờ... ơ à... ớ.
Hờ... ơ...
Hờ...
Hờ...
Lão Bỉnh òa khóc nức nở.
Hờ...
Chớp xé toạc trời đêm và sấm rền lở núi. Mưa ràn rạt báng xuống ngọn rừng làm đổ rạp cơn đau nhức đê mê trong người lão Bỉnh. Lão cứ nằm đấy, trần truồng trên nền đá lạnh. Bằng linh cảm lão biết, thần nữ sẽ ẩn mình vào cơn mơ rồi gục chết - điều mà ông nội hay thân sinh ông kỵ lão đã biết, như cụ tổ đã biết. Bao đời các cụ nhà mình thấy hồn nhao nhác, lão tự nhủ. Và lão nghe một nỗi đơn côi chảy theo huyết thống. Lão Bỉnh xoải tay cho mưa thoán nốt những nhấp nhem quai kiển.
Hờ...
Ấy thế mà lão ở trong núi cũng đến một con trăng.
Làng bảo chả có kho báu đếch gì, trông lão ấy vẫn cứ dở người dở ngợm. Lão Bỉnh cười toe toét như Sở Tương Vương, gắp vào bát cho từng người. Mời các cụ xơi thật lòng cho. Còn món rựa mận (xưa nay lão Bỉnh nấu rựa mận có tiếng trong làng); rượu trong vò xin các cụ cứ uống thỏa thuê, mừng tôi ngao du tiên cảnh nay trở về. Mai này làng ta toàn nhà gạch khang trang, thể nào Tỉnh Ủy lại không tuyên dương Làng Tiên Tiến, phải không các cụ?
Các cụ trong làng chột dạ hết nhìn lão Bỉnh lại nhìn nhau. Lão Bỉnh nói năng hể hả, ngửa mặt cười sảng khoái; lão thắm thịt đỏ da như bồ câu men giàng, sắc mạo rạng rỡ, mắt sáng quắc. Dạo gần đây không nghe lão than đau nhức chủy khớp nữa, mảnh đạn ghim xương sọ cũng thôi không khiến lão ôm đầu rên xiết những lúc trở trời. Hơi rượu bốc mau, lão Bỉnh bâng khuâng ngó tàu chuối xanh lè; chuối năm nay sai nải đấy. Bì bõm mươi con vịt ngụp lặn trong ao. Các cụ để tôi vào bâng lên nồi xáo; bún trong mẹt kia. Các cụ xơi đi chứ lị!
Đào Vũ Hoài