PHẠM DUY VIẾT VĨNH BIỆT HOÀNG CẦM
Trong một đoạn đời u uất của kiếp ca nhân trên đường lữ thứ, tôi đă được cứu rỗi bằng h́nh ảnh lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc, con bê vàng lạc mẹ... của người bạn thi sĩ mang tên Hoàng Cầm.
Mối duyên kỳ ngộ
Từ sau Cách mạng tháng Tám, Hoàng Cầm, Văn Cao với tôi đă trở thành bạn thân, lúc nào, ngày nào cũng có nhau, khiến nhiều người gọi chúng tôi là “bộ ba bất khả ly”. Văn Cao với tôi xưng là “ông” - “tôi”, c̣n tôi và Hoàng Cầm thích gọi nhau là “tao” - “mày” v́ tuổi chúng tôi chỉ chênh nhau vài tháng.
Kháng chiến chống Pháp nổ ra, tôi ở Lào Cai với Văn Cao ít lâu rồi khoác ba lô ra đi, chọn con đường làm kẻ hát rong.
Cuối năm 1947 đó, tôi và nhạc sĩ Ngọc Bích từ tỉnh lỵ Thái Nguyên bị tiêu hủy hoàn toàn đi bộ qua Bắc Giang, t́m về làng Lan Giới thuộc khu Nhă Nam, Yên Thế (Bắc Giang) để gia nhập đội Văn nghệ kháng chiến của Hoàng Cầm. Lúc ấy, đội văn nghệ chỉ có 7 - 8 người nhưng chúng tôi đi lưu diễn khắp những nơi có Vệ Quốc Đoàn đóng quân trong ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng.
Thi sĩ Hoàng Cầm (1922-2010)
Tôi và Hoàng Cầm tính trái ngược nhau, trong khi tôi thích đùa giỡn th́ anh giống như một ông đồ non, lúc nào cũng ngồi hút thuốc lào, rung đùi, trầm ngâm.
Lúc ấy, anh đang sống chung với Tuyết Khanh - người sinh ra Kiều Loan mà sau này duyên kỳ ngộ đă trở thành con gái đỡ đầu của tôi bên Mỹ. Cầm mơ mộng, nặng t́nh. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ đêm vợ chồng Cầm - Khanh chia tay nhau để Cầm lên đường đi lưu diễn vùng kháng chiến, lần bên nhau cuối cùng của họ.
Trong bữa cơm đạm bạc tại Phố Nỉ (Bắc Giang), Hoàng Cầm ngồi rung đùi ngâm thơ bên cạnh người vợ mà sau đấy rồi đây anh sẽ không bao giờ gặp lại nữa, giọng ngâm buồn rười rượi...
Hồn thơ tranh đấu...
Với tôi, chỉ có thơ của Hoàng Cầm mới làm cho miền đất Kinh Bắc lung linh và hiển hách hơn bất cứ một giọng thơ nào khác. Thơ kháng chiến của anh không chỉ có h́nh ảnh Vệ Quốc Quân mà c̣n rất quan tâm tới người dân thường như người mẹ già, người vợ hiền, cô hàng xén răng đen, đàn trẻ nhỏ sột soạt quần nâu… Khi những bài thơ đó được ngâm lên, ai mà không muốn chiến đấu để ǵn giữ cảnh vật và những con người thân yêu đó?
Những bài thơ kháng chiến như vậy đă được Hoàng Cầm và tôi diễn ngâm trong rừng sâu, trên đồi cao hay trong những hang đá dưới ánh đuốc bập bùng... Trong ba lô của bất cứ một Vệ Quốc Quân nào cũng có những bài thơ chép tay của Hoàng Cầm.
Tôi không có tham vọng đóng vai tṛ một nhà khảo cứu phê b́nh, tôi chỉ muốn hoá giải một nỗi buồn thương trong tôi mỗi khi nhớ tới Hoàng Cầm. Tôi muốn nói rằng: Trước hết, trong thi ca Việt Nam có một giai đoạn được gọi là ''thời kỳ kịch thơ'' th́ ai cũng phải công nhận đó là thời kỳ của Hoàng Cầm. So với các thi sĩ khác, kịch thơ của Hoàng Cầm chói lọi nhất (mặc dù về sau, kịch thơ không c̣n đất đứng).
Năm 2000, trở về Hà Nội, người tôi đến thăm đầu tiên là Hoàng Cầm. Khi tôi thổ lộ ư định muốn trở về định cư trên đất Mẹ, anh bảo dù cho c̣n chút hơi tàn cũng cố kư vào lá đơn để tôi trở về, v́ người nghệ sĩ không thể nào sống thiếu quê hương. Anh đă sống một đời thơ như thế, câu nào, chữ nào cũng chan chứa hương vị quê hương.
Hoàng Cầm & Phạm Duy sau bao năm xa cách
Giờ đây phải vĩnh biệt anh, tôi càng thấm thía câu chuyện mà chúng tôi đă nói cùng nhau vào lúc cả hai đều gần đất xa trời, rằng rốt cuộc đều thấy đời ḿnh chỉ là một cuộc chơi!
Cuộc chơi đă đưa hai đứa lên rất cao, rồi cũng đă d́m hai thằng xuống rất sâu nhưng cả hai kẻ lăng tử này đều được cứu rỗi bởi một sợi dây bí ẩn. Đó là sợi dây cảm nhận, rung động và sáng tạo nghệ thuật - nó làm cho chúng tôi, sau nhiều cơn vật vă vẫn có thể gạn đục khơi trong rồi làm ra những vần thơ điệu nhạc lung linh sức sống kỳ diệu của con người.
Vâng! Nghệ thuật đă rửa hồn chúng tôi, như Hoàng Cầm đă nói: “Ton art purifie ton âme” và đă giúp anh đi nốt con đường đă chọn: CON ĐƯỜNG T̀NH, t́nh nước, t́nh người.
Nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 tại làng Lạc Thổ, nay là xă Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Năm 1957, ông là một trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Những tác phẩm chính trong sự nghiệp sáng tác của ông: Trương Chi (xuất bản năm 1993), Bên kia sông Đuống (thơ, 1948), Kinh Bắc (thơ, 1959), Men đá vàng (truyện thơ, 1973), Mưa Thuận Thành (thơ, 1959), Lá diêu bông (thơ, 1959), Đến từ hư không (thơ, 2000)...
Năm 2007, Hoàng Cầm được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật. Ông qua đời lúc 9 giờ 30 ngày 6-5-2010 tại Hà Nội sau một cơn bạo bệnh, hưởng thọ 89 tuổi.
Phạm Duy
Nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013)
*****
Hoàng Cầm làm nhiều thơ như Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Một Ḿnh, Ngă Ba Sông... nhưng bài Nếu Anh C̣n Trẻ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc với tên là T́nh Cầm có vẻ được biết đến nhiều hơn cả.
Xin mời thưởng thức bài T́nh Cầm với giọng hát Quang Dũng. Hầu hết h́nh ảnh được chụp tại vùng Việt Bắc và Huế. VCH
* Xin bấm vào link dưới đây: