Đọc trên Óep.

 

   Đối với những ai yêu thích văn thơ, nặng nợ với chữ nghĩa th́ Mai Thảo là một cái tên khá quen thuộc. Với lối viết bóng bẩy, óng chuốt đậm đầy chất thơ, ông đă tạo cho ḿnh một cơi văn chương rất riêng, rất Mai Thảo. Cho nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi gần lúc cuối đời ông đă cho ra mắt tập thơ "Ta thấy h́nh ta những miếu đền". Một số bài thơ trong đó ông bày tỏ nhân sinh quan của ḿnh,  về lẽ sống vô thường của kiếp người.

 

                                 Thế giới có triệu điều không hiểu

                                Càng hiểu không ra lúc cuối đời

                                Chẳng sao khi đă nằm trong đất

                                Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi

 

Nhà văn Ngô Thế Vinh viết về những kỷ niệm của ông, của những bạn bè thân quen với nhà văn Mai Thảo, qua đó đă soi rọi thêm một góc cạnh của ông, nhân cách sống. Bài viết khá dài, tuy nhiên xem vẫn c̣n khá ngắn ngủi so với cuộc đời và văn nghiệp của một nhà văn từng một thời lẫy lừng trên văn đàn VN.

Nghiêm

..............................................................................................................................

 

 

                                           HÀNH TR̀NH ĐẾN TỰ DO

                                  NHÀ VĂN THUYỀN NHÂN MAI THẢO

 

"Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm th́ rất buồn bă. Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có c̣n một tương lai. Xa rời quê hương, thật khó mà duy tŕ truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn."  Đă 36 năm kể từ ngày Mai Thảo trả lời cuộc phỏng vấn của Jane Katz 7.10.1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ và cũng đă 18 năm kể từ ngày anh mất: Việt Nam vẫn chưa có tự do và thân xác anh th́ nay đă vùi nông trên một lục địa mới rất xa với một nơi được gọi là quê nhà. 

 NGÔ THẾ VINH

 

 

BÀN VIẾT LỮ THỨ MAI THẢO

Khó có thể tưởng tượng cảnh sống đạm bạc của nhà văn Mai Thảo trên đất nước Mỹ. Chỉ là một căn pḥng 209 rất nhỏ trên lầu 2 của một chung cư dành cho người cao niên ngay phía sau hẻm nhà hàng Song Long. Chỉ có một bàn viết, chiếc giường đơn với nơi đầu giường là một chân đèn chụp rạn nứt và dưới gậm giường mấy chai rượu mạnh; trên vách là mấy tấm h́nh Mai Thảo; đặc biệt là tấm ảnh phóng lớn có lẽ chụp trước 1975, Mai Thảo cao gầy ngồi trên bậc thềm nhà cùng với nhà thơ Vũ Hoàng Chương mảnh mai trong áo dài the, phía dưới là một kệ sách. Mai Thảo có nhiều bạn nhưng đây có lẽ là tấm h́nh "đôi bạn" mà anh rất thích. Về tuổi tác, Vũ Hoàng Chương hơn Mai Thảo một con giáp, cũng v́ vậy mà Nguyễn Xuân Hoàng hết đỗi ngạc nhiên khi thấy Mai Thảo gọi Vũ Hoàng Chương là "mày". 

Qua lời thuật của Nguyễn Hưng Quốc, hăy nghe Mai Thảo nói về Vũ Hoàng Chương bạn ḿnh ra sao: “Con người anh ấy lạ lắm. Đúng là một thi sĩ. Mặt mũi lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác như trẻ con. Mà nói chuyện về thơ th́ hay vô cùng. Ai cũng là thằng hết. Lư Bạch là thằng. Nguyễn Du là thằng. Một người yêu thơ, thuộc thơ nhiều vô cùng tận.”

 Nguyễn Đ́nh Toàn sinh năm 1936, nhỏ hơn Mai Thảo 9 tuổi, cũng vẫn cứ mày tao với Mai Thảo. Để thấy trong sinh hoạt văn học, cùng một lứa bên trời lận đận, họ đă là những bạn văn không biết đếm tuổi.  

 Căn pḥng nhỏ hẹp ngày nóng đêm lạnh ấy là không gian sống và cũng là toà soạn báo Văn của Mai Thảo. Mỗi lần tới thăm anh, tôi vẫn để ư tới chiếc bàn viết lữ thứ của Mai Thảo kê sát khung cửa sổ thấp nh́n thoáng ra bên ngoài. Rồi tới kệ sách, không có nhiều sách Mai Thảo, chỉ có ít cuốn sách tiếng Pháp, mấy số báo Văn, đôi ba cuốn sách mới bạn văn gửi tặng anh. Mai Thảo giỏi tiếng Pháp, đọc nhiều sách Pháp; anh cũng tiếp cận với nền văn học Mỹ và rất thích các tác giả Mỹ như Henry Miller, Hemingway, John Steinbeck nhưng là qua những bản dịch Pháp ngữ.

 

Tôi chú ư tới một cuốn sách tiếng Anh khá nổi bật với b́a đỏ trên kệ sách:  Artists in Exile, American Odyssey của Jane Katz. Trong cuốn sách ấy, nữ kư giả Jane Katz, đă phỏng vấn các văn nghệ sĩ thế giới tới tỵ nạn trên đất Mỹ. Họ đến từ nhiều quốc gia như Nga, Trung Quốc, Afghanistan, Nam Phi, Á Căn Đ́nh, Việt Nam… Nhà văn Mai Thảo được Jane Katz phỏng vấn và giới thiệu như một “thuyền nhân”, tác giả của 42 cuốn sách tiếng Việt, tất cả đều lưu trữ trong thư viện Đại học Cornell. Cuộc phỏng vấn Mai Thảo, được thực hiện ngày 10 tháng 07, 1980, hai năm sau ngày anh đặt chân tới Mỹ qua thông dịch của anh Nguyễn Thanh Trang, tới từ San Diego, bạn nhà văn Mai Thảo. Tuy là một bài phỏng vấn nhưng không có xen kẽ vào những câu hỏi, nên nội dung như một “tự sự”của Mai Thảo. Jane Katz đă ghi lại cảm tưởng sau cuộc phỏng vấn nhà văn Mai Thảo: “Ông phát biểu với một nhân cách trầm tĩnh, và với cả sự kiềm chế sau những năm sống cách biệt - He speaks with quiet dignity, and with the restraint which years of privation have taught him.” (6)

 

Tôi đă lấy xuống từ kệ sách và mượn anh Mai Thảo cuốn sách với thủ bút của Jane Katz. Tôi lược dịch bài phỏng vấn Mai Thảo và cho phổ biến trên các tạp chí Văn học, và sau này kể cả trên Văn số đặc biệt Tưởng Mộ Mai Thảo (1) với tên người dịch Tâm B́nh. Sau đó, tôi đă đem cuốn sách trả lại trên kệ sách của anh.

 Bài phỏng vấn của Jane Katz cũng sẽ đi cùng với bài viết này để tưởng niệm ngày Giỗ thứ 18 của Mai Thảo.  

 Khi giao tờ Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng năm 1996, cũng là năm đánh dấu sức khoẻ của Mai Thảo bắt đầu suy yếu, anh đi lại khó khăn; tới mức, theo Khánh Trường kể lại, th́ một buổi tối khuya về, anh không c̣n đủ sức leo lên một tầng thang lầu để trở về căn gác trọ thân thuộc trong bấy nhiêu năm. Sau đó Mai Thảo phải dọn xuống một căn pḥng khác dưới tầng trệt. Ngay phía lầu trên là căn pḥng của hoạ sĩ Khánh Trường. Sức khoẻ Khánh Trường th́ cũng không khá ǵ nhưng đủ sức để chăm sóc anh Mai Thảo khi cần đến. Tín hiệu Mai Thảo gọi Khánh Trường không phải là điện thoại mà thường là một cây gậy gơ gơ lên trần nhà.

Một Khánh Trường giang hồ với Hợp Lưu, một Mai Thảo chính phái với Văn, rất khác nhau cả về tuổi tác và nếp sống nhưng họ lại là một đôi bạn chân t́nh. Hoạ sĩ Vỉa Hè New York là biệt danh Mai Thảo gọi Khánh Trường. Cũng như một Cao Xuân Huy lính tráng ban đầu rất "ḱnh" với Mai Thảo nhưng sau đó gần anh, trở nên rất thân quư và thương anh Mai Thảo vô cùng. Trong cuốn sách Chân Dung 15 Nhà Văn Nhà Thơ Việt Nam, do nhà sách Văn Khoa xuất bản ở hải ngoại [1985], Mai Thảo đă có những nét cực tả về các bạn văn của ḿnh: một Nhật Tiến vẫn đứng ở ngoài nắng, một nhân cách B́nh Nguyên Lộc, một Mặc Đỗ quy ẩn, con đường Dương Nghiễm Mậu, đường gươm Lê Tất Điều, Nhă Ca giữa cơn hồng thuỷ... (5)

 

TẠP CHÍ VĂN TRÊN ĐẤT MỸ

Tên tuổi Mai Thảo gắn liền với Tạp chí Sáng Tạo, cho dù Sáng Tạo có một đời sống tương đối ngắn ngủi. 

Nhưng báo Văn th́ đeo đuổi Mai Thảo lâu dài hơn, từ trong nước trước 1975, ra tới hải ngoại tới 1996.

Báo Văn khởi đầu từ 1964 với thư kư toà soạn Trần Phong Giao kéo dài được 8 năm.  Năm 1972, Văn chuyển qua Nguyễn Xuân Hoàng thay Trần Phong Giao. Năm 1973, Mai Thảo về Văn cùng với Nguyễn Xuân Hoàng trông coi Văn. Năm 1974, Nguyễn Xuân Hoàng rời báo Văn, c̣n lại Mai Thảo làm tiếp đến 30.4.1975.

 

Sau hai năm đặt chân tới Mỹ, năm 1982 Mai Thảo cho tục bản tạp chí Văn và kéo dài được 14 năm. Khó có thể tưởng tượng được rằng một ḿnh Mai Thảo trông tờ Văn, anh không lái xe, anh vẫn thuộc trường phái "viết tay" chỉ dùng cây viết chứ không hề đụng tới chiếc máy chữ hay máy điện toán. Kể cả trên mỗi chiếc phong b́ gửi báo cho hàng trăm độc giả dài hạn, anh cũng vẫn cặm cụi viết tay. Có người bạn trẻ muốn giúp anh dùng computer in nhăn để không phí thời gian nhưng anh chối từ. Mai Thảo rất t́nh cảm, anh muốn có mối tương quan gần gũi với từng độc giả qua nét chữ của chính anh trên từng số báo. Mười bốn năm sống với và sống bằng tờ Văn, anh hào hứng mỗi khi khám phá ra một cây viết tài năng mới. Văn cũng là nơi quy tụ lại những cây viết cựu của miền Nam lưu vong ra hải ngoại. Như một Thảo Trường từng viết cho Sáng Tạo, sau 17 năm tù cộng sản rồi qua Mỹ, các sáng tác đầu tay của Thảo Trường viết ở Mỹ, đều gửi cho Mai Thảo đăng trên tạp chí Văn.

  Khi nói tới tờ Văn, Mai Thảo tâm sự: "Từ mấy năm nay làm lại tờ Văn ở Hoa Kỳ, đời sống lữ thứ hàng ngày thấy đỡ thất lạc, bởi lại được thả trôi trở lại với một không khí toà soạn không khí trị sự, tuy đă khác biệt nhưng vẫn c̣n phảng phất đâu đó, trên một góc bàn viết, dưới một ánh đèn sáng, cái không khí đă bao năm tôi sống ở quê nhà, tâm trí tôi thường có nhiều hơn những hồi tưởng về báo quán cũ, là 38 Phạm Ngũ Lăo Sài G̣n, ngày trước." (5)

 Đến năm 1996, sau số báo số 158 &159, do sức khoẻ sa sút, Mai Thảo ban đầu trao tạp chí Văn lại cho Du Tử Lê, sau một số báo 160, tờ Văn được Mai Thảo chính thức trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục ra tờ Văn từ số 161 cho đến số 163.

Đầu năm 1997, Nguyễn Xuân Hoàng ra tờ báo Văn số 1, bộ mới. Kéo dài được 12 năm. Tới năm 2008, tờ Văn số cuối cùng 125-129 cho ba tháng Giêng, Hai và Ba là số đặc biệt về hoạ sĩ Thái Tuấn với bài vở đă layout xong chuẩn bị đưa nhà in, nhưng rồi v́ lư do tài chánh Nguyễn Xuân Hoàng đành cho đ́nh bản tờ Văn, cho dù báo Văn vẫn bán được, tuy không đem lại lợi nhuận nhưng không thể để một món nợ lớn đến như vậy với nhà in Kim Select Graphics & Printing trên đường Euclid, mà sau này vợ chồng Nguyễn Xuân Hoàng phải gồng ḿnh gánh trả.

Lư do sâu xa mà không ai muốn nói ra, khi tờ Văn của Nguyễn Xuân Hoàng đ́nh bản, cũng như nhà xuất bản Văn Nghệ của anh Từ Mẫn Vơ Thắng Tiết phải ngưng hoạt động v́ sách báo th́ vẫn bán được nhưng lại không được các nhà sách sốt sắng thánh toán tiền bạc.

 

TẤM L̉NG TỪ BI MAI THẢO

Mai Thảo được mọi người biết tới như một nhà văn, một cây viết tuỳ bút nổi tiếng và sau này là một nhà thơ. Quen biết anh, người ta càng thấy mến con người Mai Thảo hơn. Tấm ḷng của Mai Thảo với tha nhân thật đẹp. Anh tốt với mọi người và rất trực tính, nói thẳng trước mặt với người trái ư anh, kể cả lớn tiếng và giận dữ nhưng sau đó th́ quên đi, anh không bao giờ để tâm. Trong suốt cuộc đời viết văn, chưa bao giờ Mai Thảo dùng ng̣i bút để nói xấu hay chửi bới ai, cho dù không thiếu những bài viết chỉ trích anh nặng nề, có lẽ anh không đọc và cũng không bao giờ trả lời.

 

Nguyễn Đăng Khánh, người em ruột Mai Thảo viết về anh ḿnh: "Nhiều lần đọc báo thấy người ta mạt sát anh thậm tệ, tôi nóng ruột tới hỏi anh: Tại sao người ta chỉ trích anh nặng nề như thế mà anh không lên tiếng? Anh nói: Sống với người, với đời, phải có ḷng. Tấm ḷng ở đây là la bonté. Con người không có la bonté là vứt đi. Phải sống thành thật với người, với đời. V́ thế nên tôi không bao giờ dùng ng̣i bút của tôi để phê phán, chỉ trích hay nói một điều xấu về ai hoặc để trả lời lại những kẻ mạt sát tôi. Người ta muốn chỉ trích, muốn nói xấu tôi, cứ nói. Khánh thấy người ta chỉ trích tôi trên báo chí v́ họ muốn độc giả thấy tên họ đứng trên cùng một trang báo với Mai Thảo. Họ thích như vậy, cứ để cho họ làm, tôi sẽ không bao giờ viết lại.” (3)

  Trước đó khá lâu, năm 1989 Mai Thảo cũng có một phát biểu tương tự khi gặp Nguyễn Hưng Quốc ở Paris: “Đời tôi có một nguyên tắc: không bao giờ dùng văn chương để làm bất cứ điều ǵ xấu xa. Đâu phải tôi không biết người nào tốt người nào xấu với ḿnh, nhưng tốt hay xấu mặc họ. Người nào tốt, đến gần, uống rượu chơi. Người nào xấu, lánh ra thật xa, đừng thèm đụng tới. Nhưng đừng bao giờ mang những điều đó lên trang giấy để bôi bẩn nhau. Văn chương là cái đẹp, là thế giới của cái đẹp, ở thế giới ấy có thứ tiền tệ riêng của nó: anh phải dùng thứ tiền ấy, anh phải đàng hoàng, phải lương thiện. Thứ tiền tệ ấy chính là cái đẹp.” (4)

  Trong bài báo đăng trên Saigon Times "Một Vài Kỷ Niệm với Nhà Văn Mai Thảo" viết vào khoảng cuối năm 1997, khi nhà thơ Thái Tú Hạp vào thăm Mai Thảo tại bệnh viện Fountain Valley. Thái Tú Hạp đă xúc động nhớ lại một câu nói tâm t́nh của Mai Thảo khi anh c̣n khoẻ và thường tới quán Doanh Doanh ở cuối con đường Sunset, một quán ăn gia đ́nh rất văn nghệ của vợ chồng Thái Tú Hạp-Ái Cầm có nhạc cổ điển có treo cả một bức tranh sơn dầu lớn của Nguyên Khai: "Tôi bảo với Hạp một điều, trong đời sống có thể chúng ta không yêu người này, không thích người kia, xỉ vả nhau thẳng thừng trực diện một trận rồi thôi.  Bỏ! Đừng lôi nhau lên báo, kỳ lắm. Cơi văn chương hăy để cho nó trong sáng. Hăy xử dụng ng̣i bút ḿnh một cách ngay thẳng, tử tế đối với mọi người..."

  Trong cuộc phỏng vấn ngày 5 tháng 6 năm 2008, mười năm sau khi Mai Thảo mất, câu hỏi cuối cùng của Thuỵ Khuê với Trần Vũ, "Anh muốn nói điều ǵ nữa về Mai Thảo? Trần Vũ nhớ lại: lúc sinh tiền, Mai Thảo thường nhắc: «Em không dụng chữ cho mục đích phi văn chương. Không chửi ai cả. Văn chương không phải là chỗ cho em bựa. Em không được quyền.» Những khi cáu, ông gắt um. Không phải một lần, mà nhiều lần, lời khuyên, mệnh lệnh. Bây giờ Mai Thảo mất rồi, tôi cũng không c̣n trẻ nữa, nhưng những khi nghĩ đến ông, tôi lại nhớ đến lời dặn này. Hôm qua, bây giờ, tôi vẫn giữ tṛn lời hứa với trưởng thượng của ḿnh."

 Cả một đời sống với chữ nghĩa, vẫn cứ măi là một Mai Thảo nhất quán, luôn luôn là người bảo vệ sự trong sáng và thanh thoát của cơi văn chương. Không tu hành nhưng Mai Thảo sẵn có một tâm Phật.

 Rồi chợt nhớ tới hai câu trong bài thơ Em Đă Hoang Đường Từ Cổ Đại trong tập thơ Ta Thấy H́nh Ta Những Miếu Đền của Mai Thảo:

 Tâm em là Bụt tâm anh Phật

trên mỗi tâm ngồi một nhánh hương

 

NHỮNG NGÀY THÁNG NẰM VIỆN

Trao lại tờ Văn cho Nguyễn Xuân Hoàng rồi, chẳng bao lâu sau đó, sức khỏe Mai Thảo mau chóng suy kiệt, có lúc anh đă không c̣n đủ sức ra khỏi căn buồng trong khu chung cư cho dù anh đă dọn xuống tầng trệt. Nỗi cô đơn và dấu hiệu bệnh tật thật sự đă có từ mấy năm trước khiến Mai Thảo đă làm bài thơ "Dỗ bệnh":

 Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện

Ta lại cùng cơ thể chuyện tṛ

Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn

Nó nghĩ sao rồi nó lại cho

 

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn

Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân

Gối tay lên bệnh nằm thanh thản

Thành một đôi ta rất đá vàng

 

Khi không c̣n "dỗ bệnh" được nữa, là tới lúc Mai Thảo phải rời chiếc bàn viết lữ thứ, rời căn pḥng phía sau nhà hàng Song Long để luân phiên vào các bệnh viện Fountain Valley Orange County, Good Samaritan Los Angeles và rồi Barlow Hospital và anh đă chẳng có dịp trở lại chốn cũ.

Good Samaritan là bệnh viện tôi tới thăm anh. Nơi đây tôi gặp Nguyễn Phúc Vĩnh Khiêm, người bác sĩ trẻ chuyên khoa tim mạch đang trực tiếp chăm sóc anh. Khiêm từ bé học trường Pháp rồi lớn lên học y khoa ở Mỹ nên không biết ǵ về văn chương Mai Thảo, nhưng qua thân phụ, Khiêm được biết ḿnh đang được chăm sóc một người bệnh tên Nguyễn Đăng Quư, là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng với bút danh Mai Thảo.

Cũng tại bệnh viện Good Samaritan này, Khiêm đă thông tim cho Thượng toạ Thích Măn Giác tức thi sĩ Huyền Không, Khiêm cũng là thành viên trong toán mổ tim lần thứ hai cho nhà văn Vơ Phiến. V́ cùng trong lănh vực chuyên môn, tôi có nhiều dịp trao đổi với Khiêm về t́nh trạng sức khoẻ anh Mai Thảo. Về hô hấp anh cần dưỡng khí qua ống thở, về dinh dưỡng do không ăn được anh được nuôi bằng chất thực phẩm lỏng bơm qua một G-tube vào dạ dày. Thời gian này sự sống của anh phụ thuộc vào máy móc và toán chăm sóc đặc biệt. Sau một thời gian nằm qua các bệnh viện, sức khỏe Mai Thảo ổn định nhưng hồi phục th́ rất chậm do tổng trạng quá yếu, hậu quả của nhiều năm uống rượu mà không ăn và hút thuốc nên bị suy dinh dưỡng trầm trọng và cả suy hô hấp.

Nguyễn Mộng Giác khi cùng với hai chị Bùi Bích Hà và Trần thị Lai Hồng khi vào thăm Mai Thảo tại bệnh viện Barlow Los Angeles, bằng trực giác của một nhà văn anh đă có ư nghĩ: "dù không có kiến thức y khoa, chúng tôi đều cảm thấy anh Mai Thảo đang đi trên con đường một chiều, không có cơ may nào quay trở lại đời sống b́nh thường như trước." (1) 

 Sau khi ra khỏi được ống thở, không c̣n cần thiết phải nằm trong một bệnh viện "acute care" Mai Thảo được chuyển về một khu chăm sóc Phục Hồi Quận Cam. Anh không mắc một căn bệnh nan y nào, dù uống rượu bấy nhiêu năm anh vẫn có một lá gan bằng sắt nhưng Mai Thảo th́ cứ như một thân cây khô héo dần cho tới ngày 10 tháng Giêng năm 1998 th́ anh mất.

 Nhớ lại khi Mai Thảo vừa mất, Đỗ Ngọc Yến có ư tưởng lập ngay một giải văn chương Mai Thảo. Tôi nói với Yến, trước khi nói tới một giải văn chương mang tên Mai Thảo, việc nên làm ngay là giữ lại chiếc bàn viết lữ thứ của anh ấy, như một nét văn hoá của Little Saigon.  

  Sau khi anh mất, cả không gian sống của Mai Thảo, cuối cùng được người em trai là anh Nguyễn Đăng Khánh đến thu dọn, tất cả chỉ đủ xếp vào mấy chiếc thùng giấy. Và đă không c̣n đâu dấu vết chiếc bàn viết lữ thứ của một nhà văn "thuyền nhân" lưu vong có tên Mai Thảo.

 Người Việt phiêu bạt từ khắp năm châu, khi hành hương tới thủ đô tỵ nạn không lẽ chỉ để thấy một khu Phước Lộc Thọ, chỉ có một tiệm sách Văn Khoa th́ nay cũng không c̣n nữa. Một người bạn cùng gia đ́nh và đàn con thế hệ thứ hai đến từ xứ tuyết Toronto, nhận định là tới Little Saigon không lẽ chỉ để dẫn chúng nó vào những tiệm phở, ngắm bảng hiệu mấy văn pḥng bác sĩ hay luật sư. Anh ấy muốn nói tới một Công Viên Văn Hoá Việt Nam.

 

   JANE KATZ PHỎNG VẤN MAI THẢO

 

Và sau đây là bản lược dịch của người viết từ nguyên bản tiếng Anh, “Những Nghệ sĩ Lưu vong, Hành tŕnh tới Mỹ Quốc” trích từ cuốn sách Artists in Exile, American Odyssey của Jane Katz do Stein & Day Publishers, New York xuất bản 1983. (6)

 Tôi sinh năm 1930* tại tỉnh Nam Định, Bắc Việt Nam. Cha tôi là một điền chủ thành đạt, ông được dân làng kính trọng. Ông là chủ gia đ́nh, mẹ tôi th́ ở nhà với những người giúp việc. Tôi và các anh em tôi đều rất tuân phục cha tôi.

Sau khi có người Tây phương xâm nhập, đă có t́nh trạng bất ḥa giữa thế hệ trẻ và già. Nhưng những người ngoại quốc ấy đă không thể phá vỡ nền tảng gia đ́nh của đất nước chúng tôi. Đó là một trật tự lâu đời không ai có thể hủy hoại.

Cha tôi quản lư các trang trại. Ông giàu có nên không để chúng tôi làm công việc đồng áng. Tôi phải tới trường đi học, nhưng sau lớp học th́ tôi lại rong chơi ngoài đồng ruộng. Với những con trâu kéo cày trên những thửa ruộng nơi châu thổ sông Hồng. Đồng cỏ th́ ph́ nhiêu và xanh tươi. Một số người trong làng th́ làm công cho cha tôi, một số khác có ruộng đất riêng của họ.

Dân tộc tôi yêu đất đai, họ tin rằng có hương hồn tổ tiên trong đó. Mọi gia đ́nh đều làm việc ngoài đồng áng, không có ai phải đói kém.

Khi tôi được 10 tuổi th́ cha tôi bị mất hết ruộng vườn. Gia đ́nh tôi phải rời về Hà Nội. Thật là khó khăn cho cha tôi phải rời bỏ đất đai của tổ tiên và làng mạc. Trong làng ông quen biết mọi người. Ông đă có một căn cước ở đó mà ông không thể t́m thấy lại nơi thành phố.

 Ở Hà Nội, tôi được thấy thành quách và những ngôi chùa cổ qua các triều đại từ những thế kỷ thứ 8 và thứ 10. Một ngôi chùa có tên Ngọc Sơn, một ngôi đền khác có tên là Quan Thánh. Trung tâm thành phố là một hồ lớn, nơi mọi người gặp nhau sau một ngày dài làm việc. Vào mùa hè th́ chúng tôi đi biển.

Cho dù sống ở đô thị, chúng tôi vẫn giữ các tập tục cổ truyền như kính trọng người già, tưởng niệm các ngày lễ theo truyền thống.

 Tinh thần quốc gia là một phần của truyền thống Việt Nam. Trong một ngàn năm, người Việt bị người Tàu đô hộ, với ảnh hưởng trên nền giáo dục và tư tưởng nhưng người Việt chưa bao giờ bị hoàn toàn khuất phục. Rồi tới thế kỷ 19, khi người Pháp đánh chiếm nhiều tỉnh của Việt Nam, thiết lập nền hành chính đô hộ, mở trường học và các cơ sở dân sự điạ phương.

 Năm 16 tuổi, tôi gia nhập phong trào kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi tổ chức những chương tŕnh ca nhạc kịch trong các làng xóm để khích động ḷng yêu nước. Chúng tôi viết những câu chuyện về lịch sử và khát vọng tự do. Tôi đă từ bỏ kháng chiến 4 năm sau đó khi biết được Cộng sản đă xử dụng phong trào kháng chiến để phá vỡ trật tự xă hội cổ truyền và cổ vơ cho đấu tranh giai cấp.

 Chiến tranh Việt Pháp chấm dứt năm 1954 và đất nước bị phân đôi. Gia đ́nh chúng tôi di cư vào Sài G̣n. Đó là một h́nh thức phản kháng những người Cộng sản. Cha tôi không tin họ và họ cũng không tin cha tôi. Dưới thống trị của Cộng sản, dân chúng hết quan tâm về nghệ thuật. Làm sao có thể vẽ tranh khi mà thường ngày phải lo từng miếng ăn? Trí thức th́ bị khống chế và thường bị cưỡng bức vào quân đội.

 Từ năm 1958, khởi sự có đối đầu công khai giữa hai miền Việt Nam: miền Bắc là chế độ Cộng sản hậu thuẫn bởi Trung Cộng và Liên Xô và miền Nam không Cộng sản hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ và các nước đồng minh.

 Thường xuyên có chiến dịch tuyên truyền của cả đôi bên. Miền Bắc th́ rêu rao là đang giải phóng miền Nam chống lại đế quốc Mỹ, c̣n chính phủ miền Nam th́ đang chống lại sự thống trị của Trung Cộng và Liên Xô. Cộng sản thực hiện cuộc chiến du kích ẩn náu trong rừng sâu. Máy bay Mỹ th́ rải chất độc khai quang để bắt địch quân phải lộ diện. Họ cũng đă gây nhiễm độc cho rừng núi, cây cối, xúc vật và nguồn thực phẩm.

 

Trí nhớ của tôi về những năm chiến tranh c̣n rất sống động. Tôi vẫn c̣n thấy được những căn nhà bị đánh bom, cây cối th́ cháy lá và trơ cành, một ngôi đền cổ bị bốc cháy, những trẻ con bụng ỏng, mất mắt hay cụt chân, bà cụ già không nhà cửa th́ đi lang thang như người mất hồn…

 Tôi viết văn từ năm 1950. Ở xứ sở tôi, nhà văn nhà giáo rất được kính trọng. Sách của tôi được các công ty nhỏ tư nhân xuất bản ở miền nam Việt Nam, rất phổ biến, một số sách đă trở thành “best-sellers” nhưng để sống bằng nghề cầm bút rất khó. Tôi viết rất nhiều truyện và tiểu thuyết. Chúng tôi không có nhiều dịch giả, các sách của tôi không được dịch ra ngoại ngữ. Tôi cũng làm chủ bút một vài tờ báo và tập san văn chương.

 Tôi có đọc các nhà văn Mỹ mà tôi rất thích như: Henry Miller, Hemingway, John Steinbeck – qua những bản dịch tiếng Pháp. Các tác giả này không ảnh hưởng tới văn phong của tôi. Nền văn học của chúng tôi rất khác. Chúng tôi có truyền thống văn học riêng từ ngàn năm. Nền văn học của chúng tôi rất quy cách, với mục đích: thăng tiến xă hội.

 Có một truyện ngắn tôi đă viết và ưa thích có tựa đề là “Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời”. Một người đàn ông và một người đàn bà chung sống trong một căn nhà nhỏ bên suối. Người đàn bà th́ không hiểu tại sao người đàn ông đă bỏ đi. Hành tŕnh của người đàn ông là leo lên tới đỉnh cao nhất của một ngọn núi Phương Đông. Ông muốn biết ngọn núi ấy cao bao nhiêu; ông đi t́m kiếm một chân lư tuyệt đối và hạnh phúc. Khi tới được đỉnh cao nhất của ngọn núi th́ ông ta tuyệt vọng v́ ư thức được rằng chân lư tuyệt đối th́ không bao giờ có thể đạt được. Người đàn bà đi t́m kiếm và thấy xác người đàn ông nằm bên bờ suối. Không ai biết người đàn ông đă chết như thế nào. Người đàn bà đưa xác người đàn ông về làng và tự hỏi tại sao người đàn ông chết. Và cuối cùng người đàn bà nghiệm ra rằng trên đường đi t́m chân lư, người đàn ông đă chọn cái chết.

 Như một nhà văn, tôi đề cập tới vấn đề nhân sinh; tôi không có ư đi t́m một giải pháp. Đa số các sách và truyện của tôi dựa trên kinh nghiệm bản thân hay của những người mà tôi quen biết. Sự kiện ghi nhớ trộn lẫn với hư cấu. Văn phong – style, là điều quan trọng.

 Người Mỹ rút khỏi Sài G̣n năm 1975. Do các bài viết chống cộng trước đó, tôi bị liệt kê trong sổ đen những nhà văn có nguy hại cho chế độ. Hầu hết các nhà văn có tên trong danh sách ấy đều bị bắt đi tù, nhiều người bị chết trong tù v́ thiếu ăn, thiếu thuốc men.

 Tôi th́ may mắn hơn, được dân chúng chăm sóc và che chở. Không có t́nh thương yêu của họ tôi đă không thể sống c̣n ở Việt Nam.

 Cộng sản ra thông báo là bất cứ ai tán trợ những nhà văn có tên trong sổ đen sẽ bị bắt giữ. Hệ thống an ninh của họ rất chu đáo. Họ chỉ định những người hàng xóm canh chừng nhau và báo cáo lên chính quyền địa phương. Nhưng vẫn có nhiều người liều mạng để che chở cho tôi. Họ che dấu tôi trong 8 căn nhà khác nhau trong ṿng hai năm trời. Tôi sống trong hầm tối v́ bất cứ ánh sáng hay sinh hoạt nào bị hàng xóm phát hiện sẽ gây hiểm nguy cho gia chủ. Phải là những căn nhà không có trẻ em v́ các gia đ́nh luôn luôn dạy con em không được nói dối. Cộng sản đă lục soát một số nhà nhưng không hiệu quả, và họ đă không t́m ra tôi.

 Tôi sống như một con vật trong bóng tối, ẩn ḿnh trong suốt hai năm. Có những đêm hoàn toàn mất ngủ, những ngày giống nhau buồn chán. Một người bạn đem đến cho tôi cỗ mạt chược và tôi chơi cùng một lúc ở cả hai phe. Đôi khi quá tuyệt vọng, tôi phải t́m cách ra ngoài, một cách bí mật trong bóng đêm. Đôi khi tôi không thể tưởng tượng rằng ḿnh đă phải sống trong những điều kiện như vậy. Có lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng, và tưởng tượng rằng sẽ có một giấc ngủ dài và không trở dậy nữa. Nhưng người Việt có thói quen chịu đựng và vượt qua. Tôi sâu sắc cảm thấy nhà văn là thuộc xă hội và quần chúng mà họ đang sống với. Với những người đă cùng nhau hợp tác cứu sống tôi, tôi thấy ḿnh phải can đảm để xứng đáng với sự trợ giúp mà tôi đă nhận.

 Tôi không phải là Phật tử cho dù gia đ́nh tôi theo Phật giáo. Nhưng là một nhà văn và là một người suy tưởng, tôi phải nh́n lại đời sống ḿnh và cố gắng t́m ra những ư nghĩa. Trong nhiều giờ mỗi ngày tôi đă tịnh tâm và suy niệm. Đặc biệt trong hoàn cảnh như vậy, người ta phải đi t́m sự thật và ư nghĩa của cuộc sống. Tôi đă có cơ hội đó. Tôi tin rằng mỗi chúng ta có một thượng đế trong chính ḿnh. Một người có thể tự cứu rỗi đời sống chính ḿnh qua những hành động và suy nghĩ. Sự tỉnh thức này luôn luôn có ở trong tôi.

 Vào cuối năm 1977, có các tổ chức tư nhân giúp người vượt biên. Họ liên lạc với tôi và bảo tôi cứ chờ ở nơi đang ẩn lánh. Tôi hiểu rằng đào thoát là một dịch vụ tốn kém mà tôi th́ không có một xu. Tôi không có cách nào liên lạc với gia đ́nh mà không gây nguy hiểm cho họ. Tôi chờ đợi. Vào một đêm tối trời, một người mặc áo đen đi xe Honda, đậu dưới một gốc cây sau căn nhà, hướng dẫn tôi ngồi lên xe gắn máy và lặng lẽ chạy ra hướng bờ sông Sài G̣n, nơi có một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang chờ. Tôi được bảo nên chèo ghe, giả bộ như một ngư dân. Sau 2 hoặc 3 giờ đồng hồ, tôi lại được chuyển sang một thuyền máy trên biển. Bây giờ th́ người đàn bà chủ tàu bảo tôi có thể hút thuốc. Tôi nh́n một lần chót thành phố Sài G̣n và bật khóc v́ hiểu rằng tôi chẳng c̣n bao giờ thấy lại nữa. Người dân miền Nam, hết sức gắn bó với một thành phố mang tên Sài G̣n. Tôi có cảm tưởng đă quay lưng lại với di sản của chính ḿnh.

 Trên biển cả, tôi có cảm giác được phóng thả. Tôi đă là một con người tự do.

Đó là một đêm tối đen không trăng. Chúng tôi ra được biển khơi nhưng nhưng lại có một cơn băo thổi tới từ Phi Luật Tân, vật vă con tàu nhỏ, bắt buộc chúng tôi phải trở lại bờ. Tôi trở lại nơi ẩn náu. Vài ngày sau đó, tôi được tin cha tôi chết ở tuổi 82. Đối với tập tục Á Đông, một đứa con phải về chịu tang lễ của bố mẹ hoặc mang tro

...