Cuba si, Cuba no
Từ Thức.
Mới đến La Havane (La Habana), thủ đô Cuba ngày đầu, chạy một ṿng trên những con lộ chính, bạn ngạc nhiên thấy một thành phố sạch sẽ, tấp nập với những ngôi nhà kiểu Y-pha-nho cổ kính, đầy thẩm mỹ. Đâu là cái nghèo đói của một xứ đang phá sản mà báo chí Tây Phương mô tả, khi đề cập đến xứ của Fidel Castro? Hay Charles Aznavour có lư : “La misère serait moins pénible au soleil” ( cái nghèo đói dễ chịu hơn dưới ánh sáng mặt trời ).
Ở La Havane vài ngày dần dần bạn
hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có
du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi
một xă hội lở lói, mệt mỏi. Những ngôi nhà
kiểu thuộc địa đă làm La Havane nổi
tiếng, được coi là kho tàng của nhân loại,
đáng được tích cực trùng tu, là do sự
bảo trợ của Unesco và do tiền của du khách
đổ vào. Fidel Castro cần tiền, hiểu rằng du
lịch là mối ngoại tệ chính, có thể cứu văn
chế độ, đă trao toàn quyền việc chỉnh
trang cho ông Camilo Cienfeego, một kiến trúc sư
đầy nhiệt thành, hết ḷng với La Havane,
quyết tâm xây dựng lại một thành phố đang
đổ nát. Đó là một trường hợp “the right
man in the right place” hiếm hoi. Tất cả những
chức vụ khác đều nằm trong tay những
người có tuổi đảng, được ông Lider
Máximo ( lănh tụ tối cao ) tin tưởng. Hồng
hơn chuyên, khả năng chuyên nghiệp chỉ là một
chi tiết rất phụ thuộc.
ĐỔ NÁT
Khi bạn chịu khó rời những con lộ
chính, những khu dành cho du khách, đi sâu vào ngơ hẻm,
bạn sẽ thấy khuôn mặt thực , lở
lói của Cuba. Những ngôi nhà cổ kính kiểu
thuộc địa, trước kia là những tuyệt
phẩm kiến trúc, ngày nay là những ngôi nhà đổ nát,
loang lổ, sẵn sàng sụp đổ bất cứ lúc
nào. Thiếu nhiên liệu xây cất, suốt ngày lo chạy
ăn không ai để ư đến việc chỉnh trang.
Gần 50 phần trăm nhà ở La Havanne có tường
bị rạn nứt, gần 50 phần trăm nóc nhà
mục nát, gần 30 phần trăm nền nhà đe
dọa sụp đổ.
Trong những ngôi nhà rêu phong, từ lâu không một vết sơn, một lớp vôi đen bẩn, người ta sống chen chúc, thỉnh thoảng bạn thấy những cột nhà chạm trổ công phu, những bực thang bằng đá hoa cương trắng, dấu vết c̣n lại của thời thuộc địa. Nhà cửa đóng im ỉm. Không một tiệm chạp phô, một tiệm bánh, một cửa hàng thực phẩm. Thỉnh thoảng một tiệm cà phê, một tiệm ăn nhỏ, nhiều tiệm mang tên Hà Nội, thủ đô của nước Xă hội Chủ nghĩa huynh đệ. Từ ngày đổi mới, tư nhân có quyền mở tiệm ăn, nhưng tiệm hạn chế 12 chỗ ngồi ( những tiệm lớn đều của nhà nước hay của những người có quen lớn), và phải trả thuế rất nặng ( 1 ) . Việc cung cấp thực phẩm và nhật dụng đều do các cơ quan quốc doanh đảm nhiệm. Với sổ thực phẩm ( libreta ) người ta xếp hàng mua những thứ cần thiết đủ dùng trong vài ngày. Sau đó, mặc ai nấy lo. Chín mươi phần trăm người Cuba có nghề thứ hai, và cái kinh tế bên lề trở thành kinh tế quan trọng hàng đầu. Nhưng cửa hàng quốc doanh vẫn hiện hữu : vài ba nhân viên quốc doanh ngủ gà ngủ gật trước vài bông hoa giấy, vài đồ nhật dụng bằng plastique, vài thước vải rẻ tiền. Kiểm soát dạ dầy là phương pháp kiểm soát hữu hiệu nhất, libreta là bùa hộ mệnh của chế độ, ngày nay không c̣n sức mạnh vạn năng bởi v́ đă có người xé rào, sinh sống kiểu khác. Fidel Castro mê canh nông, muốn biến những mảnh đất mầu mỡ trên diện tích 100.000 km2 của đảo thành những dinh điền kiểu mẫu, nhưng giấc mộng ấy, cũng như giấc mộng nhẩy vọt của Mao đă thất bại. Ngoài mía và thuốc lá, canh nông không đủ nuôi gần 10 triệu dân, Cuba phải nhập cảng 80 phần trăm thực phẩm.
RƯỢT ĐUỔI DOLLARS
Ở Cuba tất cả đều khan
hiếm, từ thực phẩm đến những vật
dụng hàng ngày: giấy bút, dầu mỡ, bột giặt,
thuốc men, giầy dép. Mở mắt ra, người ta
hùng hục chạy sống. Cái sinh hoạt sôi nổi
nhất ở Cuba ngày nay là cuộc chạy duổi dollars
Mỹ. Cách đây mười năm, dollars, tiền của đế
quốc Mỹ c̣n bị cấm trên toàn lănh thổ.
Ngày nay, dollars trở thành một ám ảnh thường
trực của dân Cuba. Bởi v́ không có dollars, không thể
sống c̣n ở Cuba. Đồng Pesos, tiền Cuba, chỉ
xài trong những tiệm quốc doanh, uống ly cà phê hay mua
ổ bánh ḿ. Từ 1993, khi kinh tế Cuba kiệt quệ,
Castro đành phải cho phép xài tiền Mỹ. Xă hội
đảo lộn với một vận tốc chóng
mặt. Trước kia ai cũng nghèo, cả nước an
phận chờ đợi ngày cách mạng thành công.
Như ông già trong thơ Tố Hữu,
ngồi đan rổ mơ nước Nga Xô Viết.
Ngày nay, xă hội chia làm hai: những người có USD,
nhờ tiền của “kiều bào” ở Miami gởi
về, nhờ buôn bán hay làm việc với du khách; và
những người không có USD sống ngoài lề. Từ
đó đẻ ra những giai cấp mới: “macetas” là
những người mới giầu, nhờ biết
lợi dụng cơ hội để kiếm dollars; “jineteros”:
những thanh niên sống bằng cách lừa gạt,
nhất là lừa gạt du khách; “jineteras”:
những cô gái sống nhờ du khách, hoặc sống
một đêm hay suốt thời gian du lịch với hy
vọng được một ông Tây, ông Đức mang
về xứ ( Cuba ngày nay là một trong những sex
tours nổi tiếng, trong khi Castro coi việc
giải phóng phụ nữ là một trong những ưu tiên
hàng đầu).
Du khách chỉ đi vài chục thước đă
gặp những người bản xứ bán x́ gà, bán
rượu rhum lậu ( hai thổ sản có tiếng
của Cuba, độc quyền của nhà nước). X́
gà lậu rẻ bằng một nửa giá chính thức
nhưng không bảo đảm, có khi là x́ gà thứ
thiệt lấy trộm của nhà nước, nhiều khi
là x́ gà giả gói bằng lá cây. Có người dụ
bạn đến uống nước ở một quán cà
phê, nơi anh ta đàn hát. Những người đàn bà
mặc quần áo địa phương nhận chụp
h́nh, hay... hơn nữa, với du khách. Có người
dụ cho mượn một cô em, bà chị trong thời
gian bạn ở Cuba. Cuộc rượt đuổi dollars
là môn thể thao quốc gia, được toàn thể nhân
dân tham dự, không phân biệt giai cấp, tuổi tác. Ngày bạn
rời hotel, bà bồi pḥng để lại một
mảnh giấy bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, Y Pha Nho
hay Đức, chúc bạn một chuyến du lịch vui
vẻ, với hậu ư nhắc bạn đừng quên
để lại vài dollars. Những ông bán săng nhớt,
lấy tiền mười lít săng, và t́m cách đổ
vào xe tám lít. Những chú nhóc dụ giữ xe cho bạn và
nếu bạn từ chối, khi trở lại chắc
chắn cái xe không c̣n hoàn hảo. Những tiệm ăn
dụ bán tôm hùm nếu bạn trả bằng dollars ( tôm hùm
Cuba nổi tiếng nhưng là độc quyền của
nhà nước, phần lớn xuất cảng,và ngày nay khan
hiếm v́ khai thác một cách hỗn loạn). Một
người Cuba có một chút tài mọn nào đó: nhảy
múa, ca hát, đàn địch, vẽ tranh, chụp ảnh
đều không quên mang cái tài mọn của ḿnh ra kiếm
tiền Mỹ. Ở một khu gần trung tâm La Havanne, tôi
thấy một bà cụ tóc bạc phơ, ngồi trước
cửa mời du khách mua h́nh chân dung của chính bà cụ
trong bộ guayabera ( áo Cuba bằng vải bông
trắng) miệng gậm xi gà. Ai cũng có cái ǵ để
bán, tại sao bà cụ không đem bán chân dung của ḿnh
kiếm tiền độ nhật ?
CÔNG AN
Trước điện Capitol, xây theo điện
Capitol Hoa Kỳ, một cô đồng nghiệp của tôi
cho một em nhỏ một cây bút và một tập post-it.
Chỉ vài phút, cô nàng bị bao vây bởi một đám
đông bu lại như một đàn ong. Nhưng cũng
chỉ vài phút sau, đám đông bị giải tán. V́
cảnh sát Cuba rất hữu hiệu. Và rất đông.
Đi đâu cũng đụng đầu nhân viên an ninh, an
ninh nổi, an ninh ch́m, an ninh đồng phục, an ninh “giả
dạng thường dân.” Cuba chiếm kỷ lục
thế giới về tỷ số cảnh sát công an trên
một mét vuông. ( Đó là một nghề dành cho
người được ưu đăi: có quyền, không
mấy cực khổ, lương hậu ( 25, 30 USD một
tháng trong khi lương trung b́nh ở Cuba khoảng 10
dollars+) , không kể tiền kiếm chác bên trái, bên phải
. Xứ độc tài nào cũng vậy, phải có
một lớp có đặc quyền để
bảo vệ chế độ. Điều đó
cắt nghĩa tại sao ở Cuba tương đối
có an ninh hơn ở những nơi khác tại Nam Mỹ
như Ba Tây, Mễ, Colombie... là những nơi bạn
rất không nên đi loạng quạng một ḿnh sau 8
giờ tối. Ở Mexico, ngay giữa thành phố,
hôtel khuyên khách không nên đứng gần cửa sổ,
tránh tên bay đạn lạc của những
băng đảng thanh toán nhau.
Rượt đuổi dollars là môn thể thao
quốc gia và cũng là một bổn phận đối
với gia đ́nh. V́ bạn đi làm được
trả bằng pesos nhưng trên thị trường pesos
chỉ có giá trị hơn giấy lộn đôi chút. Mua bán
ǵ phải khuân theo hàng kư lô tiền. Trong cuộc chạy
đuổi dollars hào hứng ấy, nhà nước
đứng hàng đầu. Cái ǵ có thể kiếm dollars
được đều dưới độc quyền
của nhà nước. Tiệm ăn trên 12 chỗ ngồi,
khách sạn lớn, những cửa hàng bán x́ gà,
rượu rhum, đồ kỷ niệm. Và bán với giá
cắt cổ. Một cái T-shirt ( made in China ) giá 15USD,
bằng giá ở Paris, nơi đồng lương
tối thiểu trên 1000 dollars.
6 DOLLARS
Cuba có hai thế giới, thế giới tưng
bừng náo nhiệt của du khách, của những
người có tiền xanh, bên cạnh thế giới
mệt nhoài của dân địa phương. Sau 50 năm
cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là
vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng
gởi về một cái ngân phiếu. Anh nào cũng nghĩ
tới chuyện vươt biển. Nhà có cái ǵ nổi trên
nước, một cái thuyền con, một ruột xe, vài
phiến gỗ, một ánh cửa, có thể
biến thành một phương tiện vượt
biển, chạy qua với đé quốc
Mỹ ở Miami, bên kia bờ biển.
Hotel National là Hotel lớn nhất và nổi
tiếng nhất ở La Havane. Chỉ cần liếc qua
giá pḥng ngủ cũng đủ thấy cái bất công quái
gỡ của xă hội Cuba. Giá một đêm, một pḥng
ngủ từ 310 đến trên 1000 ( một ngàn ) US dollars,
trong khi lương của một công nhân ở đồn
điền trồng mía 6 (sáu) dollars một tháng. Một bà
cuốn x́ gà cho hay bà lănh 8 dollars mổi tháng, làm việc
không có giờ, phải làm xong một đống x́ gà
trước mặt. Nếu không phải đang “đi
khách” cho sở làm, ăn ngủ bằng tiền lèo,
chắc chắn không bao giờ tôi đặt chân
đến một khách sạn như vậy. Một
phần v́ khả năng tài chánh, một phần v́ ăn
ở một nơi như vậy, giữa một biển
nghèo đói chung quanh, nó vừa lố bịch vừa
bất nhẫn.
Cách hay nhất để hiểu người bản xứ, để hiểu xă hội Cuba là đến ở nhà một người bản xứ. Từ ngày du lịch mở mang người Cuba nào có một căn pḥng tươm tất, ở một nơi khang trang, đều biến nhà riêng thành hotel, mỗi ngày cho thuê lấy 10, 20, dollars, với một bữa cơm chiều. Chính phủ cho phép, không quên lấy “xâu,” nhưng chủ nhà cũng đủ đ̣n phép để ăn gian tiền thuế. Với sự cộng tác hơi vị lợi của công an phường.
Cô hướng dẫn viên của National nói, một cách hănh diện: “Cái pḥng ông ngủ trước kia là pḥng của Ernest Heminway.” Bèn rất lấy làm cảm động được ngả lưng trên cái giường nơi tác giả “The old man and the sea” đă nằm. Nhưng bữa cơm chiều, cái xúc động ấy hơi giảm đi, khi một cô đồng nghiệp cho hay bà hướng dẫn cũng nói với cô ta như vậy về cái pḥng ngủ của cô ta. Hoặc Hemingway đổi pḥng lia lịa, hoặc cô nhân viên khách sạn National bịa ra để chiều khách. Điều chắc chắn là Khách sạn National gắn liền với lịch sử của La Havanne. Ngoài Hemingway, khách sạn đă là nơi trú ngụ của Churchill, Errol Flynn, Ava Garner, Frank Sinatra và... Al Capone.
PEDRO
Người đưa tôi đi thăm La Havane ban
đêm là một nhân viên giảng huấn đại
học. Cũng như các bà làm pḥng hotel là giáo viên hay y
tá. Đồng lương công chức ba cọc ba
đồng không đủ sống, Pedro kiếm dollars
bằng cách đưa du khách thăm thành phố bằng
chiếc xe Cadillac kiểu cổ mầu lá mạ rất
đẹp. Pedro rút trong túi ra một mẩu dây thép, mở
máy xe. Hỏi ch́a khóa xe đâu, anh ta cười: Không có ch́a
khóa. Chiếc Cadillac do em trai anh ta vồ được, khi
những người giầu có vượt biên trốn
chế độ XHCN những năm 60, khi Castro mới lên
nắm quyền. Họ bỏ lại những chiếc xe
du lịch Mỹ lộng lẫy, mang theo ch́a khóa trên
đường di tản chiến thuật. Ở
Cuba rất ít xe hơi, đa số là những chiếc xe
du lịch Mỹ kiểu cổ như xe của Pedro, do
những người giầu có mua khi Cuba c̣n là một
“ổ điếm của Hoa Kỳ” (trước 1959 ),
dollars chảy như nước. Những chiếc xe
đầy mầu sắc ấy, nhiều người
chơi xe cổ muốn mua, nhưng Castro cấm xuất
cảng, coi như là tài sản quốc gia. Pedro nói
đời sống ở Cua rất cơ cực nhưng
đă dễ thở hơn nhiều từ khi mở cửa
cho du khách và dollars được lưu hành. Mỗi năm
Cuba thâu được hai tỷ mỹ kim nhờ du khách và
một tỷ Mỹ kim của người Cuba tỵ
nạn ở Mỹ gởi về. Hiện nay có trên một
triệu người Cuba (nghĩa là một phần
mười dân số) sống ở ngoại quốc,
hầu hết ở Mỹ. Ngày nay “kiều bào” ở
Mỹ có thể về thăm nhà, có quyền và
được khuyến khích mang dollars về, nhưng anh
nào léng phéng đến chính trị, chính em là có dịp ở
lại quê hương yêu dấu luôn. Khác với người
Việt Nam, cộng đồng Cuba ở Mỹ có lobby
rất mạnh có ảnh hưởng lớn đến
chính sách của Hoa Kỳ đối với Cuba và là mối
bận tâm lớn cho Castro.
Biết nói tiếng Anh, bập bẹ
tiếng Pháp, làm ăn với du khách, Pedro thuộc giai
cấp được ưu đăi. Nhưng để
tiếp xúc với khách của Hotel, Pedro phải chi tiền
cho nhân viên Hotel, chi tiền cho nhân viên an ninh. Anh ta có vẻ
thông hiểu t́nh h́nh thế giới, không c̣n ngồi mơ
nước Nga nữa, khác với đa số người
Cuba sống trong một xă hội bịt kín. Ở Cuba có hai
tờ báo, đều là báo nhà nước, tờ Granna
của đảng Cộng Sản ( Granna là tên chiếc tàu
chở Fidel Castro và Che GUEVARA đổ bộ Cuba lật
đổ chế độ độc tài BATISTA) và tờ
Juvendud Revelde của Đoàn Thanh niên Cộng sản. Trên báo
đầy dẫy những kiến nghị của các
hội đoàn ủng hộ Castro, hoanh nghênh tinh thần
cách mạng kiên tŕ của nhân dân Cuba anh dũng, đề
cao cảnh giác trước âm mưu thâm độc của
đế quốc Mỹ, cực lực lên án việc
bế quan tỏa cảng của Mỹ làm kiệt quệ
kinh tế Cuba.
Cuba bị Hoa Kỳ bế quan tỏa cảng ( embargo ) từ thời Kennedy ( 1960 ). Embargo là điển h́nh cho chính sách ngoại giao anh chị, cả vú lấp miệng em của Uncle Sam. Nạn nhân trực tiếp của embargo là người dân thấp cổ bé miệng đă cơ cực v́ độc tài, c̣n cơ cực hơn v́ thiếu thốn những thứ tối cần. Mục tiêu của embargo, trên lư thuyết, là để trừng trị những chính quyền độc tài, vi phạm luật pháp quốc tế. Trên thực tế không một chính quyền độc tài nào bị khó khăn. Trái lại, từ Saddam Hussein ở Irak, Kadafi ở Libye tới Castro ở Cuba, tất cả đều mượn cớ sự đe dọa của embargo để xiết cổ dân chúng hơn trước và củng cố quyền hành hơn trước. Các cơ quan tuyên truyền của Castro suốt ngày suốt đêm giải thích cho dân chúng rằng sở dĩ đời sống của họ cùng cực là hoàn toàn v́ embargo, lờ đi những lầm lẫn, mù quáng của nhà nước, nạn tham nhũng quan liêu, chính sách kinh tế kỳ quái, việc cầm tù hầu hết những người trí thức có khả năng chuyên môn. Có người cho rằng nếu không có embargo làm cái dù che, chế độ Castro đă sụp đổ từ lâu. Nhưng đó cũng chỉ là giả thuyết, không ai làm lại lịch sử.
Báo chí ngoại quốc ở Cuba bị canh chừng
rất chặt chẽ. Anh kư giả ngoại quốc nào
lớ ngớ là bị trục xuất ngay. Các kư giả
Cuba lừng khừng với cách mạng đều nằm
tù. Người Cuba hợp tác với báo chí ngoại
quốc, trực tiếp hay gián tiếp làm hại uy tín
quốc gia , có thể bị 20 năm tù và bị phạt
tới 4500 USD ( 25 năm tiền lương chính thức
của Pedro). Những h́nh phạt nặng, khiến bạn
suy nghĩ trước khi muốn xé rào.
TRÀNG GIANG ĐẠI HẢI
Truyền h́nh của nhà nước có hai đài, ngoài
những phim truyện ( feuilletons) rất
được theo dơi, một thứ thuốc phiện
của dân chúng hơn là món giải trí duy nhất, có rất
nhiều cuộc thảo luận bàn tṛn về chính trị,
về thành quả cách mạng, về tương lai sáng
lạn của đất nước. Và những diễn
văn trực tiếp truyền h́nh của Lider Máximo.
Những bài diễn văn dài ba, bốn giờ đồng
hồ. Đó là dấu hiệu Đồng chí Fidel Castro, 76
tuổi, đă bắt đầu mệt mỏi.
Trước kia mỗi bài diễn văn của Castro dài
tám, chín tiếng đồng hồ. Sáng dậy, mở
mắt ra thấy Lider Maximo đọc diễn văn,
chiều đi làm về vẫn thấy Lider Maximo
đọc diễn văn. Mỗi năm, Castro đọc
từ 30 đến 40 bài diễn văn (10 ngày một bài).
Bài này giống bài kia như hai giọt nước, từng
câu, từng chữ. Cả nước kính cẩn nghe,
nhưng trong bụng chắc nhiều anh lẩm bẩm cái
câu nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: “Biết
rồi, khổ lắm, nói măi.”
Máy truyền h́nh nhập cảng từ Trung
Quốc được sửa lại, chỉ bắt
được đài nhà nước. Máy truyền thanh
chỉ nghe được đài nhà nước. Các đoàn
thể bảo tồn cách mạng ở các khu phố
chịu trách nhiệm, nếu có antennes trên nóc nhà để
nghe đài nước ngoài. Computer cấm bán cho tư nhân.
Sách vở bị kiểm duyệt khắt khao. Trong bối
cảnh ấy, tôi ngạc nhiên thấy trong một tiệm
sách một cái tựa to tổ bố: Human Rights ( Nhân
quyền). Ông nào chơi ngang đến cỡ đó?
Cầm cuốn sách đọc trang đầu. Tác giả,
một giáo sư đại học La Havane cắt nghĩa
ngon lành rằng nhân quyền không thể phi chính trị; nhân
quyền phải nhằm mục đích cách mạng; nhân
quyền kiểu Tây kiểu Mỹ chỉ là nhân quyền
phản cách mạng. Nhân quyền ở Cuba mới là human
rights thứ thiệt.
Giáo sư Pedro có vẻ không tin tưởng ǵ
ở cách mạng. Cái tương lai huy hoàng của Pedro
đơn giản, gần gũi hơn. Anh ta hy vọng
với số đô la để dành được, anh
sẽ mua một căn nhà, vừa ở vừa cho du khách
thuê. Anh có thể dưỡng già dài dài. Pedro là một
“macetas” sung sướng. Nhưng v́ thói quen, mở miệng
ra, Pedro nói đến cách mạng. Cái quán ăn này mở sau
cách mạng, cái nhà thờ này xây trước cách mạng.
Lấy vợ sau cách mạng vài năm.
LA HAVANE BY NIGHT
Đêm ở La Havane. Bóng đêm trùm xuống, La Havane
trở thành một thành phố khác. Như một con
rắn lột vỏ; Ánh nắng mặt trời có làm
dịu đi cái nghèo đói hay không, không biết. Nhưng
chắc chắn là bóng đêm xóa nḥa những vết nứt
loang lổ, những đổ nát hoang tàn . Thành phố
đẹp hẳn ra, quyến rũ. Có cái ǵ liêu trai từ
những căn nhà cổ. Và dân La Havane cũng
đẹp hẳn ra, tươi cười, nhún nhảy.
Mỗi người Cuba là một tay khiêu vũ, sinh ra để
nhảy múa. Cái nhún nhảy ở từng bước đi,
ở từng cử chỉ. Đêm xuống, dân Cuba quên cái
cực nhọc của ban ngày, đổ ra đường
nhộn nhịp. Khuôn mặt họ tươi ra, không c̣n
nhăn nhó dưới ánh nắng gay gắt. Và quần áo
tươm tất, đỏm dáng. Đào đâu ra những
quần áo thướt tha, khi nghĩ đến những
nhà hàng quốc doanh lèo tèo vài thước vải rẻ
tiền? Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn
văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát,
nhảy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những
khu du khách, ngay cả ở những khu b́nh dân, đen
tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền, những
tiệm ăn 12 chỗ ngồi, đâu đâu cũng có
tiếng nhạc, giọng hát. Cái yêu đời rất
tự nhiên, cái nhún nhảy của từng thớ thịt
ấy, tôi đă thấy ở một thành phố Nam Mỹ
khác. Rio de Janeiro. Hay những khu phố nghèo ở Phi
Châu. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao chỉ ở
Hoa Kỳ vài ngày đă chán, chỉ muốn bỏ đi,
những thị trấn khang trang nhưng buồn tẻ,
không hồn, buồn như chấu cắn, trong khi
ở Nam Mỹ, Phi Châu hay Á Châu, mặc dù có cái nghèo
đói, cái bất an ninh ,có một cái ǵ đớ hấp
dẫn, lôi cuốn, gọi là cái hồn ( une âme )
.
V.S. Naipaul , giải Nobel văn chương , đưa ra một nhận xét lư thú về dân Phi Châu. Ông ta bảo dân Phi châu ngày nay bị cuốn hút vào đời sống văn minh như những dân khác. Ban ngày, giới thượng lưu cũng thắt cà vạt, samsonite đi làm, cũng tất tả ngược xuôi như mọi người, nhưng đêm xuống, họ cởi bỏ tất cả những cái ǵ vướng víu của ban ngày, nhảy múa ca hát, tham dự những lễ vaudou, những tập tục thờ cúng quỷ thần, những nghi lễ mê tín đă có từ hàng trăm năm trong những bộ lạc hẻo lánh. Họ trở thành người Phi châu. Họ trở thành chính họ. Và cái đời sống ban đêm ấy giúp họ chịu đựng đời sống của ngày hôm sau, đóng cái vai tṛ mà xă hội bắt họ phải đóng. Họ t́m lại chính ḿnh. Giống như một ông già Việt Nam, giữa New York hay San Francisco, bày gà luộc bánh chưng trên bàn thờ, kính cẩn vái lạy. Rất nên giải thích ư nghiă của hành động đó cho lớp trẻ.
Dạo chơi ban đêm ở La Havane, tôi nghĩ tới cái nhận xét ấy của Naipaul. Đa số dân Cuba đă đến từ Phi Châu, trước kia là những nô lệ. Trong một hộp đêm, tôi ngồi nh́n hằng giờ Ivis, một cô gái da đen chiêu đăi viên sau quầy rượu. Một nụ cười nở thường trực, tự nhiên. Một đôi mắt to, đen nháy, tinh nghịch. Ivis tiếp hàng chục người khách ngồi chung quanh quầy rượu, người này một ly whisky, người kia một ly martini, vừa đùa cợt với một ông khách, vừa lúc lắc cái b́nh cocktail, vừa nhún nhẩy theo điệu nhạc. Ivis không làm việc, cô ta chơi tṛ chơi chuốc rượu, Ivis không đi, cô ta khiêu vũ. Ivis không trả lời téléphone, cô ta đang hát líu lo cho người bên kia đầu dây. Và tất cả với nụ cười không một chút gắng gượng. Và như vậy, sáu đêm mỗi tuần. Và khi hộp đêm đóng cửa, cuốc bộ hàng giờ về nhà. Bởi v́ ban đêm không có xe buưt. Và xe buưt ở La Havanne ban ngày, đến và đi tùy hứng không giờ giấc, phải xếp hàng chờ hàng giờ, phải xếp hàng leo lên, chen lấn như cá hộp. Và nụ cười không bao giờ tắt. Sau bao nhiêu năm cách mạng, sau bao nhiêu bài diễn văn tám giờ.
PARADISIO
Paradisio là một trung tâm nghỉ mát ở Varadero,
băi biển dài gần 30 cây số, với cát trắng và
nước xanh biếc. Varadero là băi biển đẹp
nhất vùng Caraïbe. Paradisio như cái tên của nó là một
thiên đàng. Trên 500 căn nhà đầy đủ tiện
nghi dành cho du khách nằm cạnh bờ biển,
dưới bóng những bóng cây dừa và những
vườn hoa rực rỡ, giữa những piscine mông
mênh với những dàn nhạc tŕnh diễn thường
trực trên bồn cỏ xanh. Champagne Pháp, vodka Nga, caviar
Iran. Bạn quên ḿnh đang ở Cuba, một trong những
nước XHCN cuối cùng trên mặt đất, quên
cửa hàng quốc doanh, quên người phu trồng miá
với đồng lương dưới 10 đô. Tôi
hỏi cô hầu bàn ở tiệm ăn: những
người Cuba kia, họ đào đâu ra tiền
để tới đây. Cô ta cười: Người Cuba
nào? Đó là du khách, đa số người Mễ
giầu có; Ở đây chỉ có nhân viên là người
Cuba. Hay những người Cuba tai to mặt lớn, con
cưng của chế độ. Trung tâm này cấm
người bản xứ.
Không phải chỉ ở PARADISIO.
Tất cả các hotel, các khu nghỉ mát trong vùng Varadero
đều cấm người Cuba. Suốt 30 cây số
dọc bờ biển, hotel sang trọng san sát. Khách là
người Pháp, người Đức, người Ư,
Canada, Úc , người Mễ. Tất cả đều
cấm dân bản xứ. Fidel Castro là một nhà cách
mạng, trở thành anh hùng quốc gia vĩ đại
đă đấu tranh dành chủ quyền cho dân tộc. Sau
50 năm cách mạng, người Cuba không có quyền
đặt chân vào những nơi sang trọng trên
đất nước ḿnh. Chắc chắn Fidel Castro không
vui ǵ với t́nh trạng không biết nên cười hay nên
khóc ấy, nhưng cái khó nó bó cái khôn. Cần tiền quá, t́m
mọi cách ch́u khách du lịch. C̣n người Cuba, nếu
để họ vào đó chỉ cần thấy cái
đời sống hủ hóa của tư bản, liệu
có c̣n ḷng dạ để tiếp tục cuộc cách
mạng đă kéo dài từ lâu. Quá lâu.
Varadero c̣n một cái độc đáo nữa. Muốn
vào vùng nghỉ mát, phải trả tiền. Ba dollars mỗi
xe khi vào, $3 khi ra. Trên thế giới có lẽ đó là
nơi duy nhất phải nộp tiền măi lộ mới
được vào. Ở Luân Đôn cũng phải trả
tiền khi vào thành phố, nhưng mục tiêu là để
hạn chế xe cộ giảm bớt ô nhiễm. Ở
Cuba, nó chỉ có mục đích làm tiền.
CASTRO VÀ CHE
Cuba có rất nhiều cái giống Việt Nam.
Trước hết là khí hậu, cây cỏ. Nếu bạn
ở ngoại quốc lâu năm, đặt chân tới Cuba
bạn không khỏi xúc động thấy cái nóng phà vào
mặt khi ra khỏi máy bay, thấy những rặng
dừa, bông hoa râm bụt, những bụi chuối và hàng
chục thứ cây, hoa quả vùng nhiệt đới. Cuba
giống VN trên phương diện lịch sử. Sau hàng
trăm năm bị đô hộ toàn dân lao đầu vào
cuộc tranh đấu dành độc lập và một ngày
nào đó, mở mắt ra thấy nước ḿnh trở
thành thành tŕ của XHCN. Và là những nước XHCN
cuối cùng, trong khi cả thế giới đă quay
đầu đi một hướng khác.
Cuba do Christophe Colombe khám phá ra từ 1492, trở
thành thuộc địa của Y Pha Nho gần 400 năm
(từ 1510 đến 1898, trong đó có một năm (1762)
là thuộc địa của Anh). Hết Y Pha Nho, Cuba
rơi vào tay Hoa Kỳ, từ 1898 đến 1959, năm
Fidel Castro lật đổ chế độ độc tài
thối nát của Batista cầm quyền dưới sự
bảo trợ của Mỹ. Đó là thời kỳ Cuba
mang cái tên không mấy vẻ vang là ổ điếm của
Hoa Kỳ.
Cầm đầu phong trào kháng chiến cùng
với Che GUEVARA từ 1956, Castro lúc đầu thề
sống thề chết không phải là Cộng sản,
chỉ có một mục tiêu đấu tranh dành độc
lập. Khi nắm quyền trong tay Castro thực hiện xă
hội chủ nghĩa với bàn tay sắt, tiêu diệt
thẳng tay đối lập, và nh́n nhận ông là
người CS từ khi c̣n đi học. Hàng chục ngàn
người Cuba vượt biển qua Mỹ sau khi Castro
lên cầm quyền và tiếp tục chạy trốn
chế độ. Che GUEVARA chỉ tham chánh một thời
gian ngắn rồi bỏ sang BOLIVIE tiếp tục
chiến đấu, bị quân đội Bolivie hạ sát
theo lệnh của CIA Mỹ. Ngày nay uy tín của Castro
bị sứt mẻ, v́ t́nh trạng phá sản ở Cuba, v́
vi phạm nhân quyền biến Cuba thành một nhà tù
khổng lồ. Trái lại hào quang của CHE không những
không thuyên giảm, mà c̣n lớn hơn. Ở Cuba, h́nh
ảnh của CHE tràn ngập đường phố.
Vượt cả biên giới Cuba, CHE trở thành thần
tượng của những người chống thế
giới hóa của tư bản. Trong ḷng người dân,
CHE vẫn là một anh hùng lăng mạn, một thứ Don
Quichotte “giữa đường thấy sự bất
bằng mà tha,” một thứ Robin des Bois, cướp
của nhà giàu để chia cho những người nghèo
khó. Thần tượng Che có cái may chết sớm như
James Dean hay Marilyn Monroe...Người ta quên rằng nắm
quyền vài tháng ( 1960 ) , Castro đă hành quyết 600
người, nhốt 70.000 người, trong đó có cả
các cựu đồng chí.
Castro cai trị Cuba bằng bàn tay sắt nhưng
cũng có những năm đạt được
nhiều thành quả. Đó là những năm 70, Cuba
được Nga sô trợ giúp triệt để với
dụng ư biến Cuba thành một mặt hàng tốt
đẹp của XHCN. Hàng hóa do Cuba sản xuất
đứng đầu là đường mía,
được Nga sô mua với giá cao, trên giá thị
trường. Kinh tế phồn thịnh, Cuba thực
hiện một phong trào chống mù chữ đại qui mô.
Chế độ y tế của Cuba được coi là
kiểu mẫu ở Nam Mỹ. Những thành quả ấy
làm người ta quên những nhà tù trên khắp Cuba. Gió thay
chiều khi bức tường BERLIN sụp đổ
(1989). Gorbachev bỏ rơi Cuba, không muốn tiếp tục
gánh nặng Cuba. Mất thị trường Nga, hàng hóa Cuba
không cạnh tranh nổi với thị trường
thế giới. Thêm vào đó embargo của Mỹ, những
chính sách kinh tế sai lầm liên tiếp, tham nhũng lan
tràn, guồng máy quản trị lỗi thời, đưa
Cuba đến phá sản. Castro, anh hùng chống Mỹ
cứu nước đă buộc ḷng phải mở cửa
cho dollars tràn vào làm bá chủ đất nước. Du
lịch và dollars đă tạm thời cứu văn chế
độ, du lịch và dollars sẽ gây đổ vỡ cho
chế độ.
Castro có lẽ là người cuối cùng c̣n tin tưởng. Ông nhất định không chịu rời bỏ chủ nghĩa CS. Ông đă trù tính cả tương lai cho Cuba khi ông chết: Castro chỉ định người sẽ “nối ngôi”: người em cùng cha khác mẹ, Raul CASTRO. Cho chắc ăn hơn nữa, Castro ra lệnh cho quốc hội tu chính hiến pháp, cấm không được thay đổi thể chế , “XHCN hay là chết” như ông vẫn tuyên bố. Những người thân cận Castro hy vọng khi Castro ĺa đời, Cuba sẽ theo đuôi Trung Hoa và Việt Nam , thiết lập chế độ tư bản man rợ : củng cố độc tài chính trị để giữ quyền lực, nhưng mở cửa kinh tế để kiếm dollars. Trên một bức tường trong thành phố, bên cạnh câu thần chú của Đảng Socialism or Death, có người liều mạng viết, tiếng Anh : NEITHER, hay tiếng Pháp : Quelle différence ? ( Có cái ǵ khác nhau, giữa XHCN, Socialism , và cái chết , Death ? )
IVIS
Tôi rời Cuba, rời Nam Mỹ không có th́ giờ
đi thăm như dự tính Trinidad, nơi V.S.NAIPAUL sinh
ra, lớn lên và nhắc đến rất nhiều trong tác
phẩm. Nhưng có lẽ cũng không nên tiếc. Bởi v́
những thành phố trong sách vở, khi thấy tận
mắt, người ta nhiều khi thất vọng.
Nhất là từ khi tác giả đặt bút viết
đến nay đă có bao nhiêu nước chảy
dưới cầu. Hà Nội ngày nay không c̣n là Hà Nội
của ba mươi sáu phố phường của
Thạch Lam. La Havane bây giờ không c̣n là La Havane sôi nổi
nồng nàn của Hemingway, cũng không c̣n là La Havane êm
đềm trưởng giả của Graham Green.
Chỉ có một cái chắc không bao giờ thay đổi,
và đó là nét lạc quan, một niềm hy vọng. Đó
là nụ cười tuyệt vời của Ivis. Nụ
cười Ivis c̣n, Cuba c̣n. Cách mạng XHCN của Castro,
trong lịch sử Cuba, sẽ chỉ là một dấu
ngoặc. Tâm hồn của một dân tộc, phải không
VS Naipaul, phải không Ivis, là một cái ǵ rất mơ
hồ, nhưng cực kỳ mănh liệt, không ai tiêu
diệt nổi .
Từ Thức
( Paris 2003 )
( 1 ) Những dữ kiện, con số trong bài này là dữ kiện năm 2003