Bachelard và tác phẩm
Sự h́nh thành tinh thần khoa học (*)
Tiểu sử
Triết gia Pháp Gaston Bachelard sinh năm 1884 tại Bar-sur-Aube, một tỉnh nhỏ cách Paris hơn 200 km về phía đông. Xong trung học tại đây, ông trở thành nhân viên bưu điện (1903 - 1913) trong khi vẫn tự học để thi đỗ cử nhân toán năm 1912. Vừa thành hôn năm 1914 với cô Jeanne Rossi, giáo viên tiểu học cùng quê, th́ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, ông vào quân ngũ. Chiến tranh kết thúc, ông trở về sum họp với bà Jeanne chưa được bao lâu th́ bà mất năm 1920, để lại một một người con gái, Suzanne Bachelard (1919 - 2007), sau này là giáo sư về khoa học luận tại trường Cao đẳng Sư phạm Sèvres và Đại học Sorbonne. Ông dạy hai môn Vật lư và Hoá học tại trường trung học Bar-sur-Aube (1919 - 1930) trong khi vẫn tiếp tục tự học để lấy các bằng cử nhân triết học năm 1920, thạc sĩ triết học năm 1922, và tiến sĩ văn chương năm 1927. Từ 1930 đến 1940 ông dạy triết học tại Đại học Dijon, rồi thành giáo sư về lịch sử khoa học và khoa học luận tại Sorbonne từ 1940 đến 1955, năm ông được bầu vào Hàn lâm Viện Pháp. Ông qua đời năm 1962 tại Paris và được an táng tại Bar-sur-Aube.
Các tác phẩm chính
Các tác phẩm của Bachelard được chia thành hai ḍng trước tác song song, cả hai đều có tiếng vang lớn và được dịch ra nhiều ngôn ngữ: một mặt là những nghiên cứu văn học, đặc biệt về những mơ mộng và tưởng tượng của con người thể hiện qua thi ca, trước những hiện tượng trực quan cơ bản của thế giới, những tứ đại nguyên tố của thời cổ đại, đất, nước, lửa, khí... như:
Nước và những mơ mộng (L'eau et les rêves - 1942)
Không khí và những giấc mơ (L'air et les songes - 1943),
Đất và những mơ màng nghỉ ngơi (La Terre et les rêveries du repos - 1946)
Ngọn lửa nến (La flamme d'une chandelle - 1961)
...
Mảng thứ hai trong các tác phẩm của Bachelard là về khoa học luận, có thể liệt kê những tác phẩm chủ yếu như:
Giá trị quy nạp của thuyết tương đối (La valeur inductive de la relativité - 1929)
Tinh thần khoa học mới (Le nouvel esprit scientifique - 1934)
Phân tâm luận về lửa (La Psychanalyse du Feu - 1938)
Sự h́nh thành tinh thần khoa học (La formation de l'esprit scientifique - 1938)
Triết lư của chữ Phi (La philosophie du Non - 1940)
Chủ nghĩa duy lư ứng dụng (Le rationnalisme appliquée - 1949)
Hoạt động duy lư của vật lư đương đại (L'activité rationaliste de la physique contemporaine - 1951)
Chủ nghĩa duy vật duy lư (Le matérialisme rationel - 1953)
...
(...)
Khoa học luận của Bachelard
Thực ra, với khủng hoảng nền tảng của toán học, được các nhà luận lư học giải quyết hiệu quả, cũng như từ vật lư học của cuối thế kỷ 19 và hai cuộc cách mạng của thuyết tương đối và thuyết lượng tử, th́ việc nhận định của các nhà khoa học luận về tiến bộ khoa học, như là kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn giữa lư thuyết và hiện thực, đương nhiên giống nhau. Khác biệt giữa các tác giả nằm ở sự rút ra những kết luận ǵ cho nhận thức luận, và ở những cách tiếp cận khác nhau để làm việc đó như đoạn trên đă tŕnh bày.
Tiến bộ khoa học theo Bachelard không phải là sự gom góp dần dần ngày càng nhiều hơn của hiểu biết về Hiện Thực (viết hoa), mà là kết quả của một cuộc đấu tranh không ngừng giữa lư trí và h́nh ảnh của Hiện Thực, viết gọn là hiện thực (không chữ hoa) v́ trong lư trí chỉ có h́nh ảnh của Hiện Thực. Lư trí không ngừng đặt ra cho hiện thực những câu hỏi mới: "tư duy đi tới hiện thực, nó không đi ra từ hiện thực" (trích Giá trị quy nạp của thuyết tương đối), vậy cũng có thể nói là tư duy khoa học không ngừng đấu tranh với chính nó. Sự phát hiện vấn đề v́ thế có tầm quan trọng đặc biệt, v́ đó là khi câu trả lời của hiện thực mâu thuẫn với hiện thực. "Chính cái ư thức nh́n thấy vấn đề là dấu ấn chính xác của một tinh thần khoa học đích thực. Với một đầu óc khoa học th́ hiểu biết nào cũng là câu trả lời cho một câu hỏi. Nếu đă không có câu hỏi th́ cũng không thể có hiểu biết khoa học. Không có ǵ tự nhiên thành, không có ǵ cho sẵn, tất cả phải được xây dựng nên". (Sự h́nh thành tinh thần khoa học, lời phi lộ). Cái được xây dựng là một lư thuyết khoa học. Câu hỏi và câu trả lời của hiện thực, dĩ nhiên là hoạt động thực nghiệm. Như thế hiện thực của Bachelard chính là hiện thực được khoa học xây dựng nên, ông không có một tư duy tiên thiên nào về Hiện Thực.
Trong khi cách tiếp cận của các tác giả Áo-Anh-Mỹ chịu ảnh hưởng của luận lư h́nh thức, đặt nặng tính đồng đại và cấu trúc, th́ cách tiếp cận của Bachelard là biện chứng, đặt nặng tính lịch đại. Trước Kuhn khá lâu Bachelard đă đề ra khái niệm gián đoạn nhận thức (rupture épistémologique) tương tự như sự chuyển dịch paradigma[1] nhưng có lẽ c̣n hoàn chỉnh hơn, v́ ông quan niệm sự gián đoạn nhận thức như một vận động biện chứng của nhận thức, nhận thức mới vừa phủ định vừa bao gồm nhận thức cũ. Một thí dụ để so sánh sự phủ-định-bao-gồm của Bachelard và sự chuyển dịch paradigma của Kuhn: nếu đúng là cơ học của Newton không thể diễn tả cơ học của Einstein, th́ ngược lại cơ học của Einstein hoàn toàn có thể diễn tả cơ học của Newton, đó là trường hợp những vận tốc nhỏ so với vận tốc ánh sáng, do đó trên thực tế có thể coi vận tốc ánh sáng là vô hạn. Sự bất khả liên thông chỉ có một chiều.
Cần nói thêm là không có phương pháp luận nào cho phép con người tự động tạo ra một bước nhảy vọt trong tư duy khoa học. Bước nhảy trong tư duy của Einstein vừa là kết quả của một quá tŕnh tiếp thu và phê phán các lư thuyết đă có sẵn (gần như tất cả toán học của thuyết tương đối hẹp đă do Lorentz và Poincaré phát triển, trước khi Einstein diễn tả chúng trong một cái nh́n sáng tỏ mới về thế giới vật chất, sau đó được Minkovski hoàn chỉnh), vừa là kết quả của một sáng tạo thiên tài. Mà sáng tạo th́ không có cách ǵ học được, nếu không đă có thể có hàng ngàn Einstein.
Nhưng có phải v́ thế mà "làm ǵ cũng tốt!" như có thể hiểu vội vă tuyên bố của Feyerabend[2]? Cần hiểu Feyerabend một cách tế nhị hơn, v́, nói như ngôn ngữ nhà Phật, "vô minh th́ vọng động", "làm ǵ cũng tốt" trong t́nh trạng vô minh th́ chỉ là vọng động[3]. Sáng tạo cần tự do, mà điều kiện lớn nhất cho tự do là hiểu biết, nếu bị trói buộc trong những sai lầm th́ chỉ có ảo tưởng về tự do mà thôi. Không biết Bachelard có nghĩ như thế không, mà quá tŕnh tư duy khoa học đấu tranh chống lại những sai lầm của chính nó là một trong những chủ đề nghiên cứu của ông, đặc biệt trong cuốn Sự h́nh thành tinh thần khoa học này, khi ông nghiên cứu về giai đoạn cuối của thời kỳ tiền khoa học, và về những chướng ngại nhận thức (obstacles épistémologiques), đúng ở thời điểm mà chúng sắp được vượt qua.
Sự h́nh thành tinh thần khoa học
Tác phẩm này được xuất bản năm 1938, bốn năm sau "Tinh thần khoa học mới", trong đó Bachelard nhằm "nắm bắt tinh thần khoa học đương đại trong biện chứng của nó". Với quan điểm là triết học phải rút ra những kết luận từ khoa học tự nhiên chứ không phải ngược lại, những tư duy của ông khởi đi từ những thành tựu khoa học có tính cách mạng của đầu thế kỷ 20: h́nh học phi Euclide, toán học xác xuất, thuyết tuơng đối và thuyết lượng tử... để đề nghị một phương pháp luận "phi Descartes"... Những điều này, có thể nói là về mặt sáng của tinh thần khoa học đương đại, hiện nay đă được phổ biến nhiều, nên người dịch nhận thấy có lẽ việc dịch Sự h́nh thành tinh thần khoa học, nói về vùng tối mà tư duy khoa học đă phải vượt qua, có lẽ mang lại nhiều điểm mới và có ích hơn để phục vụ bạn đọc Việt Nam ngày nay. Tác phẩm này chỉ nói về việc thành h́nh tư duy khoa học cổ điển, nói chính xác hơn là về những chướng ngại của tư duy tiền khoa học trong thế kỷ 18 về trước, mà nó đă vượt qua.
Sách có 12 chương th́ ngoài hai chương mở đầu và kết luận, Bachelard dành 10 chương cho 10 chướng ngại nhận thức khác nhau. Để t́m ra những chướng ngại đó và t́m hiểu qua cơ chế nào đă tác động đến việc nghiên cứu khoa học, Bachelard đă dựa trên sự phân tích một thư tịch đồ sộ của các tác giả tiền khoa học, và ngay cả của những nhà khoa học tiên phong lớn như Buffon, Descartes, Franklin, Lavoisier, Volta... trong chừng mực mà tư duy khoa học của họ vẫn chưa thoát ra hẳn khỏi những chướng ngại. Chính v́ thế, qua đó người đọc cũng khám phá những nét rất thú vị của tư tưởng tiền khoa học tại Âu Tây, những nét này không khỏi khêu gợi sự liên tưởng về các dấu vết hiện nay vẫn c̣n nằm sâu trong nền văn hoá này; cũng không kém thú vị khi người ta nghĩ đến những tương đồng với nhiều nét của tư duy Á Đông, có tính tiền khoa học khá rơ rệt. Phân tích của Bachelard sử dụng công cụ lư luận của phân tâm học, phân tâm luận của Bachelard mở rộng phân tâm luận của Freud theo nghĩa Freud chỉ nghiên cứu phân tích tâm lư trong quan hệ giữa người với người, Bachelard đem những phuơng pháp phân tâm luận áp dụng cho quan hệ giữa người và tự nhiên.
Ngoại trừ những trường hợp đơn lẻ, hai thí dụ được Bachelard tập trung mổ xẻ là ngành giả kim - hoá học, và sự phát triển của điện học.
*
Trong mười chướng ngại nhận thức, có thể gom lại bốn chướng ngại đầu tiên, từ chương II đến chương V là: 1) chướng ngại của kinh nghiệm trực quan; 2) Chướng ngại của hiểu biết tổng quát; 3) Chướng ngại của ngôn ngữ; và 4) Chướng ngại của hiểu biết thống nhất và thực dụng. Có lẽ chúng đều đi đến từ rất sâu thẳm trong quá tŕnh h́nh thành con người: nhận diện thế giới vật chất qua kinh nghiệm thực tiễn, mô tả nó qua ngôn ngữ rồi chịu ảnh hưởng ngược lại của ngôn ngữ, và khái quát hoá quá sớm.
Chương VI nói về 5) Chướng ngại duy thể chất, có lẽ đặc thù hơn trong một nền văn hoá tiếp thu từ Hy Lạp: bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của một thể chất. Người ta không đặt nặng hoặc chưa h́nh thành rơ rệt ư tưởng về hiện tượng như một quan hệ giữa các thực thể.
Trong bốn chương tiếp theo từ VII đến XI: 6) Phân tâm luận về người duy thực; 7) Chướng ngại vật linh; 8) Huyền thoại về sự tiêu hoá; và 9) Libido và hiểu biết khách quan; tác giả vận dụng những phương pháp của phân tâm học để nêu rơ tại sao có những sai lạc trong những tiếp cận mang tham vọng khoa học nhưng không đạt được tính khoa học cần thiết: đó là do ảnh hưởng bị giấu kín của những động lực có tính bản năng của con người, như bản năng chiếm lĩnh, sự phóng chiếu vật linh, bản năng đói, và libido.
Chương XI, 10) Những chướng ngại cho sự hiểu biết định lượng, đề cập đến hiện tượng định lượng hoá quá đà, thành vô nghĩa; mở rộng ra, đó là ư hướng tuyệt đối hoá việc áp dụng các quy luật khoa học. Có thể hiểu đây là trường hợp sự hiểu biết khoa học đă cũ có thể trở thành một chướng ngại cho một nhận thức khoa học mới.
*
Một đôi lời về "Lời phi lộ" của tác giả. Như ông đă viết trong chương "Đề cương": "Nhận thức về thực tại là một nguồn sáng luôn luôn phóng ra bóng tối ở một nơi nào khác", tác phẩm này chủ yếu nói về những vùng tối, vùng phủ bóng của những chướng ngại nhận thức. Ông xoáy mạnh vào giai đoạn lịch sử mà những chướng ngại sắp được vượt qua, nhưng ít khi trả lời câu hỏi: "vượt qua như thế nào?". Theo thiển ư, mỗi lần "vượt qua" là một hành động sáng tạo đặc thù không thể mô tả ngắn gọn, vượt qua chướng ngại để đến vùng sáng của khoa học cần những tác phẩm khác; "tinh thần khoa học là như thế nào?" chỉ được nhắc lại rất ngắn gọn trong tác phẩm này. "Lời phi lộ", và phần đầu của "Đề cương" làm công việc đó một cách rất súc tích, v́ vậy tương đối khó nắm bắt. Có lẽ bạn đọc không quen với lịch sử khoa học không nên nản ḷng, đoạn đầu của cuốn sách này cần được đọc trở lại nhiều lần trong khi đọc những chương sau, vùng tối của bức tranh có thể sẽ phần nào làm rơ nét hơn vùng sáng chăng.
Tuy nhiên, ngược lại cũng cần biết thêm lịch sử khoa học về phía ánh sáng, để hiểu rơ hơn tác phẩm. Chẳng hạn, đoạn mở đầu của "Lời phi lộ" sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại câu nói của Gallilei có đại ư: "tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học". Ngay sau đó, "sự thiếu hụt" mà biểu hiện toán học có thể bao hàm, và "dẫn đến những quan hệ cơ bản sâu sắc hơn"... sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta lấy làm thí dụ thuyết tương đối hẹp đă nói tới ở trên. Mặc dù hai tiền bối Lorentz và Poincaré đă phát triển đại bộ phận mô h́nh toán học, nhưng họ vẫn đứng trong vùng phủ bóng của chướng ngại nhận thức, chướng ngại đó chính là khái niệm ête, mà người tuổi trẻ Einstein đă vượt qua bằng cách triệt tiêu hoàn toàn. Lorentz và Poincaré đă biết "cái như thế nào thuần hiện tượng" nhưng chỉ Einstein mới đă trả lời được về "cái tại sao toán học". Và đó là phê phán của Bachelard về thái độ thực chứng luận giáo điều, trước mọi hiện tượng vẫn rao giảng (đại ư) "khoa học chỉ trả lời câu hỏi: như thế nào? chứ không hề nói tại sao"[4].
*
Cuộc đời tự học và dạy trung học của Bachelard có ảnh hưởng không nhỏ đến các tác phẩm về khoa học luận của ông, nhất là trong tác phẩm Sự h́nh thành tinh thần khoa học được dịch và giới thiệu ở đây. Đồng thời như ta đă thấy, đây cũng là một tác phẩm nối liền hai ḍng tư duy của ông, tư duy phân tâm học về tổng thể con người cá thể, kể cả những ảnh hưởng vô thức, đứng trước thế giới; và tư duy khoa học chính xác, nhằm tiến đến hiểu biết duy lư về Hiện Thực. Tóm lại, có thể nói không tác phẩm nào "mang dấu ấn Bachelard" hơn tác phẩm này: nhà giáo, nhà phân tâm học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử khoa học... bởi vậy đây cũng là tác phẩm độc đáo nhất, không những của ông, mà c̣n của cả thư tịch khoa học luận.
Và nếu tư duy con người cá thể phát triển theo một mô h́nh thu nhỏ của lịch sử tư duy của loài người; th́ những chướng ngại nhận thức mà Bachelard chỉ ra cho khoa học của thế kỷ 18 vẫn c̣n trong tâm lư con trẻ (và ít nhiều trong cả những người không có một hiểu biết vững vàng về tinh thần khoa học hiện đại) ngày nay. Do đó tác phẩm của Bachelard không chỉ có giá trị nhận thức luận, mà nó c̣n có giá trị bổ túc kiến thức rất cụ thể cho ngành sư phạm, cho các thầy giáo tiểu học và trung học, cho các trách nhiệm truyền thông về khoa học. Tựa đề Sự h́nh thành tinh thần khoa học của tác phẩm phải được hiểu theo hai ư nghĩa, ư nghĩa lịch sử và ư nghĩa sư phạm.
Để kết thúc phần giới thiệu, xin nêu một hướng nghiên cứu có lẽ có ích và mới cho các nhà khoa học luận Việt Nam: trong các chướng ngại này, điều ǵ là phổ quát cho con người (thí dụ như libido)? tuy dĩ nhiên ở đây nó mang một h́nh thức văn hoá Âu Tây đặc thù, vậy ở Á Đông nó mang những h́nh thức nào? Và điều ǵ tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Âu Tây? Như thế có chướng ngại nhận thức đặc thù nào tuỳ thuộc hẳn vào văn hoá Á Đông? Biểu hiện của những chướng ngại nhận thức có tính tiền khoa học này trong tư duy người Việt hiện nay cụ thể là những ǵ? Có lẽ đây không phải những câu hỏi viển vông.
(...)
(*) Bài này là bản thu gọn của lời giới thiệu tác giả và tác phẩm trong bản dịch "Sự h́nh thành tinh thần khoa học" của Gaston Bachelard, Hà Dương Tuấn dịch, Nguyễn Văn Khoa hiệu đính, nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2010. Ảnh Bachelard và hai chữ [chúng], [éther], được người dịch thêm vào so với bản in.
Hà Dương Tuấn
[1] Khái niệm paradigma của Kuhn nhanh chóng có âm vang rộng trong nhiều tác giả ở nhiều ngành nghiên cứu. Điều này chứng tỏ nó rất hữu ích cho tư duy, như thế đó là một đóng góp lớn. Tuy nhiên, một khái niệm có diện áp dụng rộng như thế khó mà hoàn toàn chặt chẽ. Nó đă nhận những phê phán và diễn giải khác nhau, kể cả ngay từ bản thân tác giả.
[2] Lập trường của Feyerabend có phần cố ư khiêu khích và như thế là cần thiết để kích thích trí tuệ chống lại những rập khuôn "phương pháp luận khoa học", mà như ông đă chứng minh, các nhà khoa học lớn không ai tuân thủ tuyệt đối. Đây không phải chỗ bàn luận rốt ráo về nó, tuy nhiên, theo thiển ư, thay v́ khẳng định "làm ǵ cũng tốt!" có lẽ chỉ nên đặt câu hỏi (nhất là ở b́nh diện sư phạm): "có những điều ǵ không nên làm?". Không nên bị chi phối bởi những chướng ngại nhận thức, trong đó có (và không chỉ có) sự tuân thủ giáo điều về một thứ "phương pháp luận" duy nhất có khi đă lạc hậu, hay tệ hơn, do môi trường xă hội áp đặt một cách phi lư. Ở cương vị một nhà nghiên cứu đă làm chủ hiểu biết trong bộ môn của ḿnh, sau khi đă cảnh giác với những cái bẫy của nhận thức, kể cả cái bẫy giáo điều, th́ không những "làm ǵ cũng tốt!" mà thực ra chỉ có thể như thế! Nhưng đó không phải là cẩm nang của thành công. Sáng tạo không có công thức, nhưng cũng không đồng nghĩa với tiến bộ. Tiến bộ khoa học của một thời đại là một sự kết hợp hài hoà mới, bao trùm hơn và hiệu quả hơn, giữa lư thuyết và thực nghiệm.
[3] Feyerabend chắc là đồng ư với câu này, đọc tác phẩm của ông người ta thấy một học vấn rất uyên bác, và anything goes thực ra có nghĩa đen là "cái ǵ cũng tốt ". Dịch làm ǵ cũng tốt ở đây để hàm ư phát triển kiểu ǵ cũng tốt; và việc ấy, theo Feyerabend, bao gồm nghiên cứu và cân nhắc những ư tưởng từ khắp nơi, từ xưa tới nay... để làm khác đi phương pháp luận khoa học chính thống. Tóm lại, làm người chống giáo điều cần một hiểu biết rất rộng.
[4] Đây là quan điểm của Auguste Comte, Comte nêu ra ư này để phân biệt thái độ thực chứng với thái độ siêu h́nh ở b́nh diện sâu nhất, là b́nh diện bản thể. Ngoài ra Comte phân chia khoa học thành nhiều bộ môn độc lập và có những quy luật cơ bản riêng. Các quy luật cơ bản không thể giải thích, nhưng các hiện tượng trong mỗi bộ môn khoa học được giải thích bằng các quy luật cơ bản. Nhưng vật lư học, hoá học, sinh học mà Comte coi là độc lập th́ ngày nay không c̣n độc lập nữa. Những quy luật mà Comte tưởng rằng cơ bản trong hoá học đă trở thành những hiện tượng giải thích được bằng các quy luật cơ bản của vật lư học...