HIÊN VIÊN HOÀNG THÁI

 

BUỔI SÁNG Ở BÊN KIA

 

 

1.Trong nhất thần luận thời trung cổ, đúng hơn nên gọi là thuyết biện thần, các Ác thần hay Tà thần chỉ có hai chức năng: hoặc để duy hộ Pháp, v́ thế mang lấy h́nh tướng phẫn nộ; hoặc để thử thách con người, do đó xuất hiện dưới h́nh tướng tà ác.

  Book of Job là minh họa cho truyền thống cổ này, rằng Satan là tôi tớ của Thượng  Đế, và sự thử thách đầy khổ đau dành cho Job chỉ nhằm làm xuất lộ đức tin của con người, đặc biệt trong những hoàn cảnh kiệt cùng. Sự hiến tế con trai của Avraham cũng nằm trong truyền thống đó, ngụ ư rằng sự hiến tế ngay cả khi khổ đau cũng chỉ là dâng hiến cho Thượng Đế những ǵ Thượng Đế mang đến cho ḿnh.

Ẩn khuất trong thuyết nhất thần luận cái tư tưởng rằng mọi thứ đều thuộc về Thượng Đế, cả đêm và ngày, cả ánh sáng và bóng tôi, cái Thiện và các Ác, c̣n có một dự cảm đặc biệt của con người thời cổ: rằng chỉ có một lẽ công chính duy nhất tồn tại, lẽ công chính đó thuộc về các Giác giả, các Thần Thánh hay Thượng Đế, và chỉ có đức tin mới làm lẽ công chính ấy hiện hữu.

 

2. Mọi sự quy hồi về cái tôi nhỏ bé đều triệt tiêu đức tin này, v́ người ta t́m cách kiểm nghiệm đức tin bằng những lợi ích, hơn là chứng thực đức tin bằng sự hiến tế chính đời sống của ḿnh cho đức lư và Thượng Đế của ḿnh.

 Julien đă không nh́n thấy sự thể này khi viết Bóng trong bức tranh, v́ thế ông rẽ lối hẳn sang nền đạo đức học phức hợp mới, với ngụ ư rằng thuyết biện thần là một ư tưởng thô sơ về bản chất của cái thiện và ác, của sự nhận thức đạo đức nơi con người trung cổ.

Bởi Đức Tin cao hơn Thiện và Ác; c̣n Pháp lư, hiện hữu nhất định thông qua Đức tin,  vốn dùng để phán xử Thiện Ác. Do đó Thiện Ác đối diện với Đức tin và Pháp lư chỉ như một hệ quả của nhận thức và một biểu hiện phiếm định của Đức tin và Pháp lư, hơn là một hệ giá trị đích thực.

 

3.  Nỗi e sợ Ác Thần và Tà Thần của con người thời cổ không phải là sự khiếp sợ bạo lực của cái ác: chính trong sự thờ cúng và kính ngưỡng, người ta thấy rằng nỗi e sợ đó là biểu hiện của sự tôn trọng Thần Thánh, của sự lùi bước nơi trí óc con người trước những biểu hiện của Thần Thánh ở mọi dạng thức.

Cơn nổi giận của Thượng Đế vào ngày Ngài ban cho Moshe Rabbenu 10 điều răn, khi chứng kiến dân của Moshe thờ ḅ vàng như thờ Thượng Đế, là biểu hiện của sự trừng phạt Thần Thánh cho nhận thức phàm tục của con người về Thượng Đế - con người phàm tục chỉ biết rằng Thượng Đế hiện hữu qua lợi ích và điều đúng với nhận thức của họ, do đó đem ḿnh thành quy chiếu cho Thần Thánh, và đem cái phàm tục nơi ḿnh tạo ra những Thần Thánh mới.

 

4. Ở một truyền thống khác, đặc biệt ḍng Mật tông Phật giáo, người tu luyện tin tưởng rằng mọi Ác Thần và Tà Thần đều phụng sự cho Pháp lư tối cao, và đều không đi ngoài Pháp lư tối cao ấy. Cốt lơi ở đức tin ấy nằm ở sự tin tưởng vào điều Thiện tối cao ngự trị tam thiên đại thế giới, cũng như ở sự đoan quyết rằng khi con người hướng thiện, con người chỉ đối diện với thử thách chứ không phải sự hăm hại, do đó con người sẽ chứng ngộ được sự Từ bi vĩ đại, dù là dưới h́nh thức đốn ngộ hay tiệm ngộ, quyền năng hay nhiếp phục nhân tâm.

Ở một chiều cạnh khác, sự hành thiện một cách thực sự và kiên nhẫn qua tâm từ bi đă xua tan mọi khổ đau, xua tan mọi h́nh ảnh khủng khiếp của các Tà Thần và Ác Thần, nhờ đó cải hóa trong mọi không gian của con người, kiềm chế sự nổi loạn của Tà Ác, và đem lại thanh thản vĩ đại.

Ḍng Thiền tông thực tế đă thất bại trước nỗ lực đem cái Thiện ngự trị con người, v́ nó chỉ có thể đặt ra vào lúc xă hội mang một tâm trạng hướng thiện. Sự Thiền định trở thành giả dối, khi nó không hướng con người đến một sự Thiền hành liên tục trong đời sống về thân-khẩu-ư, và không đề cao được rằng đức lư vũ trụ được biểu hiện qua hành động, bao gồm tu tập và chứng pháp để cải hóa tâm ư là quan trọng hơn sự tịnh hóa tâm ư đơn thuần.

 

5. Buổi sáng bên này trái đất là tăm tối phía bên kia trái đất, sự vận động của thời tiết - ngày đêm - sáng tối - thiện ác chỉ là biểu hiện của Thần Thánh ở từng tầng thứ, chỉ là sự mô phỏng Thần Thánh thành những hiện tượng vũ trụ, tự nhiên và con người. Nhưng bên kia của trái đất không thể thấy được mặt trời, nếu không di chuyển sang phía ánh sáng, để rồi lại phải trở về nơi xuất phát để tiếp tục đón nhận ánh sáng vào mỗi hừng đông.

Chống lại sự đe dọa của bóng đêm, v́ không nhận ra rằng đêm tối chỉ là một phần của Thần Thánh, chỉ là sự mô phỏng mảng bên kia của Thần Thánh, con người hiện đại tạo ra ánh sáng nhân tạo, đồng thời cũng tạo ra một đời sống ban đêm của loài người, đời sống trôi giạt hơn và thác loạn hơn, nhiều ma tính và đức tin vào cái Ác hơn là cái Thiện.

Đức tin vào cái Ác đă trừ hủy trong con người mọi biểu hiện của cái Thiện, và pháp lư từ cái Ác tạo ra đă thay thế pháp lư vào cái Thiện. Một bi kịch đă sản sinh từ đó: con người t́m lại với các đức tin cổ, các tôn giáo cổ để cân bằng lại cái Ác hơn là để chiến thắng nó, để thỏa măn  cái Ác hơn là để thay thế nó.

Hoàn cảnh cổ đă tiêu biến, hoàn cảnh của đức tin vào cái Thiện và Thần Thánh đă tiêu biến, v́ thế, cũng trong sự tiêu biến ấy, các Thần Thánh cổ không c̣n là đức tin và pháp lư dẫn đạo cho con người. Thật vậy, cuộc chiến của cái Thiện trước cái Ác và ngược lại cũng chính là cuộc chiến giữa đức tin vào Thượng Đế và Thần Thánh với đức tin vào đời sống con người và cái tôi.

Điều này đă vén lộ một sự thật bị che giấu vào thời cổ: rằng mọi sự thể diễn ra chỉ là mô phỏng thần thánh, do đó là một phiên bản giả tạo của Thần Thánh - Platon, kế thừa Pythagoras đă từng muốn nêu lên điều này nhưng thất bại. Con người, do đó, nếu không thức ngộ phần Thần Thánh trong ḿnh, sẽ vĩnh viễn cư ngụ trong một phiên bản giả tạo của Thiên Đường.

 

6.Trong thời hiện đại, chỉ có Chuyển Luân Thánh Vương đă truyền được công pháp vượt qua mọi công pháp để đưa con người trở về Pháp lư tối cao của vũ trụ: Chân Thiện Nhẫn, cũng từ đó khẳng định một đức tin vạn đại đă bị lịch sử loài người hủy hoại: Đức tin vào cái Thần Thánh, vào con người Thần Thánh, con người thực sự nằm trong mỗi con người, mà chỉ duy nhất sự đồng hóa ḿnh vào Pháp lư Chân Thiện Nhẫn là chỉ dẫn chân xác để con người có thể qua đó tham nhập và hành xử, làm thức tỉnh cái Thần Thánh ngay giữa đời thường, nhiếp phục mọi Tà Ác và xua tan mọi phàm tục, chân chính đưa con người phản bổn quy chân.

Duy nhất pháp lư của Chuyển Luân Thánh Vương đă nhận ra một sự thực được che giấu suốt lịch sử nhân loại: rằng chính con người là Thần Thánh, và con người có thể trở lại làm Thần Thánh nhờ vào Đức tin và Tu luyện, thông qua sự vượt bỏ bến mê bằng quá tŕnh luyện thân và tâm, đồng hóa ḿnh với Pháp lư tối cao của vũ trụ.

 

7. Thời đại mới của con người đă đến, buổi sáng ở bên kia sẽ là buổi sáng của tất cả, thế giới sẽ được rọi chiếu v́ khắp nơi là mặt trời: hỡi con người, hăy nhanh chóng t́m đến đức tin tối hậu của loài người, cũng là định mệnh duy nhất là Thật của vũ trụ.

Hăy lựa chọn khi c̣n chưa muộn, ít nhất c̣n kịp để rũ bỏ đời sống Phàm tục và nhận ra phần Thần Thánh, rũ bỏ cái nhất thời để sống cuộc sống vĩnh hằng, từ chối cái giả tạo để sống điều Thật sự.

V́ sự Từ bi đi liền với sự Nghiêm khắc, đừng để ḿnh ch́m đắm trong mê muội vào thời khắc cuối cùng của nhân loại: hăy tỉnh giấc. Thông điệp cuối cùng của Thời đại chính là, hỡi phần Thần, phần biết, cái Thiện trong con người, hăy tỉnh giấc, trước khi h́nh thần toàn diệt.

Buổi sáng ở bên kia sẽ là buổi sáng ở bên này, hăy chào đón bằng tất cả đức tin và sinh mệnh.

( HN 2012. 09.20)