“Malacca Dilemma”

 Tú Hoa


“Malacca dilemma” nghĩa là ǵ?
Đối với Trung Quốc, đây là tiếng lóng mà giới lănh đạo Cộng Sản tại Bắc Kinh, trong đó có cả cựu Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, thuờng dùng để ám chỉ t́nh h́nh bất ổn khủng hoảng của Trung Quốc sẽ xảy ra như thế nào khi nền kinh tế – an ninh quốc pḥng của Trung Quốc lâm vào cảnh không đủ dầu hỏa để tiêu dùng do lượng dầu hỏa nhập khẩu chở về cho Trung Quốc bị thiếu hụt , sụt giảm hoặc bị gián đoạn hoàn toàn
Đối với Hoa Kỳ, các chiến lược gia quân sự tại Washington dùng tiếng lóng này, “Malacca dilemma,” để ám chỉ CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ của Trung Quốc tại biển Đông.
(Riêng đối với các chiến lược gia về kinh tế, th́ thành ngữ “Malacca dilemma,” ám chỉ sự lệ thuộc hoàn toàn của nền kinh tế, chính trị, quốc pḥng Trung Quốc đối với số lượng nhập khẩu dầu hỏa chuyên chở từ khắp nơi về Trung Quốc.)
Tại sao gọi là “Malacca dilemma”?
Nghĩa Việt từ tiếng Anh, “dilemma” tạm hiểu là t́nh huống bất ổn, t́nh huống khó xử. C̣n “Malacca” chính là tên của TRỤC LỘ HÀNG HẢI CHUYÊN CHỞ 80% tổng số dầu nhập khẩu từ các nơi về cho Trung Quốc, có đôi khi c̣n được gọi là “Straits of Malacca.” Trục lộ này vận chuyển khoảng trên năm triệu thùng dầu mỗi ngày cho nên kinh tế bùng phát tăng trưởng của Trung Quốc.

H́nh 1: Đường vận chuyển dầu hỏa về cho Trung Quốc qua ngă Malacca (ṿng tṛn đỏ)H́nh 1: Đường vận chuyển dầu hỏa về cho Trung Quốc qua ngă Malacca (ṿng tṛn đỏ)

I. “Malacca dilemma” là ảo ảnh hay là hiện thực của Trung Quốc?
Trước hết, Hồ Cẫm Đào là một người hết sức thực tiển. Ông ta thừa hiểu sự phát triển kinh tế là sự sống c̣n về mặt quyền lực của Đảng Cộng Sản tại Trung Quốc, thế nhưng sự tăng trưởng quá nhanh về kinh tế của Trung Quốc cần một năng lượng khủng khiếp, nhất là về mặt dầu hỏa khí đốt.
2
Câu hỏi mà ông Hồ Cẫm Đào đặt ra khi c̣n đương nhiệm chức Chủ Tịch Nước là ông phải làm ǵ để đối phó trước t́nh huống (dilemma) Trung Quốc không thể có trên năm triệu thùng dầu nhập khẩu chở về cho Trung Quốc? Từ đó, thành ngữ “Malacca dilemma” trở nên nỗi ám ảnh của tất cả những tay lănh đạo Cộng Sản chóp bu tại Bắc Kinh.
Trung Quốc đă ráng gia tăng lượng dự trữ dầu hỏa của chính phủ pḥng khi ứng biến. Bảng tổng kết chiến lược dự trữ dầu hỏa – Strategic Petroleum Reserve (SPR) do Bắc Kinh cho thấy,  mặc dù Trung Quốc cố gắng gia tăng nhập khẩu dầu từ Nga, từ Iran, các nước Cộng Ḥa Liên Xô cũ để sử dụng ống dẫn dầu lục địa, giảm bớt lệ thuộc dầu hỏa từ con đường vận tải hàng hải Malacca nhưng các ống dẫn dầu lục địa cũng chỉ cung ứng 20% đến 22% tối đa tổng lượng dầu nhập khẩu mà Trung Quốc cần, tất cả 80% c̣n lại điều phải đi qua hải lộ Malacca. Biểu đồ dưới đây cho thấy tổng số dầu nhập từ Nga, Iran và Kazakhstan không quá 22% ( black mark):
1
(Cũng xin lưu ư là hai quốc gia Nga & Iran hiện đang nằm trong t́nh trạng chế tài ngặt nghèo của Washington khiến cho trữ lượng dầu nhập khẩu về cho Trung Quốc từ hai nơi này bị giới hạn rơ rệt dù rằng cho đến nay, Washington đă dễ dăi làm ngơ cho Trung Quốc gia tăng mua dầu từ hai quốc gia này. Tuy nhiên, nguy cơ bị gián đoạn về cung ứng dầu từ hai quốc gia này do áp lực quốc tế và từ Washington lúc nào cũng là mối lo canh cánh bên ḷng của Bắc Kinh.)
Để hiểu rơ hơn nỗi ám ảnh của Bắc Kinh nếu dầu hỏa nhập khẩu bị gián đoạn, giới kinh tế gia đă đưa ra các con số thống kê tiêu thụ dầu hỏa của nền kinh tế Trung Quốc năm 2009 được thông báo bởi Bắc Kinh như sau:
2
Nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh (6%–8%) th́ sự lệ thuộc vào xăng dầu sẽ không dừng lại ở mức 52 % như năm 2009 mà sẽ lần hồi vượt qua mức 60% không cách ǵ cản trở. Do đó, tuyến đường Malacca chuyên chở dầu hỏa càng trở nên quan trọng đến sự sống c̣n của nền kinh tế Trung Quốc.
Malacca dilemma : Chuyện ǵ sẽ xảy ra nếu lượng xăng dầu nhập khẩu về cho Trung Quốc qua ngă bị thiếu hụt?
Các chiến lược gia Bắc Kinh, kinh tế lẫn quân sự phán đoán Trung Quốc sẽ ra sao theo mức độ thiếu hụt xăng dầu nhập khẩu qua ngă Malacca như sau:
a.Thiếu hụt 5% đến 10% (thiếu hụt khoảng 250 ngàn thùng đến 500 ngàn thùng mỗi ngày): Giá xăng dầu tại Trung Quốc sẽ bắt đầu vượt lên một rưỡi cho đến gấp năm và chính phủ trung ương phải mở kho dự trữ để bù vào 5% -10% thiếu hụt nhằm tránh mọi hoạt động giao thông chuyên chở bị tê liệt. Lạm phát phi mă và rối loạn tài chánh bắt đầu.
Tuy nhiên, giới chiến lược gia biết rằng Bắc Kinh sẽ co cụm và mở kho dự trữ xăng dầu rất nhỏ giọt v́ c̣n phải đề pḥng những biến cố đường dài trong khi lượng dự trữ dầu hiện chưa quá 200 triệu thùng. Bắc Kinh cần phải biết chắc nguyên do thiếu hụt dầu qua ngă Malacca sẽ kéo dài trong bao lâu trước khi xuất kho rộng răi tiếp ứng. Nếu Bắc Kinh cho rằng hay đoán rằng t́nh trạng thiếu hụt lượng dầu nhập khẩu qua ngă Malacca từ 5% đến 10% là dài hạn th́ chắc chắc, Bắc Kinh sẽ tiếp ứng theo dạng phân phối ưu tiên. Nếu vậy, Kinh tế Trung Quốc chầm chập bị tê liệt.
b. Thiếu hụt trên 10% đến 25% (thiếu hụt khoảng 500 ngàn thùng đến 1,35 triệu thùng mỗi ngày): Giao thông vận tải của Trung Quốc bị tê liệt hoàn toàn bất kể chính phủ có xuất kho dự trữ xăng dầu hay không. Trước t́nh huống này, Bắc Kinh sẽ ra lệnh quân đội kiểm soát t́nh trạng phân phối bảo vệ xăng dầu. Các ngành sản xuất công nghiệp bắt đầu bị tê liệt hoặc là do giao thông vận tải bị tê liệt, hoặc là do sự phân phối xăng dầu ngặt nghèo từ trung ương nên tŕ trệ thiếu dầu hoạt động. Nhân Dân tệ của Trung Quốc ḥan toàn vô giá trị, tất cả các ngân hàng bị lao vào khủng hoảng tài chánh v́ tiền tệ mất giá phi mă. Đói kém và khan hiếm lương thực bắt đầu xuất hiện do giao thông phân phối bế tắt.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng với quân đội phải đối phó với nội loạn do xáo trộn kinh tế gây ra như tê liệt giao thông dẫn đến thiếu thốn lương thực tại thành thị, cúp nước cúp điện do thiếu dầu bơm …vân vân
c. Thiếu hụt trên 25% cho đến 50%(thiếu hụt trên 1,35 hai thùng mỗi ngày) : Kinh tế của Trung Quốc hoàn toàn bị tê liệt ở mọi mặt, mọi ngành và không có biện pháp nào có thể cứu văn trừ phi t́nh trạng thiếu hụt xăng dầu từ nhập khẩu qua ngă Malacca nhanh chóng chấm dứt. Trung Quốc hoàn toàn toàn lao vào nội loạn. Quân đội cần phải khống chế xăng dầu cho những lư do quốc pḥng.
Giới lănh đạo Cộng Sản tại Bắc Kinh hiểu quá rơ Trung Quốc không thể có một ngày thiếu dầu cho tiêu dùng , nhất là đối với một nền kinh tế phát triển từ 6% đến 8% , hiện đang có khoảng gần 30 triệu chiếc xe hơi uống xăng mỗi ngày, gần 17 triệu chiếc xe tải cũng không thể ngừng chuyên chở trên xa lộ, và 11 triệu chiếc xe buưt (bus) cho giao thông công cộng. Bế tắt về giao thông, đ́nh trệ về chuyên trở, kinh tế của Trung Quốc đủ để quỵ ngă và rối loạn. Đó là chưa kể mọi ngành công nghiệp điều uống dầu như uống nước ( cần 3,27 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2009 như bản thống kê nêu ở trên.)
“MALACCA DILEMMA” IS REAL!
II. Tại sao thành ngữ “Malacca dilemma” được Hoa Kỳ dùnh dể ám chỉ chiến lược quân sự của Trung Quốc tại biển Đông?
Dưới ánh mắt của các chiến lược gia (think tank) quân sự của Hoa Kỳ th́ những hành động quân sự, chiến thuật chiến lược quân sự của Trung Quốc tại biển Đông là những biên pháp mà giới lănh đạo Cộng Sản Bắc Kinh muốn thi hành để hạn chế “Malacca dilemma” xảy ra một cách tối đa
Nói một cách khác , “Malacca dilemma” là chiến lược quân sự của Trung Quốc tại biển Đông, là những biện pháp mà Trung Quốc đưa ra để giảm thiểu tối đa nguy cơ “Malacca dilemma” có thể xảy ra. Mục tiêu của chiến lược “Malacca dilemma” , theo Hoa Kỳ là gia tăng khả năng của Trung Quốc bảo vệ & khống chế tuyến đường vận chuyễn dầu hỏa nhập khẩu ngang biển Đông về cho Trung Quốc.
Để làm được điều này, Trung Quốc cần phải gia tăng hiện diện hải quân tại Bangladesh & Ấn Độ Dương (phía trước ngă Malacca), Hoàng Sa, Trường Sa (phía sau ngă Malacca). Có như vậy, Trung Quốc mới có đủ khả năng can dự giải quyết mọi biến cố, mọi nguy cơ dẫn đến tuyến đường dầu hỏa qua ngă Malacca bị gián đoạn.
a. Phía trước ngả Malacca:
Hiện Bangladesh là đồng minh quân sự của Trung Quốc, đang được Trung Quốc sản xuất hai chiếc tàu ngầm cũng như đang được Trung Quốc bỏ chín tỷ Mỹ kim để xây cảng nước sâu có thể dùng cho quân sự lẫn dân sự có tên là Chittagong. Cảng này cũng có luôn đường rày (rail) chạy thẳng từ cảng qua Trung Quốc.
Như vậy, trong trường hợp phía trước ngă Malacca có vấn đề, không những Hải quân Trung Quốc có thể từ cảng Chittagong chạy tới can thiệp mà dầu hỏa có thể tấp bến Chittagong rồi theo đường rày mới này mà chở về Trung Quốc. Cũng có thể tương lai, Trung Quốc xây cả hệ thống dẫn dầu từ cảng Chittagong song song với đường rày về Trung Quốc.
4
Trung Quốc cũng đă bỏ ra 1 tỷ Mỹ kim đề xây dựng cảng nước sâu Hambantota ở Sri Lanka (h́nh 2) để các tàu chở dầu về Trung Quốc từ hướng vùng Vịnh Trung Đông có thể cập bến nghĩ ngơi. Cảng Hambantota cũng có cả sự hiện diện của các tàu Hải quân Trung Quốc, lấy cớ là để pḥng chống hải tặc nhưng thật ra là để hộ tống tàu chở dầu cũng như thao dược cho sức mạnh Hải quân trong chiến lược ứng phó “Malacca dilemma” của ḿnh.
Với hai bến cảng Chittagong của Bangladesh và Hambantota của Sri-Lanca nối liền hổ trợ cho nhau, Hải quân Trung Quốc đủ sức giám sát, hộ tống, can thiệp hoặc đe dọa mọi quốc gia muốn dùng sức mạnh quân sự, ngoại giao hay muốn dùng lợi thế về địa giới để khống chế, ngăn cản hoặc cấm vận Trung Quốc khiến lượng dầu nhập khẩu không thể chở về Trung Quốc được đầY đủ an toàn.
Tuy chỉ là mới tiến hành cho nên sự hiện diện hải quân Trung Quốc phía trước ngă Malacca chưa được rơ rệt và hùng mạnh hoàn toàn, nhưng tương lai, nếu không có ǵ ngăn trở, th́ chắc chắn hàng không mẫu hạm và tàu ngầm nguyên tử của Trung Quốc sẽ có mặt thuờng xuyên ngay phía trước ngă Malacca.
a. Phía sau ngả Malacca:
Phía sau ngă Malacca th́ Việt Nam & Phi Luật Tân là hai quốc gia quan trọng mà Trung Quốc cần phải đối phó khống chế hoàn toàn nhăm đảm bảo an toàn cho con đường dầu hỏa của ḿnh. Trong đó, Việt Nam nổi bật lên là quốc gia có đủ điều kiên về địa lợi để khống chế con đường dầu hỏa của Trung Quốc.
Hải phận của Việt Nam kéo dài song song với đường vận chuyển dầu hỏa qua ngă Malacca nên thuận tiện cho việc quan sát, ngăn cấm hoặc bắn phá từ trong đất liền. Hai quần đảo Trường Sa & Hoàng Sa của Việt Nam nằm ngay trên trục lộ vận chuyển dầu hỏa chở về Trung Quốc (h́nh 1,) cho nên Trung Quốc cần phải chiếm đóng, kiểm soát hoàn toàn hai quần đảo th́ mới có thể an tâm trong chiến lược quân sự nhằm đối phó “Malacca dilemma.”
Dưới sự phân tích của giới quân sự Trung Quốc, nếu Việt Nam có thể hiện diện Hải quân tại Trường Sa th́ mọi vận chuyển dầu hỏa của Trung Quốc sẽ bị nắm cán trong trường hợp hai nước Việt Nam – Trung Quốc xung đột giao tranh; nhất là khi Việt Nam có cơ hội hiện đại hóa hàng ngũ tàu tuần duyên, chiến hạm của ḿnh, cũng như hiện đại hóa hệ thống pháo kích tên lửa từ đất liền (strategic land to sea missle) do Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và các nước đồng minh của Hoa Kỳ giúp đở.
Các tướng lănh Trung Quốc cho rằng nếu Việt Nam cứ tiếp tục bắn ch́m các tàu chở dầu về cho Trung Quốc dựa vào địa thế duyên hải thuận lợi th́ về lâu về dài, Trung Quốc dù khổng lồ nhưng bị quỵ ngă v́ kinh tế thiệt hại, chậm lại và bị tê liệt từ từ (“Malacca dilemma” như đă giải thích phần I.) Giới quân sự Trung Quốc coi Việt Nam như là con dao ngay cần cổ. Địa thế của Việt Nam giúp Việt Nam có cơ hội nắm lấy yết hầu vận chuyển dầu hỏa của Trung Quốc và v́ vậy, Trung Quốc bằng mọi giá phải tiêu diệt mọi khả năng quân sự của Việt Nam trong nỗ lực đối phó với “Malacca dilemma.”
“Malacca dilemma” liên quan trực tiếp đến an nguy quốc pḥng của Việt Nam. Cộng Sản Hà Nội đă t́m đủ mọi cách để trấn an Trung Quốc là Hà Nội sẳn sàng quy lụy, sẳn sàng thuần phục Bắc Kinh và sẽ không bao giờ gây nguy hại đến sự an toàn vận chuyển dầu hỏa của Trung Quốc. Thế nhưng, giới lănh đạo Bắc Kinh không thể nào hớ hên tin tưởng Việt Nam được v́ đường dầu hỏa là YỂT HẦU SINH TỒN của cả Trung Quốc. Cho nên, Trung Quốc dù hiện nay chấp nhận sự thần phục của Cộng Sản Hà Nội ngoài bề mặt nhưng vẫn chuẩn bị lực lượng quân sự Không – Hải khổng lồ áp sát Việt Nam mong sẽ làm Việt Nam tê liệt nhanh chóng nếu điều kiện chính trị cho phép Trung Quốc giao tranh với Việt Nam.
Tóm lại, bất luận Hà Nội có quy lụy phục tùng Bắc Kinh cở nào đi chăng nữa, trước hay sao ǵ, sức mạnh quân sự đang có của Cộng Sản Hà Nội cũng bị Bắc Kinh bẻ găy, tiêu diệt.
Thái độ ve văn của Hoa Kỳ đối với Việt Nam càng làm cho Bắc Kinh nghi ngờ thành tâm thần phục của Cộng Sản Hà Nội, càng làm cho Bắc Kinh sốt ruột và quyết tâm thôn tính, đập nát sức mạnh quân sự của Cộng sản Hà Nội bằng mọi giá trong tương lai.
Sau đây là sơ lược áp lực Không- Hải kinh khiếp của Trung Quốc lên Việt Nam, dù đang là hữu nghị hợp tác thời b́nh, t́nh đồng chí “mười sáu chữ vàng, bốn tốt :”
a1. Tập trung Không lực cho đối sách “Malacca dilemma:”
Hiện Trung Quốc tập trung năm sư đoàn không quân nhắm thẳng vào Hà Nội- Hải Pḥng và các tỉnh biên giới phía Bắc. Theo tính toán của Trung Quốc, nếu bộ Quốc Pḥng Cộng Sản Hà Nội bị oanh kích đến tê liệt th́ mọi sự chỉ huy, điều động về mắt quốc pḥng cho Việt Nam hoàn toàn rối loạn. Khi đó, Trung Quốc sẽ nhanh chóng khống chế t́nh h́nh giao chiến, đặt ra sự đă rồi để buộc Hoa Kỳ và các nước đồng minh Hoa Kỳ chấp nhận những điều kiên thuơng thuyết do Bắc Kinh đưa ra khi tái lập ḥa b́nh.
Năm sư đoàn không quân tiêm kích có khoảng 500 phản lực cơ ( jet) hiện diện thuờng trực đe dọa tối đa bầu trời Hà Nội và các vị trí chiến lược quốc pḥng của Việt Nam. Trong thời b́nh mà tập trung Không lực như thế th́ rơ ràng Bắc Kinh không muốn nh́n thấy Cộng Sản Hà Nội c̣n đường sống nếu xảy ra giao tranh.
a2. Tập trung Hải quân cho đối sách “Malacca dilemma”:
Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tập trung dọc theo hải lộ dầu hỏa Hoàng Sa, Trường Sa có khoảng 31 chiếc tàu ngầm, 16 chiến hạm lớn, 40 chiến hạm nhỏ đủ sức tiêu diệt tiêu diệt Hải quân của Cộng Sản Hà Nội và khống chế t́nh huống chuyên chở dầu hỏa.
Trung Quốc cũng gia tăng xây dựng các đảo nhân tạo trên quần đảo Trường Sa để ứng phó với chính sách dùng cảng hải quân Cam Ranh & Đà Nẳng của Hà Nội làm nơi pḥng thủ công phá các tàu chở dầu & tàu chiến Trung Quốc bằng hệ thống tên lửa đất đối hải (land to sea missile ) khi có giao tranh .
Các đảo nhân tạo này có cảng cập bến, có đường bay quân sự, có hệ thống báo động radar từ xa kiễm soát toàn bộ mọi hoạt động không-hải trong ṿng 250 hải lư, có hệ thống truyền tin trực tiếp thẳng về Bắc Kinh để Bắc Kinh có thể nắm vững t́nh h́nh trực tiếp của các chuến tàu đi ngang qua trục lộ dầu hỏa này. Dự kiến, trên đảo nhân tạo sẽ có các dàn tên lửa đất đối không , đất đối hải trong nay may khiến toàn bộ hải lộ dầu hỏa phía sau Malacca traits bị Trung Quốc khống chế.
Dù chỉ là mới bắt đầu, nhưng “sáng kiến” này giúp Bắc Kinh có cơ hội hiện diện thuờng trực với lực lượng Hải- Không áp đảo Việt Nam và quân bằng bớt ưu thế về Hàng Không Mẫu Hạm của Hoa Kỳ tại biển Đông.
III. Kết
Những hành động bị lên án là hiếu chiến, hung hăng của Trung Quốc tại biển Đông có lư do rất rơ ràng: Bắc Kinh đang t́m kiếm & thực thi những biện pháp mà Bắc Kinh cho là cần thiết, khả thi để giảm thiểu tối đa nguy cơ “Malacca dilemma” xảy ra đối với Trung Quốc. “Malacca dilemma” là một hiện tượng mà trong đó, hải lộ vận chuyển dầu hỏa nhập khẩu về cho Trung Quốc qua ngă Malacca bị đe dọa hay phong tỏa khiến nền kinh tế Trung Quốc hoàn toàn bị tê liệt v́ thiếu dầu. Trung Quốc là một quốc gia lệ thuộc trên 50% vào lượng dầu hỏa nhập khẩu để duy tŕ phát triển kinh tế, ổn định xă hội và chính trị. Trung Quốc đă gia tăng hiện diện Hải quân cả trước và sau ngả Malacca để có thể khống chế hay can thiệp vào hải lộ vận chuyển dầu hỏa này nếu t́nh h́nh bất lợi cho Trung Quốc. Sự hiện diện này chỉ tăng trong tương lai chứ không có giảm đi.
Đơn giản, Trung Quốc đang t́m đủ mọi cách để bảo vệ yết hầu sống c̣n cho nền kinh tế của ḿnh- đó là DẦU HỎA!