Hoàng Cầm (1922-2010), người thơ ca
Hoàng Cầm (2006)
Trong gịng thơ Việt Nam ở thiên niên kỷ 20, thơ Hoàng Cầm là những giọt nước trong veo nhưng mặn chát vị đắng, vị của thuốc mang tên Hoàng Cầm. Gặp anh đầu thập niên 80 kỷ trước, liên hệ trân quí này hẳn đă ảnh hưởng đến nghiệp viết của tôi, và hàng năm, cứ dịp Tết tôi lại điện thoại thăm hỏi chúc tụng anh. Mỗi lần, anh lặp đi lặp lại ‘’ cố về, để anh em c̣n gặp nhau…’’. Tết năm nay, đứa cháu anh trả lời : ‘’ ông cháu nay chẳng c̣n nhớ ǵ nữa rồi! ‘’ Cho nên, tuy tin anh về một cơi khác không đột ngột, nhưng sao vẫn rất đỗi đau ḷng. Thơ Việt Nam lại vắng thêm một cái bóng khổng lồ, bóng anh.
Xin chép dăm câu thơ anh làm trên gường bệnh gửi tôi :
Th́ em cứ đi
đă quá ṿng định mệnh
Sao c̣n loanh quanh bên số phận của rừng
Tưởng đă đến một tầng sâu giun bướm
Hóa ra c̣n con dế vẫn dưng dưng
Và, thay nén nhang thắp lên tiễn biệt anh, tôi xin đưa lên trang mạng này bài tôi viết về anh, thấm thoát thế mà đă quá mười năm.
ND và HC (2004)
Nam Dao
MỘT VỊ THUỐC ĐẮNG, MỘT VỊ THƠ....
1
Thế đấy. Anh chép miệng cười. Nụ cười rất tươi, rực lên cùng ánh mắt. Anh bảo : «...nó vận vào người», lại rót rượu.
Đó là một loại rượu ngâm với mơ, màu vàng óng, vị hơi ngọt, uống khá đầm. «Rượu làng Vân, ngâm mơ thế này là đă cả năm rồi», anh lại cười, tay với điếu cày. Tiếng nước reo ṣng sọc. Mùi thuốc lào hăng hắc xông lên. Anh ngả đầu ra sau, mắt lim dim. Tôi ngắm anh. Những nét hào hoa nay hằn xuống, nhưng vẫn là những nét hào hoa.
Anh quả là một người hào hoa.
Chị đi đâu về. Tôi đứng dậy. Chị bảo «...à, chú đấy à !». Rồi chị ra ngồi, tay rót nước. Tôi nh́n chị. Chị quả là một người đàn bà đẹp. So với người Hà Nội những năm đó, chị đỏm dáng. Có lẽ chị biết là ḿnh đẹp.
Tôi đưa ly rượu lên môi, bâng khuâng nhớ người con gái trùng tên chị đă hẹn tôi rồi không đến một năm xưa. Tôi nh́n anh, vẩn vơ hồi tưởng lần đầu đến quán rượu này. Tai tôi lại văng vẳng tiếng cười ṛn ră của họa sĩ Hoàng lập Ngôn «... muốn th́ đi với tớ, không đi lại chê Hà Nội không có !» Ngồi trên chiếc ghế đẩu chông chênh chỉ chực đổ soài ra, tôi nghe tiếng ngâm thơ. Anh ngâm một cách ngâm lạ lùng. Ngâm như than, như khóc, như rên rỉ, như van vỉ. Như hát chầu văn. Như rủ người nghe nhập đồng.
Quái lạ. Lời thơ lại vượt khỏi tầm trí tuệ. Nó lơ lửng ở chốn nửa nhân gian nửa thần thánh. Nó chém xuống tâm linh, để lại vết cắt, thứ vết cắt hằn sâu xuống ở lớp thứ tám. Vâng, hiểu th́ chỉ cần lớp một cho đến lớp ba, bốn. Sau đến lớp năm, lớp bảy là cảm. Khi đó chữ nghĩa hết là chữ nghĩa. Nó thành những tác động tâm - sinh lư. Nhịp tim không c̣n đều đặn đẩy máu đi như làm thứ nghiệp vụ buồn tẻ trong một cơ thể b́nh thường. Nhịp thở không c̣n đều đặn như khi người ta ngủ say đến mất hết khả năng tiếp nhận bất cứ ǵ. C̣n lớp tám ? Tôi phải nói thế nào ? Tôi biết như kẻ có ḷng tin vào Thượng Đế, nhưng làm sao nói đây ?
Tôi lẩm nhẩm «... Ta soi. Chỉ c̣n ta đạp lùi tinh tú. Ngủ say rồi đôi cá đ̣ng đong». Ở tầng thứ tám, một bàn chân người nhỏ bé đạp vào không gian mênh mang bí ẩn đẩy lùi lại những v́ sao long lanh trên dải ngân hà trong suốt. Cúi xuống, cũng ở tầng thứ tám đó, con người nhỏ bé soi ḿnh trong lạch nước, và an b́nh thay, đôi cá đ̣ng đong c̣n nhỏ bé hơn nữa đă ngủ say rồi. Từ vô cùng lớn, chỉ vài chữ là đến li ti nhỏ. Ở giữa, con người kia cô đơn làm cái ảo tác đạp lùi tinh tú. H́nh ảnh đó c̣n bi tráng hơn huyền thoại Sisyphe lăn đá lên cao. Ḥn đá tới đỉnh lại lăn xuống như một thứ định nghiệp vô căn do, lăn xuống để rồi lại phải đẩy lên, theo cách diễn tả sự phi lư kiếp người của Camus. Lăn đá là h́nh phạt của Zeus, thứ thần linh hóa ra đại bàng đi đánh cắp một cô con gái nhưng bị Sisyphe - kẻ được bàn dân coi như một v́ vua mong xây dựng một vương quốc có văn minh - nhận diện và tố cáo. Văn minh nằm ép dưới quyền lực. C̣n luân lư, luân lư đă nhiều lần chùn bước trước sức mạnh trong lịch sử nhân loại.
H́nh ảnh lăn đá của Sisyphe khắc nghiệt hơn đôi cá đ̣ng đong ngủ say. Con người cô đơn nổi loạn đạp lùi tinh tú, nhưng hiểu ra sự bất lực của ảo tác đó nên vội quay về t́m an nhiên bằng giấc ngủ của đ̣ng đong. May thay, đ̣ng đong vẫn có đôi. Đó là một cách an ủi. Dĩ nhiên kém triệt để, nhưng bao dung hơn. Phải chăng Đông khác Tây là vậy ? Nhưng thế th́ sao «nó vận vào người» được nhỉ ?
2
Buổi sáng hôm ấy lành lạnh gió. Hai mươi năm sau, cứ mỗi lần gió như thế, tôi lại nhớ, lại mang mấy tấm ảnh cũ ra nh́n. Ảnh có cụ Śn, có Văn Cao, có Thái bá Vân, những người đă khuất. Có anh. Có Duy. Có tôi. Những người vẫn c̣n. Có chị Băng, dĩ nhiên. C̣n có T và L, hai cô gái nuôi của cụ Śn, một họa sĩ đầu đàn của Hà Nội vào những năm ba mươi. T kéo violon cho dàn nhạc giao hưởng. Duy làm bài thơ khá đẹp về bàn tay và chiếc vĩ cầm. C̣n L, cô dạy học ở Hải Pḥng, nhưng nay đă lưu lạc đâu đâu bên Ḥa Lan rồi. Duy đèo tôi bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng cứ dăm trăm thước lại tuột xích. Chúng tôi đi dọc đại lộ Lê Duẩn về hướng Nghi Tàm. Tôi bảo «Chẳng biết các ông ấy gặp nhau th́ thế nào nhỉ ?». Khi mời anh, Duy chỉ nói «...anh lên xem bức tranh cụ Śn vẽ anh năm tiếp thu thủ đô !». Khi mời Văn Cao, tôi chỉ nói «...cụ Śn nhắn anh lên, lại khà khà bảo không có anh th́ thôi không đ́nh đám nữa. Cụ yếu lắm rồi...». Chúng tôi đều biết là từ cái thuở Nhân Văn gần ba mươi năm xa lơ xa lắc, anh và Văn Cao không gặp nhau nữa. Lư do ? Tôi kêu lên «...miễn bàn !». Cả nước ḥa hợp ḥa giải. Văn hóa th́ thế. Một dúm tác phẩm. Dăm ba ông đứng đầu, ông nọ tránh không nh́n mặt ông kia. Con cháu sau này trông vào th́ sẽ nghĩ ǵ ? Thái bá Vân gật gù, nhỏ nhẻ «Cho tôi đi với !» rồi hồn nhiên tiếp «...cũng đến lúc các ông ấy nên gặp nhau rồi !»
Tôi không hề hỏi đến lúc là đến lúc nào. Tôi cũng vô tâm, chẳng thắc mắc thế nào là nên , thế nào là không nên . Bữa ăn nhà cụ Śn khá vui vẻ. T và L chạy lên chạy xuống. Cụ bà đi vào đi ra. Tôi vui trong bụng, chỉ cảm thấy một thoáng sượng sùng khi hai anh bắt tay nhau, để ư các anh tránh nói với nhau, nhưng cả hai đều góp chuyện. Văn Cao thích làm dáng, đôi khi hơi gượng trong dăm ba hoạt cảnh đầy tính kịch. C̣n anh, anh hồn nhiên. Cụ Śn mang bức tranh cũ ra. Bức tranh không có khung, vải bố nhem nhuốc, nhưng anh, anh cười trong bộ quân phục màu vàng, mũ có đính sao. Cụ Śn lại khà khà móm mém bảo «...lính Vệ quốc đẹp thế đấy !». Anh mơ màng «...đẹp và trẻ. Có lẽ đẹp v́ trẻ...», mắt nh́n T và L đang cúi xuống thẹn thùng. Quả thế. Tôi cũng nh́n. Cô giáo ở Hải Pḥng đằm thắm hơn. Cô nh́n lại rồi chạy vụt đi. Cô nhạc sĩ vĩ cầm dáng dấp có nét bốc lửa, nhưng mắt lại mơ màng chút u uẩn than tro. Cô làm vẻ thản nhiên, nh́n về phía sân, nơi nước ao đă tràn lên mấp mé ven bờ.
Buổi trưa hôm đó qua đi, rất nhẹ, không khác cơn gió lành lạnh chớm đông. Cơi nhân duyên chập chờn oái oăm. Hai anh lại chia chung cái chiếu rượu này. Và chia với chúng tôi. Mỗi kẻ một vẻ đời. Làm lính. Làm thơ. Kéo đàn. Dạy học. Đến từ một bờ Đại Dương xa lắc bên kia. Lên từ Cảng, quê hương của người tài t́nh thơng một câu thơ nhập « Sinh ra tôi đă có Hải Pḥng...» cho bản trường ca Những người trên cửa biển dính dấp đến vụ quyền lực hăm và hiếp văn học vào năm 1956. Đè xuống rồi nằm lên dăm ba tờ báo để che bớt đi cái ê chề có tên là cải cách ruộng đất, quyền lực thở ph́ pḥ, xong việc kéo quần lên, tay chùi mép dính nước bọt phán lửng một lời «...có phải con gái nhà lành đâu, quí báu đéo ǵ !». Chữ đéo không thừa. Nó vạch ra tính chất của hệ tương quan giữa chính trị và văn hóa. Con gái nhà lành th́ dĩ nhiên không phải là con gái tạch tạch sè thành thị. Họ dẫu c̣n trinh nhưng điều đó không thể bảo đảm rằng họ thuộc thành phần cốt cán của dân tộc. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp và sẽ c̣n lâu vẫn là một nước có rất nhiều nông nô. Nhưng chuyện đă xưa rồi. Bây giờ khác, người cày có ruộng và công bằng ra th́ người viết có giấy có bút để góp phần xây dựng một xă hội tươi đẹp. Có lẽ chính v́ vậy là đă đến lúc các ông ấy nên gặp nhau ? Tôi ngây thơ nghĩ thế. C̣n anh, hồn nhiên như anh, chắc anh cũng nghĩ thế. Cụ Śn, cụ chỉ cười khà khà. Cụ không nhầm, mặc dù tuổi đă cao.
Tối ăn cơm, không biết là chân ai khều nhè nhẹ vào chân tôi. Hẳn vô t́nh. Giá mà cố ư nhỉ. Ai biết được, lại chuyện nhân duyên. Đêm hôm đó, tôi ngủ lại nhà cụ Śn với Duy. Hai đưa lau sàn xi măng đă lên dầu mồ hôi sáng bóng rồi mắc màn. T và L cũng thế, hai cô nằm chiếu bên cạnh.
Tiếng ễnh ương bờ ao. Vẫn gió. Gió xào xạc. Ngọn đèn hoa kỳ vặn xuống li ti sáng một màu xanh biếc. Tiếng cụ Śn ho. Tiếng đập muỗi. Tiếng thở dài nhè nhẹ chiếu bên. Duy bắt đầu ngáy. Tôi thiếp dần đi trong mùi đàn bà bay thoang thoảng. Tôi mơ bay lên thật cao, cao đến độ trái đất ở dưới chỉ c̣n là một ḥn bi ve óng ánh màu hy vọng một hạnh phúc trong tầm với của cả dân tộc tôi. Thú thật, tôi đă là một kẻ có niềm tin như vậy. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn cố gắng tin và c̣n hy vọng nên mới viết được những gịng chữ này, dẫu rằng đôi khi bóng tối có lúc đă bao trùm cả đời tôi lẫn đời những người tôi yêu.
H́nh như ai tḥ tay sang nắm lấy tay tôi. Tôi để yên, ḷng ngậm ngùi, vờ ngủ. Cho đến nay tôi vẫn chưa biết bàn tay đó là tay L hay tay T. Tôi chỉ biết tờ mờ sáng L đă đi ra bến xe về Hải Pḥng. Và sau đó tôi rồi cũng phải bay sang bờ Đại Dương bên kia. Nỗi ngậm ngùi sau này đọng lại được đúng hai câu : Em đi rón rén trời chưa sáng. Bước động ao bèo bỗng hóa sông.
3
Thuở đó anh biết tôi yêu thơ. Thật ra, tôi yêu tất cả những cái đẹp. Và yêu, dĩ nhiên là mù quáng. Là như bị thôi miên. Là buông hết, và thả luôn đời ḿnh vào cái ḿnh yêu, hệt như những kẻ tử v́ đạo. Cái đẹp, gộp luôn cả chân - thiện, trở thành tất yếu cho sự tồn sinh, và mặc dầu tôi là người ngoại đạo, thỉnh thoảng lại mập mờ mang h́nh tượng Đức Chúa đóng đinh trên thánh giá cứu rỗi, sườn loang lổ máu một vết dao đâm v́ ḷng tham tàn cộng thêm sự ngu muội.
Tôi đến chơi với anh như đến với cái đẹp. Người ta chặc lưỡi «...giao du phải cẩn thận.» Tôi bảo «Nếu phải xin phép th́ cho tôi một cái danh sách, những ai là người không nên giao du !». Người ta trừng mắt. Tôi quay lưng đi. Người ta cho là tôi thách thức quyền lực. Tôi th́ không. V́ tôi nghĩ, rất ngây thơ, là đă «đến lúc» v́ bây giờ chỉ có ta, và ta phải «cùng nhau» góp tay vào xây lại một mảnh đất đă quá đọa đầy. Đ̣i hỏi của hai từ ghép «cùng nhau» là phải xóa đi lằn ranh dĩ văng đă chia nhau ra thành đôi, thành ba, thành năm thành bảy mảng. Những mảng băng rời trôi mỗi mảng một hướng. Nước ơi, chỉ có t́nh của nước mới làm tan những mảng băng chia cắt lạnh lẽo kia. Người ta lắc đầu nghi ngại. Tôi đến chơi với anh. Với Trần Dần, Lê Đạt. Với Đặng Đ́nh Hưng. Người ta nhăn mặt «Trải chiếu hoa cho mà không biết lên ngồi à ? ». Tôi giật ḿnh. Th́ ra phải chọn giữa mảnh chiếu hoa đă trải và cái đẹp ! Nhưng tôi đă thưa, cái đẹp là tất yếu cho sự tồn sinh, và tôi xin trả lại một góc chiếu vẽ hoa đỏ không hợp tạng.
Anh biết tạng tôi, cái tạng con trẻ không làm sao cho khôn ngoan thích ứng hơn được với cuộc đời. Tôi không kể cho anh cái đêm có một bàn tay đàn bà tḥ qua màn nắm lấy tay tôi ở chiếu bên. Anh tặng tôi một chai rượu mơ anh ngâm, dán thêm hai chữ Men Quê và Bốn câu thơ. Anh kể :
«... Tên nàng cũng là Yến. Chúng ḿnh lên đồi, mặt đất xanh ŕ, nhấp nhô mềm dịu như mông như vú đàn bà. Nắng đă bắt màu vàng tươi trên mái chùa Phật Tích ngói đỏ xa xa. Ngả ḿnh nằm xuống thảm cỏ, nàng nh́n, cái nh́n như bảo ban. Bỗng nàng chồm dậy, hai tay bíu lấy đầu ḿnh kéo xuống, rồi áp môi hôn những nụ hôn cuồng nhiệt. Khi buông nàng ra, ḿnh đọc «Một con bướm lửa đậu môi». Nàng nắm hai tay ḿnh kéo ra, miệng thầm th́ «Hai nhành hoa lửa chia đôi tay cầm». Nh́n lên trời, những ráng mây xa óng ánh như sắp cháy bùng lên, ḿnh tiếp «Ba làn mây lửa về thăm». Nàng như say sóng, ôm choàng lấy ḿnh để giữ thăng bằng trong một cơn băo biển bất ngờ ào vào thân thể, mắt nửa khép nửa mở, tay quơ lên, miệng thở dốc. Ḿnh lao vào nàng, vào cơ thể nàng, vào tâm hồn nàng bằng tất cả sinh lực đàn ông, cứ thế cho đến khi cùng kiệt. Nàng ngước mắt, vừa cười dịu dàng, vừa đếm «... Bốn lần chim lửa đến nằm rậm hoang».
Hai mươi năm sau, tôi vẫn nghĩ cho đến nay câu chuyện anh kể không chỉ là một câu chuyện thật. Nó có chất cốt tủy như khi anh bảo với tôi rằng nàng Thơ vốn dĩ lẳng lơ, gặp ai cũng quyến rũ, nhưng chung chạ gối chăn với nàng lại là chuyện khác... Tôi tin lời anh. Anh hồn nhiên nhận ḿnh là người may mắn. Như vậy cái ǵ có thể lại «vận vào người» anh ?
4
Mẹ, Chị, rồi Vợ anh và những người đàn bà yêu anh đều là cốt đồng cho anh nhập vào tâm giới của nàng Thơ. Hiện tượng này nằm dưới tầng ư thức của chính anh. Thậm chí, nó nằm ngoài anh, và chính v́ thế mà anh kể là thơ anh «... vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc... mà tôi xin gọi là lời của thần linh đọc cho ḿnh chép lại được.».
Vâng, nghe đâu anh chép được nguyên bài Lá Diêu Bông. Lần cuối gặp anh năm ngoái, anh hỏi «Thơ ḿnh được mấy bài ?». Tôi tần ngần, đếm có Về với Ta, Đợi mùa, Cây tam cúc, Quả vườn ổi. Đó là những bài thơ lạ, ngôn ngữ thơ biết thở, biết hát và biết im lặng. Tôi đáp «năm, sáu bài...». Anh cười «...thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !» và hồn nhiên nói tiếp «... à, em mới kể có năm thôi !». Thật ra c̣n bài U ǵ anh làm gửi cho Đặng Đ́nh Hưng. Bài Đợi mùa, ít người nhắc. Thú vị nhất là tiếng chim tu hú, thứ chim lớn hơn sáo, lông đen nhạt điểm trắng, đẻ trứng th́ đẻ vào tổ sáo hay tổ chim ác là, và cuối Xuân là kêu để gọi Hè về :
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ
Dăy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đă quăng sau núi
Hàng tre nhà
yếm trả
Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
Th́ chị đi
mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi
Câu bốn và năm trong đoạn này rủ người đọc thở một nhịp thở gấp gáp, tiếp đó, nhịp thở lại chậm đi, rồi nức nở nghẹn lại. Tôi xin trích thêm một đoạn :
Em bước vào đ́nh
ôm cột bốn người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một, chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi ḷa lơa thân trăng
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Giữa câu bốn và năm trong đoạn này, thơ chuyển mạch bằng cách im lặng ( đọc ở giữa hai câu, nghĩa là không có chữ nào ). Và đây là đoạn cuối :
Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác chôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng
Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu
Bao giờ Mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
Khấn thầm như gặp Chị
Mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm
như mẹ lỡ đ̣ ngang
Miệng hé hạt na nḥa bến vắng
Cổ tay tṛn đẫn mía gie
Không
Bầu mẹ không tṛn
Bưởi Chị không hoa
Đă hết năm tu hú gọi rừng già
Đă sang mùa
tu hú ngủ rừng xa
Hai câu cuối cùng, thơ là thơ biết hát. Trong đoạn vừa trích, thơ biết im lặng sáu lần và hát lên hai lần. C̣n thở, thơ thở hắt ra ba lần, thở kiểu máu nhồi cơ tim một lần. Mời bạn t́m, xem sao.
Điều tôi thực sự muốn nói bằng cách nói trên : Thơ hay là Thơ có tác động sinh lư lên người đọc qua nhịp thở và nhịp tim. Chính tác động đó ảnh hưởng đến tâm lư, tạo ra cái đa dạng của thất t́nh : buồn, vui, bâng khuâng, bực dọc, phẫn nộ... Đă nói đến nhịp, là nói về nhạc. Thơ hay không phải chỉ một câu hay. Thơ hay, không phải một chữ hay. Tṛ kén chữ cho khéo là tṛ kén chồng, kén để làm lễ cưới cho có pháo nổ và họ hàng hai bên cười cợt, xong lễ th́ ém nhẹm đi cuộc sống lứa đôi dẫu ổn thỏa hay không ổn thỏa. Thơ hay là thơ nh́n dưới góc độ một tổng thể. Tác động câu chữ là tác động trên trí tuệ. Thêm một mức, một mức cao hơn mới tới tâm cảm, hệ quả của tác động trên nhịp thở - nhịp tim, yếu tố sinh lư gây lên thất t́nh. Thơ hay chính nó là Nhạc. Và thường thường, chúng ta đơn giản hóa Nhạc vào vần, vào điệu. Nhưng vần th́ thật ra thừa, và điệu, rất sáo ṃn, nhất là vần điệu của lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ( nhưng nói thế, không phải bảo rằng Thơ hay không có thơ lục bát, tứ tuyệt hay thất ngôn ). Thơ anh ra ngoài thể loại vần điệu đó. Thơ anh mang âm vận của Từ đời Tống và những bài Phú thời Nguyên - Minh, tự do hơn, phóng khoáng hơn, nhưng là thơ Việt Nam v́ mang mang tính cách Quan họ đặc biệt đất Bắc Ninh. Thơ anh có Mẹ, có Chị. Những «Bầu Mẹ không tṛn, bưởi Chị không hoa». Cũng v́ vậy nên thơ anh là thơ của Lỡ làng. «Chị lỡ xe hồng. Mẹ đi lấy chồng, cỗ cưới chênh vênh khoai luộc...». Sự lỡ làng chỉ đổi lại bằng khoai, «mật vàng mọng rách vỏ nâu non». Vỏ khoai có khác ai hơn là Em, tâm hồn tả tơi làm thơ khóc những lỡ làng ?
5
Năm 1982 là một năm đầy oan trái nghiệp nghiệt. Ngẫm lại, h́nh như những vết chém phi lư và vô nghĩa, những vết chém không làm sao t́m được căn do, đều chọn được loại nạn nhân riêng của nó. Cả anh lẫn tôi đều nằm ọp bốn năm liền nhấm nháp cái vị tanh của máu ứa ra từ những vết chém đó. Anh chịu cả phần xác lẫn phần hồn trong lao ngục. Phần tôi, tôi chịu phần hồn trong một nhà tù không cần cửa sắt chấn song.
Sau Tết năm Nhâm Tuất, tôi rời Sài G̣n sang Paris, ở nhà Tạ Trọng Hiệp vùng Gentilly. Nhà bị kẻ gian cậy cửa. Xe để dưới đường bị đánh cắp. Ngày đêm, tôi cứ phải trông chừng Hiệp đang bị đại nạn t́nh với T, nói đến cái chết rồi khóc, và dự trữ rất nhiều thuốc ngủ. Đến tháng sáu, tôi lại về Hà Nội sau khi dặn ḍ Hiệp là chớ chết dại. Chết dại là chết v́ t́nh, chết khôn là chết với t́nh. Lời dặn đó ngây ngô : làm ǵ có chết khôn hay chết dại. Chết là hết, thế thôi.
Lần về này, tôi gần như tuyệt vọng : thế quyền đă «co cụm» lại sau Đại Hội IV, vẫn khăng khăng một thứ giáo điều lưỡi gỗ, ngược hẳn lại với những điều tôi đă tŕnh bày về phương thức dùng qui luật thị trường nhằm ổn định kinh tế Việt Nam trong một đề nghị chuyên ngành với cấp cao nhất có thẩm quyền. Chống lại niềm tuyệt vọng, thấy ánh đèn là tôi lao vào, cứ như loài thiêu thân. Dễ nhất lại là lao vào t́nh yêu. Hay bất cứ ǵ đồng dạng với t́nh yêu. Anh cho tôi một món quà mừng cái t́nh yêu đó : tập thơ Về Kinh Bắc anh h́ hục chép tay trên một quyển vở học tṛ. Tôi vào Sài G̣n trước khi bay sang Pháp. Một người bạn vào báo anh vừa bị công an giữ để điều tra. Tập thơ Về Kinh Bắc tôi trao cho những người trong nước giữ lại, không mang theo khi đi, tránh không để ai kết tội anh chuyển thơ «chống đối» ra nước ngoài. Thật ra, Về Kinh Bắc chẳng chống đối ǵ cả : nhà xuất bản Văn Học đă in nó năm 1994. C̣n bắt anh, họ bắt v́ lư do ǵ rồi giam cầm anh một thời gian khá dài ? Bán rượu ? Hút thuốc phiện ? «Hủ hóa» Việt Kiều ? Trên Métro từ Luxembourg đến Place Italie, tôi giở tờ Le Monde đọc. Báo loan tin anh bị tù. Hôm ấy, tôi đọc rồi nước mắt ứa ra. Cứ thế, tôi khóc. Kẻ đi qua thản nhiên hay chỉ khẽ nhăn mặt. Duy có một người da đen đến ch́a cho tôi mẩu thuốc lá hút dở, và nói «Bonne chance !»
Bonne chance. Năm ấy, tôi chẳng có một thứ may mắn nào cả. Về đến chốn ngụ cư, tôi tất bật lo việc «bảo lănh gia đ́nh». Tôi xin giấy nhập cảnh Việt Nam. Lần này là cấm. Lư do ? Không ai cho tôi biết. Đơn xin, không bao giờ có phép. Cấm như thế sáu năm liền. Gia đ́nh tôi qua. Thế là đi vay, làm một quán ăn. Tất cả mười hai nhân mạng, lấy ǵ mà sống. Thực tế sống ở nước ngoài khác hẳn với sự mơ mộng của thành phần tương đối «dư dả» thời xưa ở Sài G̣n. Các cô em nhăn mặt, qua đây mà phải đi hầu người ta trong quán ăn th́ thà ở Việt Nam c̣n hơn. Vài năm sau, các cô ấy đều ăn nên làm ra với dịch vụ quán ăn. Nhưng lúc đó, các cô em tôi th́ thào cho tôi nghe thấy «...qua đây bị tư bản bóc lột lao động ...» và gọi tôi là ông giám đốc. Giám đốc đấy, nhưng lắm bữa trưa, tôi không có tiền ăn đến độ phải nhịn đói. Rồi sau đó, tôi phải ra ṭa v́ đă kư giấy bảo lănh mà không cung ứng tiền chi tiêu cho đủ. Người trưởng thượng đâm đơn kiện lại là người ruột thịt: «Anh mang gia đ́nh qua là cứu (sic) cả gia đ́nh. Nhưng tôi, tôi bây giờ phải bảo vệ (sic) nó». Bảo vệ thế nào ? Cô em dâu đến đề nghị cho một món tiền cỡ ba chục ngàn đô th́ xí xóa giấy bảo lănh. Cậu em th́ bảo cứ đưa cho cậu ấy quản lư toàn bộ quán ăn, tôi không được can dự, nhưng dĩ nhiên nợ nần vốn liếng th́ cứ vẫn tôi thôi (!). A, th́ ra thế! Tôi ở vào thế kẹt. Kẹt đủ điều: tôi không thời gian v́ c̣n nghiệp vụ chuyên môn, chẳng một ai để tin tưởng phó thác, đầu óc căng cứng khủng hoảng. Kẹt cho nên phải chẹt. Chẹt mọi mặt, mang ra ṭa gây áp lực chỉ là một phương án. Nhưng ông ṭa xét thấy tôi nợ đầy đầu, đến điện thoại cũng bị cúp v́ không có tiền trả, nên tha cho. Ngoài ra, nghiệp vụ chuyên môn bị xao lăng v́ nào là chuyện quán ăn, nào là chuyện kiện tụng ṭa án, đồng nghiệp tôi «điều đ́nh» để tôi tự ư xin thôi việc. Lại nữa, người vợ mới cưới qua Paris, kẹt lại v́ lao phổi. Thế là phải gửi gấm. Rồi bạn phản. T́nh phụ. Chỉ một năm, bằng ấy cái họa. Mất nhà, mất nước, mất t́nh, nghề nghiệp bị đe dọa. Quán ăn phải thuê người làm, bị ăn cắp hết v́ không lấy ai ra để trông coi. Lại nợ. Nợ chồng nợ chất. Nhưng ghê rợn hơn hết là sự trống rỗng.
Chính sự trống rỗng đó đă đưa tôi đến cạnh cái chết lúc ấy tôi đồng hóa với giải thoát. Tôi thức hàng đêm, nh́n ra ngoài trời tuyết trắng mênh mông, đầu óc tê điếng, vô cảm, và chỉ thấy trùng trùng băng giá, không yêu không ghét không hờn không giận. Chỉ trống rỗng. Cái trống tếch trống toác của thế gian không có một chút t́nh người. Tôi là tên tù nhân của cái ngục trống khủng khiếp không có cửa sắt chấn song. Lẽ sống lúc đó nhẹ tênh tênh, vậy th́ tự do mà làm ǵ. Tôi nhịn đói hàng tuần, không thấy cần ăn, uống nước lạnh thôi là đủ. Sống chết lúc đó ở ngoài tôi. Soi gương, «ḱa ai đó - tôi lạnh nhạt- chớ có phải tôi đâu». Cho đến một hôm. Vâng, hôm đó người bạn gái gốc Chilê, kẻ đă dịch một đoạn thơ tôi ra tiếng Tây Ban Nha gửi đăng trong một tờ báo phe tả ở Salvador, đến nhà tôi với một bông hồng. Nh́n tôi, nàng nói «Không nhà thơ nào có thể chết được !» và cười rất tươi.
Nghe nàng nói, không hiểu sao tôi lại nghĩ ngay đến anh. Lúc đó, anh vẫn c̣n nằm trong tù ngục. Anh là nhà thơ. Anh không thể chết được. C̣n tôi, câu nói của Cecilia đẩy tôi ra khỏi một cuộc tuần du đầy ác mộng. Tôi phải sống.
6
Có sống mới về thăm anh được. Năm 1988, giải tỏa lệnh cấm. Dĩ nhiên, Đại Hội VI đă Đổi Mới Tư Duy, và thấp thoáng một nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa. Vậy th́ những đề nghị ngày xưa của tôi đâu là tội. Tôi, con gà gáy trước khi trời sáng, chỉ là thứ gà non, gà ngoại, gà lai giống, gà vừa đạp vỡ vỏ trứng đă vội khập khiễng đi t́m rạng đông.
Tôi men ngách vào nhà anh, số 43 Lư Quốc Sư. Nhà vẫn vậy, nhưng quán rượu th́ dẹp rồi. Cháu nội gọi ông, anh từ gác xép leo xuống. Anh đây. Anh gày g̣, tóc bạc gần hết đầu, mắt trũng sâu, răng cửa đă khuyết một cái. Anh ngẩn ngơ nh́n. Tôi ôm lấy anh. Chúng tôi ngồi nh́n nhau. Giữa chúng tôi là bốn năm tù của anh. Tôi nói «... có điều ǵ khúc mắc anh cứ hỏi». Anh bảo «... giá em về trước hai năm th́ anh em ḿnh chẳng được thế này đâu». Tôi im lặng. Trong tù đầy, hỏi cung, quay quắt ra biết bao nhiêu thêu dệt thực hư. Tôi hỏi «Tập thơ anh chép cho em, anh đă lấy lại rồi chứ ?». Anh cười, cái cười đau xót. Đó là cái lấy lại được, nhưng vừa ra khỏi tù th́ anh mất ngay chị, rồi liền sau đó anh mất con gái anh, cũng tên là Yến. Nước mắt ứa ra, anh kể :
«... đêm hôm đó, anh đang chập chờn ngủ, sao lại ở đâu có một con bướm vàng bay vào lảng vảng quanh màn. Mở cửa màn, con bướm chui vào. Anh linh cảm, anh biết, anh khấn. Bướm bay rồi đậu lên bàn thờ. Anh lại khấn «Yến ơi, con ơi, con về đấy à, khổ thân con». Bướm từ bàn thờ bay xuống quấn quít bên anh như không nỡ rời dẫu âm dương cách trở».
Nắm tay anh, tôi không muốn để anh mất mát thêm bất cứ ǵ. Sau, tặng tôi tập thơ Men Đá Vàng, anh viết «...để cùng nhớ những năm tháng đầy oan nghiệp nhưng cũng đầy hạnh phúc». Đấy, cặp bài trùng oan nghiệp - hạnh phúc. Và hạnh phúc của nhà thơ lúc nào cũng là một điều thật bí ẩn. Bí ẩn như ngôi sao trên kia long lanh sáng, nhưng xa lơ xa lắc, kẻ b́nh thường như tôi có giơ tay lên với cũng không nắm bắt được.
Có một người Anh như anh, là một niềm hạnh phúc. Anh nghiêm mặt bảo «...cái vốn từ của cậu chưa đủ. Phải đọc đi đọc lại truyện Kiều. Rồi đọc cô tổ Xuân Hương...» Tôi căi, chữ cho đơn giản chứ bí hiểm quá, sang quá, hay điển tích quá th́ đều là «quá tải». Hôm ấy có cả Trần Dần và Lê Đạt. Anh Đạt khéo kết chữ cũ cho ra mới. C̣n anh Dần, anh đi t́m chữ mới, đang thử nghiệm loại thơ cực ngắn, đôi khi chỉ đúng hai chữ. Anh quay hỏi «...nó nói thế, chúng mày nghĩ thế nào ?» Anh Đạt lư giải. C̣n anh Dần, anh nh́n tôi chằm chằm, buông gọn, cũng cực ngắn, «cứ làm !».
Căi thế, nhưng tôi về tôi nghĩ. Tôi đọc đi đọc lại Truyện Kiều. Tôi đọc đi đọc lại thơ Xuân Hương. Tôi học chữ Hán để đọc cả Bắc Hành Thi Tập. Rồi tôi dịch lại hai trăm bài thơ Đường mà khi chuyển sang tiếng Việt, những người đi trước tôi lại dùng thể lục bát. Rồi tôi dịch lại cả Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn cho sát lối Tập Cổ, tránh kiểu song thất lục bát của bà Điểm. Đấy, chỉ một câu anh nó thôi mà khi hiểu ra tôi đă đổ mồ hôi như vậy. Chuyện này, tôi chỉ mới nói thoáng cho anh nghe. Nay nói lại, một cách gửi lời cảm tạ anh. Quả là vốn từ của tôi nay có hơn xưa. Song có ân ái được với nàng Thơ hay không lại là một chuyện khác.
Hợp rồi tan. Tôi lại phải ra đi. Cứ mỗi lần như thế, anh nhắn nhe «...lại anh thêm dăm phút». Lúc tôi về, anh lại đạp xe đạp theo đến khách sạn. Và khi chia tay, anh ôm tôi, anh hôn, anh khóc. Tôi nh́n theo anh trong bóng đêm. Mái tóc anh trắng bồng bềnh lồng lộng gió ven hồ Hoàn Kiếm. Bóng anh măi cũng xa dần rồi mất tăm. Lúc ấy tôi cũng khóc.
Chúng tôi là những kẻ mau nước mắt.
7
Nhưng cũng có một thời những giọt nước mắt chảy vào trong. Và rồi một thời khóc - cười là một. Hè năm 1990, bước vào Nội Bài th́ người ta đă hờm sẵn. «Xin mời ông qua bên này !». Vâng. Cuối cùng, «Ông hiểu cho. Ông không có phép nhập cảnh !». Tôi hỏi «... thị thực nhập cảnh đây. Giấy mời đây. Chắc là lầm lẫn ǵ đó...». «Vậy ông đợi, chúng tôi điện vào Hà Nội». Trưa hừng hực nắng. Chiếc quạt máy vừa quay vù vù, vừa lắc đầu qua lắc đầu lại. Nh́n ra sân phi trường, chiếc máy bay Air-Thai vẫn nằm ĺ ở đó. Một tiếng đồng hồ qua. Rồi hai tiếng. Hai vị công an cấp tá lại ra. Các vị bắt chiếc cái quạt máy lắc đầu «... Lệnh trên không cho phép. Ông thông cảm...». Tôi nói «...cứ để tôi ở khách sạn của phi trường. Hôm nay là ngày nghỉ. Đợi đến thứ hai, ngày làm việc, tôi xin điện vào hỏi kỹ...». Lại tiếp «... vậy, ông đợi...». Một lát sau «... Lệnh trên không cho !». Chiếc máy bay Air-Thai không được phép cất cánh vẫn đó. Tôi hỏi «Lệnh trên là trên thế nào ?». Đáp «...trên là cao lắm, chúng tôi chỉ thừa hành». Tôi cũng biết vậy, lắc đầu.
Tôi bước lên máy bay, được hai vị cấp tá xách hộ va-li đi hai bên. Cô chiêu đăi viên hàng không Thái hai tay chắp, cúi đầu reo như thông lệ «Welcome to Air -Thai !», rồi đưa lên ghim một bông lan vào áo tôi. Cô kịp nh́n ra bông lan cô gài cho tôi khi tôi sáng nay rời Bangkok bay đi Hà Nội vẫn c̣n đó. Cô ngại ngần, ánh mắt tối đi một thoáng, nói nhỏ «I am sorry !»
Đến Bangkok, tôi phải đợi máy bay. Tôi quyết định ra băi biển nằm, tránh cái hừng hực hè và mùi xăng dầu sùng sục xông vào mũi. Lúc đó, tôi thừa thời giờ để t́m nguyên do cái việc thô bạo kia ở Nội Bài. Phải, thời gian đó là chưa chẵn một năm từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ. Và chỉ vài tháng sau những tiếng ḥ trên quảng trường Thiên An Môn. Rồi đám Việt Kiều ngây thơ chúng tôi lại kư Tâm Thư này nọ ( mặïc dầu riêng tôi, tôi không kư v́ lư do Tâm Thư chưa đủ tính triệt để đáp ứng với thời cuộc lúc bấy giờ). Rơ ghét. Và tôi, cái con gà non ngông nghênh chưa sáng đă gáy, cho vào là lại tổ bực ḿnh rách việc !
Vâng, tôi nghĩ là chỉ có thế. Lúc ấy, khóc - cười thành một. Tôi không c̣n hờn oán ǵ nữa, chỉ thấy tội nghiệp cho quyền lực.
Những cánh phượng vĩ vẫn đỏ rực dưới nắng vàng óng ánh mật ong. Đỏ như phượng vĩ Hà Nội. Biển vẫn xanh và sóng vẫn ŕ rào. Xanh như biển Việt Nam, quê hương tôi. Và ŕ rào như đ̣i quyền sống. Tôi thanh thản nh́n trời, nh́n nước. Bấy giờ, rơ ràng quê hương đích thực chính là lương tâm. Và mảnh đất lưu đày nào cũng là những mảnh đất không tôn trọng nhân phẩm và quyền con người. Thôi, từ biệt nhé, ảo vọng về trí tuệ và ḷng thành tín trong guồng quay của thế quyền. Từ biệt nhé, giấc mơ nóng vội đổi đời. Tôi viết một bức thư dài gửi cho cái trục chính của guồng quay gọi là bộ Chính Trị, khẳng định tôi tin rằng dân chủ là tất yếu, và làn gió ấy sẽ rồi thổi đến quê hương tôi như điều không khiên cưỡng được.
Ngửng mặt nh́n những cụm mây trắng thong dong, tôi biết tôi là một người có tự do. Vấn đề đặt ra : tôi làm ǵ với sự tự do đó. Tôi, một người may mắn, không thể vô trách nhiệm.
8
Là một người có tự do, tôi lại càng hiểu thế nào là tù ngục. Những năm anh tù tội nằm trong trại giam lại ám ảnh tôi. Anh tội ǵ ? Ai có quyền cướp sống dăm ba năm một đời người [i] ? Nhân danh ai, nhân danh ǵ ? Và hẳn anh rồi không có tội nên anh mới được phục hồi «hội tịch» vào năm 89 !
Phục hồi, chắc cũng trả cho tí tiền. Liệu tiền đó có đổi được những đêm dài lắng nghe muỗi vo ve, tiếng chuyện tṛ duy nhất với những tội nhân. Riêng anh, loại tội nhân có cái tội là chót làm nhà thơ. Và tội to hơn, thơ lại là thơ hay. Nhưng h́nh như có ai nói dân tộc ta toàn là những nhà thơ. Đó là một điều đáng hănh diện. Đồng thời đó cũng là một điều bất hạnh trong cái cặp biện chứng oan nghiệt - hạnh phúc.
Thôi im đi, tiếng hát ngọng nghịu của thứ gió định mệnh khắc nghiệt sụp về đánh úp hạnh phúc. Thôi im đi, những lạc quan đen, những cú phất cờ hô khẩu hiệu, hoan hô và đả đảo. Hăy trả cho chúng tôi những cái tay bắt chân thành, những cốc rượu của t́nh bạn, những cuộc đoàn viên có tiếng cười, những phi vụ vui chơi lương thiện... Tôi bị cấm về, chỉ thỉnh thoảng nghe tin anh qua bè bạn, là ông ấy năm nọ ốm đă tưởng đi, ông ấy khỏe lại yêu, yêu PQ, yêu B.Ng, Yêu ĐĐ..., yêu vân vân và vân vân. Tôi mừng, ông ấy vẫn đó. Cho đến 1998 tôi mới lại đặt chân trở lại Hà Nội. Lần này về, về cho bè bạn. Và đi kèm có cháu Việt, con trai lớn của tôi.
Lại men cái ngách 43 Lư Quốc Sư. Ngách vẫn thế nhưng nhà anh nay khác, lên ba tầng, trước nhà vẫn c̣n một đống cát, xi-măng, và dăm ba chiếc xẻng. Bây giờ, không ai réo tên nhau. Phải bấm chuông. Tôi hồi hộp. Cửa mở. Anh tḥ đầu nh́n, mắt nhắm mắt mở. Tóc anh xù ra bạc trắng màu mây. Anh c̣m xuống. Răng thật rụng hết, nay chỉ có răng giả. Anh cười. Ở một cái tuổi nào đấy, cười làm sao th́ cũng như hơi mếu máo. Anh ngồi xuống ghế salon bọc simili-cuir. Bàn kính. Nhà lát gạch hoa. Thế th́ đâu rồi những chiếc ghế đẩu nằm soài ra trên nền đất nện ? Thế th́ đâu rồi cái điếu cày, dăm chiếc đóm, chai rượu mơ và ngọn đèn hoa kỳ bâác vặn thật thấp li ti đốm cháy ? Tôi xin anh, thôi lên chỗ anh ở, chứ ngồi salon làm ǵ. Leo gác hai, anh đẩy cửa. Một cái giường đơn. Trên sàn, trải chiếu, khay nước nằm tênh cạnh ngọn đèn hoa kỳ. Và chiếc điếu với dăm vê thuốc lào. Rồi dăm chiếc đóm. Tôi ngồi sụp xuống đất. Tôi bắt đầu nhận ra anh. Anh cười. Bấy giờ, cái cười mới hết mếu máo.
Lần sau đến, tôi kể cho anh nghe ư định viết một vở kịch về quan họ. Lần ấy, có TK, rất duyên và cực xông xáo vui chơi. TK hẹn sẽ cùng nhau đi Bắc Ninh làm một chầu quan họ, dọa là «các em» bên đó «t́nh» lắm. C̣n phần tổ chức «hành quân», TK la «...cứ để tôi». Về, tôi hẹn đến đưa anh đi ăn cơm trưa với Việt ngày mai. Khi bố con tôi đến th́ người nhà anh bảo anh ốm lắm. Chúng tôi lại leo gác hai. Trong pḥng, anh co quắp trên chiếc chiếu giải trên sàn, ḿnh đắp chăn. Tôi cúi xuống nh́n. Mắt anh nửa khép nửa mở, trắng đục, vô hồn. Anh không nhận ra tôi.
Anh phải vào viện. Năm ngày sau, bố con tôi đến thăm anh trong nhà thương. Anh bị xưng phổi sau cái chuyến đi «tŕnh diễn» thơ ở Thái B́nh th́ phải. Mỗi chuyến đi thế, cũng được thù lao một hai triệu, nghĩa là một, hai trăm đô Mỹ. Lộc thơ chỉ có thế, và phải chờ những ngày cuối năm. Chúng tôi đến th́ đă có dăm ba phóng viên những tờ nhật báo của Hà Nội. Anh lại khều tôi, miệng cười rất tươi, chỉ một chị phóng viên ước độ trên dưới ba mươi, và hỏi «...trông được chứ nhỉ !». Rồi anh víu vai cháu Việt, nói bằng tiếng Pháp, «Bác về là sẽ hỏi cô ta làm vợ». Ngớ ra, Việt không hiểu nh́n tôi ḍ hỏi. Anh tiếp tục, rất chân thành, «Mais oui, je vais lui demander sa main... c ’est sur». Sau, con tôi cứ cười, bảo «...quả bác ấy là nhà thơ. Un poète-fou !»
Đúng đấy Việt ạ. Có nhà thơ nào không điên ? Tôi lại nhớ lời ra tiếng vào của một người bạn, bàn «Ông ấy nỡm lắm. Già thế mà lên tivi cứ nói t́nh yêu này, t́nh yêu kia... Nghe ngượng đỏ cả mặt !». Thưa anh bạn đứng đắn, anh Cầm thế, v́ anh ấy sống phút nào là chong mắt t́m một cốt đồng để nhập vào, hy vọng thêm một lần ân ái với nàng Thơ. Nỡm ư ? Nhưng ngẫm kỹ mà xem, cứ giả thử như chúng ta có tất cả nhưng không c̣n yêu thương được nữa, giả thử như trái đất này đánh rơi vào cái rọ đen - black hole - tất cả t́nh yêu và đam mê. Chúng ta có tất cả đấy, nhưng lại không c̣n ǵ ngoài cái hành tŕnh của những người không tim trong thiên hà mênh mang kia. Anh bạn đứng đắn ơi, trong hành tŕnh đó anh cứ đi một ḿnh. Chúng tôi xin ở lại.
Tôi đến chào anh một lần cuối trước khi bay vào Đà Nẵng. Lần ấy, chúng tôi tẩn mẩn đếm sổ văn hóa xem có ai và đă làm được những ǵ suốt ba mươi năm qua trong nền Thơ - Văn của chúng ta. Lần ấy là lần anh kêu «... thế là lấy của thiên hạ quá nhiều rồi !». Có lẽ. Huy Cận của Lửa Thiêng, trước khi làm quan th́ cũng chỉ được dăm ba bài. Làm thơ, không thể làm quan. Không thể làm giàu. Làm quan làm giàu rồi, thơ chết. Nàng Thơ không ưa công đường. Không thích nhà cao cửa rộng, ngướ hầu kẻ hạ. Và nàng chúa ghét những kẻ nói khéo, nói láo, nói dai, nói ngoa, nói nhiều và nhất là loại nói-không-ai-nghe. Nàng hay ghen. Yêu, th́ Nàng phải là Cứu Cánh, là vợ cả. Không bao giờ Nàng chịu làm lẽ cho phương tiện danh lợi và quyền lực. Và ân ái với Nàng, bạn chớ chơi tṛ chơi «kiểu». Kiểu hiện sinh, hiện thực, hiện đại hay thậm chí hậu hiện đại theo chữ nghĩa thời thượng. Trong 36 kiểu, xin hăy làm t́nh theo cách tự nhiên phát sinh từ bản năng ḿnh. Với Nàng là chỉ có Thơ. Thế thôi.
Đếm, đếm đi đếm lại. Cuốn sổ văn hóa mỏng dần. Mỏng làm cho bật máu và chảy nước mắt. Tôi thấy dẫu anh bảo anh có lấy quá nhiều của thiên hạ, anh c̣n phải lấy nữa. Ngoài dăm ba v́ sao lấp lánh, văn hóa của chúng ta mươi năm trở lại đây lại hụt hẫng vào cái rọ đen - cái black hole - ghê rợn kia trong một nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa. Nếu phải hô khẩu hiệu, tôi đả đảo cả hai, chỉ hoan hô một ḿnh nàng Thơ.
9
Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc nên tôi rất sợ hô khẩu hiệu. Chẳng hạn loại khẩu hiệu như «... tất cả cho mai sau», hoặc «Tự do hay là chết». Bây giờ, trên đầu hai thứ tóc, tôi rất do dự khi đụng vào cái chết. Tôi linh cảm rằng sự sống quí hơn tất cả. Nó đèo bồng trên lưng tự do. Và càng tự do th́ gánh nặng càng nhiều. Cái gánh nặng đó nằm trong câu hỏi là ta làm ǵ và sống ra sao với cái tự do đó. Cho những người theo đ̣i nghiên bút, làm ǵ là viết ǵ. Sống ra sao đồng nghĩa với ư thức trách nhiệm thế nào với người và với ḿnh.
Ngày bức tường Bá Linh sụp đổ, có người bạn gửi cho tôi một cục đá nhỏ. Anh viết kèm «... kể từ nay, tự do không c̣n là một cụm từ trong thứ ngôn ngữ chết. Con người biết tự ḿnh cởi ra những sợi dây trói buộc, kể cả đám lính kín, công an. Chúng ta có quyền hy vọng...». Anh ta kể ra hoài băo thực hiện một bộ tiểu thuyết về bức tường mà không c̣n sợ hăi ǵ nữa. Mươi năm qua, anh vẫn chưa viết ǵ được. Tôi hỏi, anh đáp hai trăm trang đă viết là viết trước ngày bức tường sụp đổ. Từ đó, anh chịu. Tự do đấy, nhưng anh chỉ thêm được vài trang. C̣n hai trăm trang kia, anh đă lặng lẽ viết trong nỗi lo âu. Lo và sợ. Đến độ vợ con anh cũng không hay biết. Tôi lại hỏi, tại sao, tại sao thế. Anh buồn bă trả lời «...ngày trước, tôi viết chống một cái ǵ để cho một cái ǵ khác chưa có. Nó thật rơ ràng. Bây giờ ư ? Cái ǵ đó chưa có đă thành ra có, nhưng có đấy mà lại mù mờ nên tôi không c̣n định hướng viết cho cái ǵ được nữa. Có nhà xuất bản bảo tôi, hăy viết để giải trí cho công chúng người đọc thôi, vừa dễ viết, vừa dễ bán. Viết hay sẽ dịch ra tiếng Anh, có cả thị trường toàn thế giới. Tôi đă thử, nhưng rồi xấu hổ đem đốt cả đi. Tôi không muốn là một nhà văn vô trách nhiệm...».
Nhưng trách nhiệm đó là ǵ ? Có lẽ với anh là ca ngợi T́nh Yêu chăng ? Chỉ năm ngoái tôi mới được anh cho tập thơ Về Kinh Bắc, tập cuối cùng anh giữ lại. Sách in lem nhem, b́a photocopy đen trắng trên nền xanh lơ, mặc dầu để là nhà xuất bản Văn học in năm 1994. Tôi cầm cuốn sách, ḷng ngậm ngùi. Những vần thơ mượt mà nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ hai mươi bị t́nh phụ trong nền kinh tế thị trường có định hướng xă hội chủ nghĩa ?
Nhưng đó là những vần thơ t́nh rất đẹp. T́nh yêu Kinh Bắc. Bắt đầu bằng năm đêm, trong ngũ hành. Rồi anh đi liền bảy nhịp, trong một cuộc tuần du có Mẹ, có Chị và Lỡ Làng. Lỡ làng, bến t́nh không người đợi. Lỡ làng, mắt mỹ nhân khép đến thiên thu. Lỡ làng, những mảng hoa bèo ao cá quẫy. Lỡ làng, xin Chị một quả ương, Chị lại dối quả ương chim khoét thủng dẫu chẳng con chim nào lại chọn quả ương. Lỡ làng, cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng... Lỡ làng, quan đốc đồng áo đen nẹp đỏ, thả tịnh vàng cưới Chị vơng mây trôi. Lỡ làng, em đứng nh́n theo em gọi đôi. Lỡ làng, đứa con anh thai nghén sau những đêm ân ái với nàng Thơ. Lỡ làng, cơn đau của con tằm rút ruột nhả tơ. Lỡ làng, là đời anh. Bởi anh biết yêu. Biết yêu là yêu đến cuồng dại, tôi viết tặng anh :
«Hờ hững buốt căm, bờ sóng lụy
cuồng si thiêu rụi bến đa t́nh,
Ba ngả sông về người bơi đứng
Cợt đám hoa bèo dạt đến quanh..»
Để kết một cuốn sách đọc lâu rồi nên tôi đă quên tên, Albert Breton - một cột sống trong phái siêu thực - viết «Je vous souhaite d’ être follement aimée.» ( Xin chúc bạn được yêu đến cuồng dại ). Được yêu thôi ư ? Cũng tạm. Nhưng tôi, tôi chúc anh khác, chúc anh hơn vậy nhiều. Tôi chúc anh yêu đến cuồng dại. Tôi cũng chúc tôi yêu, với chữ Yêu cùng một lúc hiểu như danh từ, trạng từ và nhất là như động từ. Vâng, yêu có bao giờ lại là tĩnh từ. Nhất quyết là phải thế chứ. V́ Yêu là trách nhiệm cứu rỗi của những con chữ có nghĩa. Những con chữ đẹp. Những con chữ có đời sống. Muốn đẻ ra chúng, th́ có hề chi những cơn đau trở dạ. Th́ có hề chi những lỡ làng.
Tôi nhớ đă hỏi anh Hoàng Cầm, tại sao là Hoàng Cầm, và Hoàng Cầm có nghĩa ǵ ? Anh cười, có chút ǵ như là chua xót, «Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng... Tên nó vận vào người».
Hoàng cầm c̣n vận vào thành một vị thơ. Vị của những vần thơ sang nhất, đẹp nhất, nhưng cũng xót xa nhất của ḍng thơ Việt Nam ở thế kỷ 20. Cơn mây mưa giữa nàng Thơ và Anh đă sinh hạ ra Lỡ Làng, dấu vết cặp oan nghiệp -hạnh phúc như vết chân con rắn và trái táo cắn dở của Eva. Nhưng hề chi, có hề chi.
Viết đến ḍng này, đếm ra c̣n đúng bốn ngày nữa là chúng ta cùng bước qua ngưỡng cửa thế kỷ 21. Tôi lại chúc, anh Cầm, chúc anh yêu đến cuồng dại cả thiên niên thứ ba này, anh nhé.
27-12-1999
[i] Thư Nguyễn Duy ( ngày 7-05-2010) bổ túc vụ tập thơ Về Kinh Bắc : Hoàng Cầm bị giam 18 tháng ở Hoà Ḷ, Hoàng Hưng mang ‘’tội’’cầm t ập thơ vào Sài G̣n bị ba năm tù ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa. Tập thơ HC chép tặng tôi được trao cho nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo giữ trong 1 thời gian dài. Nay, Hạo cũng ra đi mất rồi.
Cập nhật : 17/05/2010 23:26
Không hẹn mà nên, thời điểm Hoàng Cầm chào đời lại là lúc các làng quan họ nao nức đợi sáng hôm sau mở hội: đó là lúc gần nửa đêm 12 tháng Giêng. Chẳng biết có phải v́ thế mà cái chất “âm tính”, “nữ tính” nó ám vào thơ ông. Nhưng quả thật những bài hay nhất, những ǵ hấp dẫn nhất trong thơ Hoàng Cầm, tập trung ở tập Về Kinh Bắc, đều ám ảnh bóng h́nh người con gái Kinh Bắc xưa…
Hoàng Cầm và các liền chị liền em Kinh Bắc thời nay
Câu thơ mở đầu Về Kinh Bắc là một lời khấn nguyện: “Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc”. Để rồi trong suốt 48 bài qua 8 nhịp tuần du, tiếng Mẹ cứ trở đi trở lại như một âm chủ trong toàn bộ tổ khúc thơ đầy màu sắc ấn tượng chủ nghĩa, như một sức mạnh ngầm nối kết những liên tưởng, ẩn dụ, cảm nhận tản mác, tạo nên một thế giới vừa thực vừa ảo. Để rồi gấp tập thơ lại, ta cứ nao ḷng v́ câu hát ru cuối cùng: “Lớn lên / Em đừng t́m mẹ phía cơn mưa”. Một nỗi buồn bí ẩn, không giải thích được, một kinh nghiệm trả giá một đời?
Sự thực là Về Kinh Bắc đă được khởi hứng và nuôi dưỡng trong suốt mấy tháng mùa rét Đông Xuân 1959 – 1960 từ nỗi niềm của đứa con tơi tả chỉ c̣n một con đường: t́m về quê mẹ nương náu trong ḷng mẹ. Cũng tức là tự bứt khỏi thực tại để ch́m đắm vào quá khứ một đi không trở lại. Hoàng Cầm nhớ về mẹ ḿnh, “một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt ‘lúng liếng’ thật t́nh tứ, dáng đi đài các uyển chuyển thanh tao”. Mẹ ông là cô gái làng quan họ Bựu – Xim, cùng làng với bà Trần Thị Tần vợ yêu quan Đại tư đồ Nguyễn Nghiễm, mẹ của thi hào Nguyễn Du. Về Kinh Bắc hẳn đă mang sẵn trong máu ḿnh nỗi u uẩn của người con gái hát quan họ tuyệt vời nhưng chính tài hoa ấy lại khiến người chồng nghiêm khắc hững hờ lạnh nhạt trong hơn mười năm, để đứa con đầu ḷng phải ra đời trong cảnh đơn chiếc một đêm lạnh giá…
Đứa con ấy chưa kịp lớn bao nhiêu đă lại chuốc lấy cho riêng ḿnh một nỗi u uẩn. U uẩn từ mối t́nh “Chị – Em” kỳ lạ hiếm hoi trong lịch sử văn học. Mối “t́nh” này đă được báo chí lạm thác đến mức nhàm chán, và tác giả cũng đă kể nhiều đến mức có lúc có thể lẫn lộn việc thực với tưởng tượng. Tôi muốn quên đi huyền thoại ngoài thơ để chỉ nói về huyền thọai trong thơ. Về những ấn tượng không thể nào phai của chùm “Cây – Lá - Quả - Cỏ” mà h́nh bóng “Chị” trùm lên.
Chị “trầu cay má đỏ” là trung tâm toả không khí ngây ngây men erotic của đêm chơi tam cúc “nghé cây bài t́m hơi tóc ấm”, “ổ rơm thơm đọng tuổi đương th́” (riêng tôi thích cái dị bản “thơm dậy tuổi đương th́” hơn là “thơm đọng”, v́ tuổi đương th́ là tuổi dậy chứ chưa đọng).
Chị với chiếc “váy Đ́nh Bảng” có lần “xoạc cành ngang” trên cây ổi có thể làm các chàng quân tử “dùng dằng đi chẳng dứt” c̣n hơn là cô thiếu nữ ngủ ngày “yếm đào trễ xuống dưới nương long” của nữ sĩ họ Hồ. Chiếc “váy Đ́nh Bảng buông chùng cửa vơng” làm câu mở đầu bài thơ Lá Diêu Bông, theo lối “hứng” của ca dao, đă trở thành một huyền thoại văn chương. Mấy ông bạn già của Hoàng Cầm từng b́nh luận: ai bảo ông ngạo thần ngạo thánh, dám ví cái váy của cô gái quê với cái cửa vơng thiêng liêng chốn đ́nh chùa, nên bị Thánh phạt đến nửa đời là phải! Vâng, cái váy con gái Đ́nh Bảng một thời là “mốt” thời trang Kinh Bắc, mẹ cậu Việt (tên thật Hoàng Cầm là Bùi Tằng Việt) từng mặc, chị Vinh thần tượng của cậu từng mặc. Theo như tác giả miêu tả, nó buông chùng xuống mu bàn chân giống kiểu buông của cửa vơng (cửa vơng thật ra là thứ rèm trướng cách điệu, bằng gỗ, buông nửa chừng như cánh vơng trước mặt ban thờ trong hậu cung đ́nh chùa); mặc cho đúng mốt Đ́nh Bảng là biết chếp nếp trên thắt lưng để phía dưới có nhiều pli, càng nhiều pli càng đẹp, khi đó dáng cô gái đi chẳng khác đi trên sóng rập rờn.
Chị với chiếc Lá Diêu Bông có thể trở thành một mục từ trong từ điển văn học! Chiếc Lá Diêu Bông nổi tiếng đến mức nhạc sĩ Trần Tiến chỉ đưa cái tên ấy vào một câu trong bài hát “Sao em nỡ vội lấy chồng” đă mang tiếng là “phổ nhạc bài thơ Hoàng Cầm”. Lá Diêu Bông là cái lá ǵ? Trong hơn 30 năm kể từ khi bài thơ ra đời, không ít người đă hỏi. Bây giờ th́ chắc ai cũng biết đó là cái lá không hề có, do chị bịa ra để dối em, đúng ra là do nhà thơ bịa ra (và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến bao nhiêu suy dĩên, bao nhiêu rắc rối cho ông!). Chính tác giả nói ông cũng không biết tại sao ḿnh nghĩ ra cái tên ấy. Theo tôi, cái tên đă h́nh thành một cách vô thức từ những liên tưởng do hai âm “diêu” và “bông” gợi lên. “Diêu” gợi nghĩa “phiêu diêu”, “bông” gợi nghĩa “bông lông” hoặc “nhẹ như bông”. Lá Diêu Bông là một cái lá bay phiêu diêu, vô định. Có lẽ hiểu như thế nên nhạc sĩ Văn Cao từng có lần vẽ hai cái lá bay làm “b́a” cho một tập Về Kinh Bắc do Hoàng Cầm chép tay. Xin dừng một chút ở chuyện này. Vào cái năm 1982 ấy, số người t́m đến quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lư Quốc Sư Hà Nội xin ông chép tay bản thảo Về Kinh Bắc đă không c̣n giới hạn trong phạm vi các “fan” ở Hà Nội. Từ TPHCM ra thăm lại quê hương, tôi cũng xin Hoàng Cầm một tập để đem về cho bạn bè văn thơ trong ấy thưởng thức, kể cả bản thân tôi, đến lúc ấy mới chỉ có trong tay ba bài “Cây tam cúc”, “Lá Diêu Bông”, “Quả vườn ổi”. Hoàng Cầm chép xong, tôi bắt chước ông Lâm “toét” (tức Lâm cà phê) xin hoạ sĩ Bùi Xuân Phái vẽ cho hai bức “phụ bản”, ông đă vẽ hai cô gái quan họ. Mở ngoặc nói thêm: ông Lâm là người mến tài các hoạ sĩ nên đă trở thành nhà sưu tập tranh có hạng ở Hà Nội, từ đó ông lại “chơi” cả một số bản thảo của các nhà văn nhà thơ nổi tiếng nhưng chưa được phép công bố, có lẽ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm là món đầu tiên thuộc loại đó. Vào năm 1982 th́ bản thảo Về Kinh Bắc mà Hoàng Cầm chép tay và Bùi Xuân Phái vẽ phụ bản, sở hữu của ông Lâm từ nhiều năm trước, bỗng biến mất! Khi đề nghị tác giả VKB chép, tôi có chủ ư làm lại một bản để thay cho bản đă mất của ông Lâm. C̣n “oách” hơn bản kia, v́ nó sẽ có một cái “b́a” do Văn Cao vẽ. Hồi ấy, nhạc sĩ được coi là người minh họa tác phẩm và vẽ b́a sách văn học tài hoa nhất. Do quư mến đứa em làm thơ cùng chí hướng, ông đă thực hiện rất nhanh cái “b́a” Về Kinh Bắc trên tờ giấy thếp (chắc là bằng khổ A4 bây giờ). Tiếc thay, tập chép quí giá ấy (có thể nói là vô giá) – với thủ bút Hoàng Cầm, tranh phụ bản Bùi Xuân Phái, tranh b́a Văn Cao - đă không thể nào t́m lại được nữa!1
Về Kinh Bắc c̣n có rất nhiều h́nh bóng gái Kinh Bắc mà tác giả gọi chung là “Em”. Em cam phận hồng nhan đày đọa: “gánh gạo về dinh phú hộ/ nứt vai thành sẹo lá lan đao”, “ chở nứa sang bờ duyên phận…da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân”, em tắm đêm “tung toé dội gầu trăng nước giếng… c̣n bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc” và bỗng kinh hoàng “ấp vú ḿnh trần con dế trũi”. (Tắm đêm, bài thơ lạ lùng như bức tranh theo chủ nghĩa xuất biểu - expressionnism). Em dân ca quan họ trong bức tứ b́nh minh họa thành ngữ dân gian về ‘tướng’ dành cho phái nữ: “Lại xót mắt em mi trường khép bóng”, “Chân em dài đi không biết mỏi”, “Má hồng em lại nổi”, “Lưng thon thon cắm sào em đợi” (Theo đuổi)2. Có cả em âm thầm “nén nghẹn búp thanh xuân” nơi cửa Phật “chuông chùa cởi yếm, chuông sớm đội khăn, câu kinh tê Về Kinh Bắc c̣n có rất nhiều h́nh bóng gái Kinh Bắc mà tác giả gọi chung là “Em”. Em cam phận hồng nhan đày đọa: “gánh gạo về dinh phú hộ/ nứt vai thành sẹo lá lan đao”, “ chở nứa sang bờ duyên phận…da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân”, em tắm đêm “tung toé dội gầu trăng nước giếng… c̣n bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc” và bỗng kinh hoàng “ấp vú ḿnh trần con dế trũi”. (Tắm đêm, bài thơ lạ lùng như bức tranh theo chủ nghĩa xuất biểu - expressionnism). Em dân ca quan họ trong bức tứ b́nh minh họa thành ngữ dân gian về ‘tướng’ dành cho phái nữ: “Lại xót mắt em mi trường khép bóng”, “Chân em dài đi không biết mỏi”, “Má hồng em lại nổi”, “Lưng thon thon cắm sào em đợi” (Theo đuổi)2. Có cả em âm thầm “nén nghẹn búp thanh xuân” nơi cửa Phật “chuông chùa cởi yếm, chuông sớm đội khăn, câu kinh tê mười ngón tay măng… ong bay vai áo tiểu thon ḿnh” (rất có thể em đây là nhân vật của “Hồn bướm mơ tiên” Khái Hưng). Cả em “h́nh nhân má điệp tóc mực tàu… da trắng bóc/ phủ bụi tàn nhang… mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu”. Và em bảng lảng trong thiên nhiên, khí hậu Kinh Bắc: “Gió vào trăm cửa, gió ra hồng da trinh nữ”, “châu chấu ma vờn cổ yếm xây”. Trong lịch sử Kinh Bắc: “Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo/ biết ḷng chim sáo chim di”. Em của các lễ hội dân gian một thuở: hội thi sợi bún, thi ăn mía thổi cơm, thi đánh đu, hát đúm, thi dệt vải, thêu gấm, hội chen Nga Hoàng…Cái hội chen này của vùng Kinh Bắc xưa thật là hấp dẫn, độc đáo. Mỗi năm một đêm đúng vào đêm nguyệt tận “tối như đêm 30”, trai gái đàn ông đàn bà đợi cụ Tiên chỉ nổi trống, đèn đuốc tắt hết, là nhào vào “chen”, những đôi yêu nhau mà không lấy được nhau tận dụng thời gian vàng ngọc này để thoả cái t́nh phải nén trong ḷng. Nhưng dù mê đắm thế nào cũng phải “tỉnh táo” căn sao cho đúng ba hồi trống, kẻo đèn đuốc bừng lên mà chưa kịp buông nhau ra là làng bắt vạ. Nhà thơ đă nhập vào tâm tư của cô gái lỡ gặp người thương quá ba hồi trống, cả hai bị bắt trói cột đ́nh. Đă liều th́ liều một thể, cô thầm ước (hay thầm hát, một điệu quan họ): “Th́ trói cả đôi/Xin trói cả đời/Cột lim ư găy rồi/Giường nhung ư sóng đôi”.
1 Bản thảo này là đầu mối vụ án oan nổi tiếng (nghi ngờ HC t́m cách chuyển ra nước ngoài) đă khiến tác giả bị giam giữ 16 tháng (20/8/1982 – 23/12/1983) và người tàng trữ 39 tháng (17/8/1982 – 29/10/ 1985) và trở thành tang vật quan trọng nhất của vụ án. Trong dịp sinh nhật lần thứ 80 của HC tại nhà ông, Thiếu tướng Phạm Chuyên, Giám đốc CA Hà Nội, đă hứa với tôi trước mặt nhiều văn nghệ sĩ là ông sẽ cho t́m bản thảo nói trên. Ít lâu sau, ông bắn tin là “không t́m thấy”.
2 Câu ca dao này như sau: “Đa mi tắc đa mao/ Chiết yêu nhi đại huyệt/ Hồng kiểm đa dâm thuỷ/ Trường túc bất tri lao” hoặc “Trường mi hậu hậu mao…”
ĐT và HC (1996)
Hoàng Cầm là người làm thơ có ư thức rất rơ và rất cao về thiên chức của ḿnh. Thơ phải nâng cao t́nh người và làm đẹp cuộc sống. Ngoài ra anh không phục vụ một ư đồ nào khác cho bản thân hay cho thời thế.
Đến với một nhà thơ, hành tŕnh không phải lúc nào cũng đơn giản, cho dù rằng nhà thơ ấy, với ḿnh đă là thân thuộc. Như trường hợp tôi t́m đến Hoàng Cầm. Tôi thuộc thơ Hoàng Cầm từ bài Bên kia sông Đuống làm thời Kháng chiến chống Pháp. Câu thơ Hoàng Cầm được trích dẫn nhiều nhất có lẽ là:
Quê hương ta lúa nếp
thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Lời thơ đẹp, trong sáng, hùng hồn ngợi ca màu sắc quê hương, trong một giai đoạn kháng chiến gian nan, l948. Chúng ta yêu câu thơ v́ giá trị văn chương, nhưng cũng v́ nó lồng trong t́nh dân tộc nồng nàn đang bị bức bách và thử thách; về sau, đọc lại, vẫn yêu, v́ câu thơ đă hoà màu vào kỷ niệm để làm máu thịt của cuộc sống. Nhưng nếu tách ĺa ra khỏi bối cảnh lịch sử và tâm cảm, th́ không biết câu thơ c̣n giữ trọn vẹn hương sắc hay không? Tuy nhiên Hoàng Cầm, suốt thời kháng chiến, là thời hoa niên, chỉ làm vài ba bài thơ như thế. Thơ anh sau này khác đi, tân kỳ hơn, t́nh tứ hơn và phi thời đại hơn:
Chị đi một
chuyến chơi xanh cỏ
Quay bánh linh xa miết triệu ṿng
Nhặt sợi-vô-cùng thêu áo gối
Mau về mừng cưới ...
(nhớ Em không?)
(Chị Em xanh - 1970 - BKSĐ, tr. 57)
Đoạn thơ chỉ có một chữ khó: linh xa, là bánh xe linh hiển của thời gian, giữa không gian vô cùng, trong đó hạnh phúc con người mong manh tơ mỏng. Ngôn ngữ và tư tưởng Hoàng Cầm mới mẻ, nhưng vẫn tiếp với truyền thống của thơ mới, và nhắc chúng ta nhớ Vũ Trụ ca của Huy Cận:
Lá biếc đưa thoi
xuyên vĩnh viễn
Gió là sợi thắm của thời gian
( Áo xuân, 1942)
Ngồi xe nhật nguyệt
cùng thiên nhiên
Làm bạn đi đường về vô định
(Xuân hành, 1943)
Đến những câu này của Hoàng Cầm th́ thật là sáng tạo:
Ta con bê vàng lạc dáng
chiều xanh
đi măi t́m sim chẳng chín
(Về với ta, 1960, BKSĐ, tr. 135)
Câu thơ long lanh những thanh sắc gọi về tuổi thơ hoàng kim và bích ngọc, lấp lánh vàng xanh qua một loạt nguyên âm mở (a, ang...) ngây ngất, chao đảo dưới trời chiều, rồi thu vào màu sim tím gian truân rón rén sau những nguyên âm khép (i, im...). Buổi chiều xanh không biết tự thời nào:
Một chiều xanh, một chiều xanh huyền hoặc
(Hàn Mạc Tử)
Hay bầu trời Rimbaud:
Par les soirs bleus d’été j’irai par les sentiers
(Chiều hạ xanh những lối ṃn chân nhỏ...)
Những dấu chân chim sẽ đưa ta về với ca dao:
Đói ḷng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi t́m người
thương
Thơ Hoàng Cầm ghé đến ḷng đời, t́nh đă nhỡ một mùa sim.
Người đọc có thể ngạc nhiên v́ h́nh ảnh con bê vàng – tuổi thơ của tác giả – h́nh tượng bất ngờ, thậm chí không thuận lư, nhưng cú pháp, từ pháp hợp lư. Hoàng Cầm táo bạo trong cấu trúc h́nh ảnh mà không vi phạm quy luật ngôn ngữ, nhờ đó mà thơ anh, dù cầu kỳ, vẫn gần người đọc, và tính hiện đại vẫn tiếp nối truyền thống – chưa kể là nhạc điệu phong phú, d́u dặt, dắt d́u độc giả đi sâu vào rung cảm và tưởng tượng.
Cũng có người cho rằng thơ anh bí hiểm. H́nh ảnh bê vàng và sim tím nhắc tôi một đoạn khai tâm về thơ của Bùi Giáng: “Đi vào cơi thơ... thế nghĩa là ǵ? Anh lùa ḅ vào đồi sim trái chín? Một mặt anh lưu tâm trái chín rừng sim? Một mặt anh cũng lưu tâm chiếu cố cho những con ḅ, đừng để chúng lạc lối vào sâu trong rú rậm rồi mất lối trở ra (...). Ta ngồi dưới gốc cây sim lắng tai nghe ḅ đương gặm cỏ, thong dong đưa tay với một cành, hái một trái chín ăn chơi... Bỗng dưng? Bỗng dưng nảy ra một sự t́nh kỳ bí: bàn tay ta vừa chạm tới một trái sim riêng lẻ, th́ suốt dăy rừng, toàn thể ngàn sim lục bỗng chấn động vang lừng. Đó là bí quyết lạ lùng. Một bí quyết bất khả truyền (Đi vào cơi thơ). Cuộc kỳ ngộ bằng h́nh ảnh giữa hai nhà thơ chỉ là t́nh cờ, nhưng cũng phản ánh những rung cảm chung trong một thế hệ thi ca. Người này, vô t́nh, giải thích người kia.
Tuy nhiên, những câu thơ lạc dáng chiều xanh “kỳ bí” như thế không nhiều trong thơ Hoàng Cầm và nói chung, chúng ta đều có thể phân tích, giảng giải được. Ngược lại, khó giải thích những câu đơn giản mà chúng ta đă gặp, đă phân tích:
Đường đê chợ Trầm sang mùa tu hú
(Vợ liệt sĩ)
Kỹ thuật không có ǵ. Những từ ngữ quyện vào nhau và tự tạo lên sức gợi cảm. Sự đơn giản đi gần tới văn xuôi – mà vẫn không phải là văn xuôi. Một số nhà nghiên cứu về thơ như Roger Caillois, đă nêu lên đặc tính này của thơ hiện đại.
Giản dị hơn nữa là câu thơ nhiều người thuộc:
Anh đưa em về sông Đuống
(Bên kia sông Đuống, 1948, BKSĐ, tr. 29)
Có ǵ mà câu thơ b́nh dị ấy cứ vương vấn măi trong ḷng ta? B́nh dị, nhưng dịu dàng, đằm thắm,thiết tha: anh đưa em về. Cơi về đó là quê hương, là an b́nh, là kỷ niệm, là hạnh phúc. Thơ, và t́nh yêu, là một cơi về. Về một ḍng sông. Sông Đuống: âm vang nghe cách trở, truân chuyên, mà thiết tha khẩn khoản.
Thơ Hoàng Cầm, sáng tác qua năm mươi năm, lấp lánh muôn màu ngàn vẻ, nhưng đều đồng quy về một chữ VỀ. Về sông Đuống, về Kinh Bắc, về cơi Em, về với anh, về với ta. Có tập thơ mang tên Mưa Thuận Thành, một cơn mưa về nguồn, như h́nh ảnh của Tản Đà, nước non nặng một lời thề, hay thơ Hoàng Cầm:
Giọt mưa phương Nam có về Kinh
Bắc
Mưa đi về Anh mưa đi về nguồn
(Giọt mưa phương Nam, 1991, BKSĐ, tr. 121)
Tuyển tập Bên kia sông Đuống gồm có 56 bài, trong đó 35 bài mang chữ VỀ. Bản thân bài BKSĐ được cấu trúc trên điệp khúc: Bây giờ đi đâu? Về đâu? Thơ Hoàng Cầm là một lối về, một cơi về, một cơi mơ về, một tiếng gọi về:
Dóng dả gọi về đồng
sương
đôi ba người lận đận.
(Về với ta, 1960, BKSĐ, tr. 135)
Có thể đây là một phản ánh trọn vẹn của thơ Hoàng Cầm, nổi tiếng từ vở kịch thơ Kiều Loan khởi thảo từ 1942. Kiều Loan, cô gái điên, là kẻ lạc mất đường về. Điên là đánh mất cơi về. Nhân vật chính, trước khi chết, đă cầu khẩn t́nh yêu:
Tôi chỉ xin nàng đôi giọt lệ
Cài lên lá cỏ... phía quê hương
(Kiều Loan, 1942)
Quê hương, là Thuận Thành, là Kinh Bắc, nhưng c̣n là cơi mênh mông. Từ 1942, Hoàng Cầm hai mươi tuổi, đă có những câu linh cảm, báo trước toàn bộ thi phẩm của ḿnh:
Níu tay cười xuống hoàng hôn cũ
Vớt mắ t em về bến hoá sinh
(Lại gặp, 1942, BKSĐ, tr. 24)
Tập thơ cuối cùng Hoàng Cầm thông báo sẽ in, sẽ mang cái tên tiêu biểu: Về Cơi Thật Người. Thơ Hoàng Cầm đậm đà t́nh dân tộc, nhưng không phải là thơ địa phương. Từ bến quê hương, Hoàng Cầm t́m về cơi người chính xác – Cơi Thật Người – do đó, thơ anh, từ những màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp, vươn lên t́nh người, rất rộng, rất cao.
Cuộc sống hiện đại là một ḍng sông ngày mỗi xa nguồn. Khái niệm và ư thức quê hương ngày một nhạt phai trong tâm tưởng con người hiện đại, con người đô thị.
Ĺa nguồn là quy luật của tiến hoá. Nhưng con người cảm nhận ly cách đó mỗi nơi, mỗi lúc, mỗi người, một cách khác nhau. Thế hệ Hoàng Cầm – bản thân Hoàng Cầm (sinh năm 1922) – chứng kiến sự tan ră, tàn phá của một nền văn hoá trên một đất nước mất chủ quyền, rồi triền miên đắm ch́m trong lửa khói. Hai cuộc chiến tranh dân tộc chồng lên trận tranh chấp lớn lao giữa hai nền văn minh, mới và cũ, Đông và Tây. Dân tộc có chiến thắng, vẫn để mất đi ít nhiều bản sắc văn hoá, như con chim thắng trận đă phải mất lông mất cánh. Anh chiến sĩ trong Hoàng Cầm chóng quên hào quang chiến thắng để lặng nghe những tàn phai, tan tác, rồi tự hỏi về cuộc đời, về con người, về bản thân
Anh đứng đây là đâu
Em cười như lá mỏng
(Anh đứng đây là đâu , 1988, BKSĐ, tr. 62)
Đơn giản và hàm súc. Câu hỏi hiện đại và hiện sinh, là niềm hoang mang lớn lao của nhân loại; con người đă t́m ra chỗ đứng, nhưng mất toạ độ trước những biến chuyển vật đổi sao dời, nhanh chóng và toàn bộ, có phần tự nhiên, có phần áp đặt.
Trong hỗn mang của thời đại và hoang mang của tâm linh, nụ cười, tia hạnh phúc, bỗng mong manh Em cười như lá mỏng. Có cái ǵ đó vô cùng quư giá, nhưng hết sức đơn giản, rất mực phôi pha, làm cho con người hoang mang trở thành hoảng hốt. Hoàng Cầm, những lúc sống thật với ḷng ḿnh, từ chiều sâu thăm thẳm của tâm thức, thỉnh thoảng bật ra những câu thơ, những h́nh ảnh b́nh dị mà hàm súc như vậy. Một câu hỏi lớn của loài người vừa vụt chao nghiêng tia nắng trên tờ lá mỏng: thơ Hoàng Cầm là ngọn gió lạc mùa, bất chợt thổi tạt qua trần gian, một ngày thu muộn màng và hiu hắt.
Bên kia sông Đuống, quê hương Hoàng Cầm long lanh quá khứ, với những buồn vui ngày ngày tháng tháng, trong khung cảnh đồng quê thân thuộc, tầm thường: tre luỹ, bèo ao, đê quai, bến Sấm. Có tiếng ếch cơng mưa rào, tiếng chào mào khát nắng. Và tiếng tu hú gọi mùa. Làm thơ, bao giờ cũng tô son điểm phấn ít nhiều lên cuộc sống, như cô gái bất hạnh:
Mua son đắt rẻ tuỳ phiên chợ
Đời sống trong thơ Hoàng Cầm vui ít, buồn nhiều, và thường xuyên vất vả. Việc đồng áng xen lẫn với quai gánh bán buôn. Đặc biệt về thủ công nghiệp, nghề gốm Bát Tràng chiếm trọn tập thơ Men Đá Vàng (1973) trong khi Tiếng Hát Quan Họ (1956) làm nền cho một tập thơ khác (1956). Lao động chuẩn bị những hội hè đ́nh đám, niềm vui chẳng qua không lấp được bao nhiêu lận đận gieo neo. Chỉ thấy cảnh trai tài gái sắc giao duyên qua lời ca tiếng hát, mà không nghe được những uất nghẹn, tan tác, th́ chưa cảm nhận đầy đủ tâm cảnh của Hoàng Cầm.
Ám ảnh lớn của Hoàng Cầm là niềm cô đơn trơ trọi, thể hiện rất sớm qua h́nh tượng cô gái điên hay mẹ con đàn lợn âm dương – chia ĺa đôi ngả (1948) sẽ trở lại với con bê vàng lạc dáng chiều xanh – Đêm nay mẹ chẳng về chuồng (1960). Nhà thơ, ở bất cứ tuổi nào, vẫn mang tâm t́nh đứa trẻ con hoang mang đợi mẹ. Thơ Hoàng Cầm là một lối khấn thầm:
Khấn thầm như mẹ lỡ đ̣
ngang
Miệng hé hạt na nhoà bến vắng...
Bao giờ mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
(Đợi mùa, BKSĐ, tr. 48)
Giữa những tang thương, dường như cảnh chia ĺa làm nhà thơ đau đớn nhất. Anh vẫn tin ở cuộc đời, và niềm tin thiết tha sâu sắc nhất, có lẽ là t́nh cảm dành cho tuổi trẻ mai sau:
Ta ru em
Lớn lên em đừng t́m mẹ phía cơn mưa
(Về với ta, 1960, BKSĐ, tr. 136)
H́nh ảnh người chị trở đi trở lại, là bóng dáng người mẹ nối dài. Trong bài Đợi mùa, hai h́nh ảnh lồng vào nhau trên đường về chợ:
Tưởng như mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa
Tưởng như Chị về
Tơ tóc đêm xưa giờ rễ tre
Bao giờ Chị về...
Bao giờ mẹ về...
Không
Đă hết năm tu hú gọi rừng già
H́nh ảnh người chị trẻ trung và gần gũi hơn, nên gợi cảm gợi t́nh hơn, hàm chứa nhiều rung cảm đa nghĩa, tạo ra được những câu thơ đẹp hồn nhiên, nghịch ngợm:
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
(Quả vườn ổi, BKSĐ, tr. 39)
Làm thơ, vói Hoàng Cầm, trong chừng mực nào đó, là giữ chân tuổi thơ dưới một gốc cây. Chờ mong và mơ mộng.
Người mẹ đẩy con ra đời, người chị đưa em vào đời:
Em mười hai tuổi t́m th eo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi...
ngày tháng lụi
t́m không thấy
Dải yếm ḷng trai mải phất cờ
(Quả vườn ổi, BKSĐ, tr. 39)
H́nh ảnh người chị từ phái tính đưa đến dục tính, tế nhị, kín đáo, thi vị: Hai đứa lung linh lơi yếm áo. Có lúc người em c̣n ước mơ cưới Chị xanh thiêm thiếp (Chị Em xanh, 1970). Ta nên hiểu đây là giấc mơ hạnh phúc bao la trước vũ trụ mà người đàn bà là biểu tượng. Hoàng Cầm đi sâu vào ḷng đời theo bước chân người chị. Bao nhiêu âm hao của sống, tiếng tu hú trên quai đê, tiếng bạc má trên cành chanh, tiếng chào mào trên cành nhăn đă đến với anh theo giọng lảnh lót của người chị. Những bài thơ hay nhất, bạo nhất về chị, Hoàng Cầm đă làm ba mươi năm sau – lúc đă ngoài bốn mươi năm mươi tuổi – đă quá tuổi thơ ngây để ngủ lại giấc mơ dang dở ( Đêm Mộc, 1959). Ngoài thơ ra, con người làm sao có thể ngủ lại giấc mơ? Nên hiểu thơ Hoàng Cầm trên chiều hướng đó; và trong giới hạn thu hẹp lại, những bài thơ về chị Trúc của Nguyễn Bính cũng nên hiểu như vậy, thay v́ đặt những câu hỏi vớ vẩn và dung tục.
Dục tính là một yếu tố quan trọng trong thơ Hoàng Cầm v́ nó là thành tố cơ bản, sâu xa của cuộc sống và đồng thời cũng là hương sắc của trần gian. Bản năng thiết yếu lồng vào nhu cầu thẩm mỹ. Những h́nh ảnh thiêng liêng nhất của quê hương cũng lâng lâng mùi da thịt:
Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa
bạch
Tượng Quan âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm...
(Đêm Thuỷ, 1959 – BKSĐ, tr. 15)
Dục tính trong thơ Hoàng Cầm, từ bản năng thiên nhiên, đă trở thành một yếu tố văn hoá trong xă hội cổ truyền, giống trong tranh tượng dân gian. Nó không phải là tự nhiên chủ nghĩa, không phải là Người gái thiên nhiên như trong thơ Đinh Hùng:
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
(...) Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
(Mê Hồn Ca)
Thỉnh thoảng cũng có h́nh ảnh tự nhiên, nhưng không nhiều:
Ngoài hồ cô giặt lụa
Vỗ vào lưng đêm giăng
Nước lạnh chấm hai đầu vú
(Cô gái giặt lụa)
Thân thể người đàn bà căng đầy nhựa sống nhưng giới hạn trong những điều kiện xă hội và văn hoá nhất định:
Chũm cau căng nứt mạch tằm
Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
(Đêm Mộc - 1959 - BKSĐ, tr. 19)
Ngành dân tộc học ngày nay đă trưng nhiều tư liệu về những lễ lạc, hội hè trong h́nh thái xă hội cổ sơ, giải phóng con người ra khỏi những cấm kỵ, ràng buộc. Hoàng Cầm gợi lại cảm giác trước cuộc Thi đánh đu:
Luồn tay ôm say
giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh.
Dục tính được nhà thơ làm nổi bật và thi vị hoá, vừa cô đọng vừa tan loăng trong một không gian ngất ngây, lảo đảo nhờ những âm thanh, h́nh ảnh và chuyển động trong thơ. Hoàng Cầm đẩy tưởng tượng – tôi tạm gọi dự cảm huyễn dục – đến huyền sử một Hội yếm bay với nhiều cô gái, vốn là tiên nữ bị đày xuống trần gian, cùng cởi bỏ xiêm y:
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo khoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tṛn căng nuột ấy...ơi!
Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứ đầy
Một chiều khổ cực bốn chiều say
Đă phanh yếm mỏng th́ quăng hết
Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây
(tập Lá Diêu Bông, tr. 76)
Trong dự cảm huyễn dục, Hoàng Cầm cao hứng:
Lệnh tám cơi tốc xiêm y chới với
Sững ḿnh em vùn vụt hút lên xanh
(tập Lá Diêu Bông, tr. 83)
Dục tính trong thơ Hoàng Cầm táo bạo lắm, th́ cũng đến vậy thôi. Không có cái rạo rực dồn nén như trong Gái Quê của Hàn Mạc Tử; nhục cảm ở đây, có lúc chỉ là phương tiện cho Hoàng Cầm làm một câu thơ hay và lạ. Dù ư có suồng să, lời vẫn trau chuốt, có khi trang trọng, chứ không có ư bông đùa như Bùi Giáng. Về mặt này, tôi đă trích dẫn nhiều thơ anh mà ít b́nh luận – v́ thơ anh tự nói lên được phong cách và nội dung. Lời bàn – về dục tính – e rằng dung tục một cách không cần thiết.
Hoàng Cầm là người làm thơ có ư thức rất rơ và rất cao về thiên chức của ḿnh. Thơ phải nâng cao t́nh người và làm đẹp cuộc sống. Ngoài ra anh không phục vụ một ư đồ nào khác cho bản thân hay cho thời thế. Nếu một lúc nào đó có bài nọ bài kia phù hợp với một giai đoạn lịch sử, th́ bất quá chỉ là những bước không ḥ hẹn, đă bước trùng nhau một ngả đường như lời thơ Huy Cận.
Hoàng Cầm làm thơ liên tục nhưng rời rạc trong hơn năm mươi năm. Những bài thơ xiêu lạc như những chiếc lá ĺa cành:
Rồi lại chiều mai lại sớm kia
Lá không in dấu phận xa ĺa
Cứ lang thang phố nhờ cơn gió
Nhè nhẹ sang hè rẽ lối khuya
(tập Lá Diêu Bông - tr. 77)
Với anh tôi muốn làm
cơn gió
Lùa những lưu ly lại Cội Về
Lá bao nhiêu lá mai về đất
Đường Mê thân gió vẫn tê tê.
Nguồn thơ Hoàng Cầm róc rách qua phong cảnh quê hương, khi vướng vào kỷ niệm, một nhan sắc, bỗng ngời lên thứ ánh sáng diệu kỳ, bao la, ngây ngất:
Ai về bên kia sông
Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Bên kia sông Đuống, tr. 31
Dịu dàng, đằm thắm và trong sáng, nụ cười ánh lên đôi mắt; dù rằng câu thơ không nói ǵ về đôi mắt, ánh nắng và mùa thu vẫn toả ra từ cái nh́n hồn nhiên, đôn hậu, ngời niềm hạnh phúc ấm và sáng, lên đời sống nông thôn ảm đạm, xa xăm. Câu thơ sáu chữ đă xuất hiện từ lâu, từ trước thời Nguyễn Trăi, nhưng không thông dụng về sau; nhịp thơ tự do và khoan thai, nhẹ nhàng, cởi mở. Bốn âm bằng liên tiếp, trầm lặng và cởi mở, cười như mùa thu, chợt loé lên tia sáng sắc cạnh của hai âm trắc toả nắng. Tia nắng bất ngờ nhắc chúng ta nhớ lại ánh nắng cuối thu đầu truyện Đôi bạn của Nhất Linh: “Ở ngoài, như ư mong ước của Trúc, trời bỗng nắng to”.
Về cô hàng xén, Thạch Lam đă có một câu thật quyền: “Các cô hàng nước, cùng với các cô hàng xén, kĩu kịt đi chợ Đông chợ Đoài, là cái tinh hoa thuần tuư của người Việt Nam từ xửa từ xưa đến giờ”1.
Tinh hoa người Việt... Lời ca ngợi tuỳ hứng có phần quá đáng, v́ h́nh tượng cô hàng xén chỉ xuất hiện trong văn học Việt Nam trong một giai đoạn ngắn, phản ánh thời kỳ quá độ trong xă hội nông nghiệp đang bắt đầu hướng về thành phố, vừa chuyển hàng đi, vừa nhận hàng đến, qua cô hàng xén.
H́nh tượng cô hàng xén trong thơ Hoàng Cầm bắt nguồn từ nhiều t́nh cảm sâu xa. Thân mẫu Hoàng Cầm là một cô gái quan họ và một cô hàng xén. Những cô gái Kinh Bắc kết bạn quan họ giữa những mùa đồng áng và hội hè, thường rủ nhau đi buôn bán, và các cô thường hát:
Đi buôn khắp cả
phố phường
Tôi buôn chẳng được lạc đường
về chợ Đồng Xuân 2
Thân mẫu Hoàng Cầm buôn bán v́ sinh kế, đôi vai trĩu nặng đôi bồ, chăm chút nuôi con ăn học, và h́nh ảnh bà cụ (1891-1961) vẫn thường xuất hiện trong thơ:
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua c̣m cơi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thiếp giấy đầm hoen sương sớm.
Bên kia sông Đuống, tr. 31
Bóng đáng bà mẹ quê thấp thoáng trên những đường làng quạnh vắng, bước cao thấp bên bờ tre hun hút, hoặc trên những chuyến đ̣ ngang miệng hé hạt na nhoà bến vắng, làm nhớ đến một bà Tú Xương chưa xa xôi lắm, và câu thơ Lưu Trọng Lư:
Nét cười đen nhánh
sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.
Ta có câu ca dao yêu người yêu cả đường đi. Đơn giản và chân xác. Bóng dáng cô hàng trên đường đê chợ Trầm sang mùa tu hú đă chồng lên h́nh ảnh cô gái quan họ:
Đêm hội Lim về
đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
ánh trăng đầm ấm đường sương
(...) Em về đồng chiêm đất rạng chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
(...) Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mông mênh
Bên kia sông Đuống, tr. 64
Đường t́nh không tuổi theo trời đất chuyển màu, từ đồng chiếm đất rạn qua đồi chè nước ngập. Bước chân mẹ c̣n đê mê cát mịn lại phải bấm sâu vào đường trơn mưa 1ạnh. Xuôi ngược dọc ngang, những nẻo đường trong thơ Hoàng Cầm hẹn ḥ nhau ở một ngă ba: đường đến nhau và đường t́m về.
Hai con đường ấy, đều Về
với ta.
Nàng Thơ của Hoàng Cầm là những phụ nữ lao
động, lam lũ cật lực. Gánh hàng xén c̣n là lao
động nhẹ, có được gánh hàng th́ chưa
phải là nghèo. Đất quan họ không phải là nghèo,
nhưng vẫn có những người cùng khổ.
Chúng ta ŕnh nh́n trộm cô gái Tắm đêm, một đêm trăng, tung tóc gội gầu trăng nước giếng. Ta sẽ đau ḷng thấy thân thể cô gái đầy vết sẹo:
Em gánh gạo về nhà phú
hộ
Nứt vai thành sẹo lá lan đao
Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đă rách vá ǵ cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân
(...) Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi.
Bên kia sông Đuống , tr. 83
Trên đời không ǵ đẹp và quư bằng thân thể người đàn bà. Và những vết sẹo do lao động hay roi vọt cứa ngang rạch dọc kia là những nhục nhằn chung cho nhân loại. Người phụ nữ lam lũ và tất tả vẫn giữ nét duyên dáng:
Tàu cọ em che đàn gà
mới nở
Em vực bê vàng lửng dáng chiều xanh
Đắp con đê quai sóng soài đất đỏ
Trận mua vừa rồi không rụng hoa chanh
(...) Một tay em che ngọn
đèn bạt gió
Một tay quấy nồi cám lợn kê vàng
Như đêm đêm tay kia ôm bé ngủ
Tay này thắp hương... đế thức quanh
tường
Vợ liệt sĩ, Mưa Thuận Thành, tr. 2
Nói đến người phụ nữ Việt Nam, không thể chỉ dừng lại ở làn môi khoé mắt, mà phải nhắc đến mồ hôi nước mắt, những vất vả và thiệt tḥi. Điều ấy, nhà thơ chỉ th́ thầm, nhưng vẫn rơ giọng. Người phụ nữ hiện lên dịu dàng trên nền trời quê hương, giữa tiếng ếch nhái, ễnh ương, chẫu chuộc, tiếng chim bạc má, cú vọ, tu hú bồ các, ch́a vôi, cạnh con mèo mướp trong xó bếp, cánh chuồn chuồn, châu chấu, bươm bướm, đàn kiến lửa ngoài sân, cái giun đất ḷng th ̣ng mỏ con gà trụi, giữa những cành ổi, cành nhăn, cành chanh, ngọn bí lông tơ hoa xoan lả tả và bao nhiêu h́nh ảnh thân thương khác. Người phụ nữ trong thơ Hoàng Cầm không quyến rũ v́ nhan sắc nhưng đáng yêu đáng nhớ qua bóng dáng, linh hoạt, năng nổ, tận tuỵ và cam phận:
Tiếng hát theo em đi
vớt bèo
Em vớt được mấy chùm sao sáng
Vớt đôi mắt nh́n theo
(...) Tiếng hát theo em
đêm về xay lúa
Cối xay tṛn biết thuở nào xong
Tai cối đuổi nhau măi măi
Biết bao giờ nên vợ nên chồng ?
Bên kia sông Đuống, tr. 102
Thơ về lao động, hiện thực và t́nh tứ như vậy, xưa nay không nhiều lắm đâu. Thỉnh thoảng lắm ta mới gặp ở Nguyễn Bính:
Ví chăng nhớ có như
tơ nhỉ
Em thử quay xem được mấy ṿng
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng
Thường thường, những cô gái lầu hoa, người em sầu mộng... dễ đẹp dễ thơ hơn người phụ nữ ngày ngày vật lộn với thực tại. Và làm thơ, đọc thơ là để quên thực tại, chủ yếu là lao động, do đó, thơ hay về người phụ nữ lao động hiếm và quư. Và khó làm.
Trong xă hội phong kiến, nghèo khó dễ tạo ra đau thương. Thảm kịch người đày tớ:
Người ở gái trót mê
anh đánh cá
Cụ Tiên đuổi ra khỏi làng
Nửa đêm ùm một tiếng
Nước lạnh khép mặt người
Bên kia sông Đuống, tr. 110
Hay cô gái bị bức bách lấy lẽ nhà giàu, mảnh gương rạch ngang cổ, chết rồi c̣n bị xă hội lên án:
Sai lấy mo cau
Úp xuống mặt người chết
Cho manh chiếu bó xác
Chôn ngay đầu làng
Trên mồ cắm một thanh tre
Đề bốn chữ “vô luân vô đạo”
Bên kia sông Đuống, tr. 111
Xă hội phong kiến, khe khắt và bất công, nghiền nát những mối t́nh và những giấc mơ:
Chúng ta yêu nhau có tội t́nh
ǵ
Phải đến giữa đ́nh trói tay ngả vạ
Bên kia sông Đuống , tr. 73
Có những cặp t́nh nhân đói nghèo chẳng được sánh đôi, những chàng trai nghèo đói phải xa quê, những phụ nữ nón quai thao úp bụng, khăn gói ĺa quê...
Quê Kinh Bắc của Hoàng Cầm nổi tiếng là nhiều hội hè, đ́nh đám, nhiều dịp vui giải trí cho nhân dân... Nhưng trong thực tế, những cuộc vui chung, hào nhoáng và ồn ào không bù đắp được nhiều nỗi buồn riêng và những khó khăn của cuộc sống. Người nông dân cơ cực mua vui mang thân phận cây pháo:
Chuỗi pháo đùng thèm bay
bùng giấy đỏ liều thân
Bên kia sông Đuống, tr. 102
Hoàng Cầm làm thơ ca ngợi quê hương và cuộc sống. Nói chung, thơ anh lạc quan v́ tin vào cái đẹp, cái tốt, tin vào hạnh phúc, nhưng vẫn mang nhiều nét buồn đau. Từ đó, thơ anh nhiều giai điệu và giàu nhân tính, chịu sự đọc lại và lọc đăi. Ngôn ngữ khúc mắc, có lúc cầu kỳ lại càng làm nổi bật chất trí tuệ – một chất trí tuệ nhuần nhuyễn t́nh cảm, thường quay về quá khứ.
Thơ Hoàng Cầm là lẵng hương
thầm của những cành hoa xa vắng.
Tiếng hát quan họ, ngoài giá trị tâm cảm, nhất định phải có giá trị phản kháng. Về tâm cảm, Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đ́nh quan họ, lớn lên trên quê hương quan họ, tập thơ ca ngợi một khía cạnh đặc sắc trong một vùng văn hoá. Nhưng tiếng hát c̣n là h́nh tượng: nó biểu dương cho nền văn nghệ tự do, b́nh đẳng, độc lập trước chế độ xă hội phong kiến. Thời điểm đầu 1955, Hoàng Cầm đ̣i quyền độc lập đó, trong một “đề nghị chính sách văn nghệ”2 và tố giác thứ văn chương cung đ́nh
Năm 1956, Hoàng Cầm sáng tác và in tập thơ Tiếng hát quan họ. Thời gian này, anh phụ trách bài vở cho Giai phẩm Mùa Xuân, đă t́m ra và tự ư cho đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, ng̣i thuốc nổ vụ án Nhân văn - Giai phẩm về sau. Trần Dần bị bắt, Hoàng Cầm viết hồi kư Con người Trần Dần để bênh bạn, đăng trên báo Nhân văn số 1 giữa tháng 9.1956. Bài báo khá dài, phản ánh không khí văn nghệ, chính trị thời đó, đă được Georges Boudarel dịch trọn vẹn ra tiếng Pháp1. Sau đó, Hoàng Cầm c̣n có bài thơ Em bé lên sáu tuổi (1956) và vở kịch thơ Tiếng hát (1957) nổi tiếng v́ tính cách phản kháng.
Nhắc lại chuyện cũ để t́m hiểu động cơ của tác giả khi làm tập thơ Tiếng hát quan họ, lấy một chủ đề cũ để làm một tập thơ mới, trong không khí đấu tranh chính trị thời đó. Về hai tập Giai phẩm, Hoàng Cầm đă “tự hào”: “ Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được một vấn đề ǵ. Có vấn đề xă hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt (...) Bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều...” 2. Thế c̣n Hoàng Cầm, người đă có tập thơ in chung với Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần? Tiếng hát quan họ, ngoài giá trị tâm cảm, nhất định phải có giá trị phản kháng.
Về tâm cảm, Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đ́nh quan họ, lớn lên trên quê hương quan họ, tập thơ ca ngợi một khía cạnh đặc sắc trong một vùng văn hoá. Nhưng tiếng hát c̣n là h́nh tượng: nó biểu dương cho nền văn nghệ tự do, b́nh đẳng, độc lập trước chế độ xă hội phong kiến. Thời điểm đầu 1955, Hoàng Cầm đ̣i quyền độc lập đó, trong một “đề nghị chính sách văn nghệ”2 và tố giác thứ văn chương cung đ́nh
Vịnh người đi
cày bằng đá
Không nói năng ǵ sau đuôi trâu
Bên kia sông Đuống, tr. 107
Đây là một khuynh hướng quan trọng trong thơ Hoàng Cầm, chúng tôi chưa đào sâu, không phải là v́ không thấy hay né tránh, nhưng v́ khuôn khổ và tính cách của bài viết. Tôi sẽ trở lại vào một dịp khác.
Tiếng hát quan họ nêu lên vai tṛ, tính cách của văn nghệ trong cuộc sống. Trước hết, nó nhận làm một thành phần nhỏ của cuộc đời:
Chép hết bài ca chưa
hiểu hết ḷng người
Dựng được bài ca chưa xây dựng cuộc
đời
Bên kia sông Đuống, tr. 117
Nhưng nghệ thuật làm cho cuộc sống cao lên, rộng ra và đẹp hơn:
Tiếng hát quan họ
Và trai gái quê tôi trẻ đẹp vô cùng
Nhảy khỏi ṿng nia
Nhảy sang ṿng nong
Từ ḥn đá ném ao ṿng tṛn rộng măi
(...) Ṿng nhỏ
Ṿng to
Đến ṿng nào nữa
Chân mây mở rộng từng mùa
Bên kia sông Đuống , tr. 118
Cuộc đời là những ṿng tục luỵ, có h́nh thể quy định như những ṿng nong, ṿng nia hay vô định và bất tận như khi ta ném ḥn đá xuống ao. Nghệ thuật giúp con người nới rộng những ṿng nghiệp chướng. Ṿng nong, ṿng nia là h́nh ảnh của nông thôn mà nhà thơ đă tích luỹ; động tác nhảy khỏi, nhảy sang nhắc lại cảnh múa sạp của dân tộc Tây Bắc mà Hoàng Cầm đă dày công nghiên cứu và cải biên thành nghệ thuật tŕnh diễn chuyên nghiệp, thời anh chỉ huy Đoàn văn công Tổng cục chính trị. “ Tôi đă nâng số lượng sạp từ 2 lên 8 cây, từ 2 diễn viên gơ sạp lên 8 và từng đoạn luân phiên với diễn viên múa, vào nhảy để 8 anh chị em khác ra ngồi gơ. Sau chiến thắng Na Sản Tây Bắc 1953, tôi lại bổ sung (...) Toàn bộ tiết mục đă trở thành một khúc vũ hội tưng bừng (...) Múa quạt ở vùng xuôi hoà với múa xoè ở Tây Bắc, lượn của Đông Bắc quyện cả với múa nón của Trung Du (...) không nét nào trùng lặp với nét nào, các đường cong, nghiêng, thẳng của h́nh thể, phải đi đúng khuôn nhịp, không một đường uốn lượn nào được phép trật nửa bước ra ngoài”3.
Nghệ thuật ở đây tạo điều kiện cho con người nhảy khỏi ṿng nia, nhảy sang ṿng nong của cuộc sống. Quan họ cũng vậy thôi, là một nét đẹp xưa, quyến rũ và mong manh:
Mẹ kể chuyện ngày
xưa xa lắm
Tháng tám ao hồ mát lặng
Làng quê c̣n níu lại hương sen
Hai mươi gái trai
Thả một con thuyền
Song song mười đôi
Mắt nh́n trong mắt
Nón nghiêng tăm tắp
Ngày mai ai chắc được gần ai
Bấy nhiêu con mắt
Cùng hát một câu
Nghe giọng biết người chung thuỷ
Bên kia sông Đuống, tr. 98
Quan họ, trước tiên, là t́nh bạn. Có ǵ đẹp bằng t́nh bạn thuỷ chung? Đôi bạn quan họ không được kết hợp với nhau. Năm mười năm sau khi đi lấy chồng xa, cô gái vẫn nhớ giọng, người gầy như nhánh mai:
Rồi chị Tư tay
bồng tay bế
Mỗi năm một lần về quê hương
Đến thăm anh Năm so giọng cũ
Hát hết tuần trăng không hết thương
Bên kia sông Đuống, tr. 103
Đẹp bao nhiêu những con người chung t́nh với một giọng hát, ngọn gió qua cầu:
Mẹ xưa dối bà, con
nay dối mẹ
T́nh không dối được nhịp cầu
Bên kia sông Đuống, tr. 100
Làm thơ, rất khó mà nói dối được lâu. Cuộc đời ở đâu, thời nào cũng vậy, đan kết những tranh chấp, bon chen. Tiếng hát quan họ giải thoát: so lời sánh giọng, người hát không nề hà hai chữ được thua:
Hát thi ba mươi sáu
giọng bổng trầm
T́m những anh chàng hát thua
(...) Chúng ta sẽ ướm làm chồng
Ngày hội năm sau
Anh sẽ bắc giàn hoa lư
mời em về ngồi nghỉ
Khi nào em hát thua anh
Bên kia sông Đuống, tr. 99
Nghệ thuật, trong một giây lát nào đó, giải phóng con người nhọc nhằn và nhục nhằn, ra khỏi xă hội phong kiến đen ng̣m:
Trai gái trong xă
Rút ống chân khỏi mực đen ng̣m
Chạy ra bến sông khoả ánh trăng mát rợi
Tiếng hát cất lên nhuộm mùi hoa bưởi
Bên kia sông Đuống , tr. 109
Câu thơ Hoàng Cầm không hiện thực, không đúng với thực tế quan họ và xă hội. Không ai thoát thân chạy ra bờ sông mà hát. Hát quan họ phải có nơi, có lúc, vào đám, vào hội theo nghi thức, theo lề lối, áo khăn, lời thưa tiếng gửi; làm ǵ có chuyện hát ào ào chân khoả ánh trăng. Nhưng câu thơ đúng với biểu tượng văn nghệ: nhiệm vụ văn nghệ là giải phóng con người ra khỏi áp bức của những chế độ hay những hoàn cảnh, thực tại éo le. Trong chừng mực nào đó, quan họ giải phóng giai cấp: cô gái quan họ dù có lúc trở thành Ỷ Lan phu nhân hay Bà chúa Chè th́ bản thân quan họ vẫn khẳng định “Tiếng hát không biết đi vơng đào” và công phá những thành luỹ của phong kiến
Tiếng hát chiều nay
đá lắng tai nghe
Muốn cựa ḿnh đổ xuống
Nghiến vụn toà lầu ngất ngưỡng
Xây nên trăm bực gập ghềnh
Để em có đường lên núi t́m anh
Bên kia sông Đuống, tr. 114
Vẫn là cái nh́n lư tưởng hoá. Tách rời ra khỏi xă hội, trong khuôn khổ những hội hè, tiếng hát quan họ giải phóng con người về nhiều mặt – kể cả giai cấp. Những liền anh liền chị là những nông dân hay thị dân nghèo kết nghĩa bằng nghệ thuật, không phân biệt địa vị. Giới khoa bảng, quan lại và tư sản không tham dự vào những sinh hoạt dân dă b́nh đẳng và phi giai cấp ấy. Người hát kết bạn, luyện giọng, tổ chức, sáng tác, tŕnh diễn, thưởng thức và phê phán, làm thành một xă hội khép, với những lề lối, quy luật, tư duy, rung cảm riêng: quan họ là một ốc đảo giữa xă hội nông nghiệp phong kiến, và tồn tại lâu dài, phần nào, nhờ thoả hiệp. Hoàng Cầm cũng thừa nhận điều đó khi anh tố cáo gay gắt xă hội phong kiến qua cụ tiên chỉ gian xảo và tàn ác.
Văn nghệ quan họ có giá trị nhất định và giới hạn nhất định. Nếu xem thơ Hoàng Cầm là niềm u hoài, vọng lại một nền văn hoá đă vang bóng, th́ chúng ta có được nhiều bài thơ hay, giữ lại và truyền đi những t́nh hay ư đẹp về quê hương, đất nước. Nếu xem Tiếng hát quan họ như một hoài băo, thậm chí một thông điệp văn nghệ, th́ chúng ta cần cập nhật hoá nó, bằng nhiều tác phẩm khác. Thời điểm gian nan 1956 tại Hà Nội, Hoàng Cầm làm được những bài thơ như vậy là đầy sĩ khí. Tôi không tiện nói nhiều về khuynh hướng phản kháng trong Tiếng hát quan họ v́ không hạp với nội dung bài này. Từ ấy đến gần đây, dù bị cô lập và cấm đoán in ấn, anh vẫn âm thầm sáng tác và tạo được tác phẩm giá trị, làm giàu làm có cho ḍng thơ Việt giữa hai bờ truyền thống và hiện đại. Bằng tác phẩm và bằng cả cuộc đời, tác giả Bên kia sông Đuống đă đóng góp vào cuộc đấu tranh giải phóng văn nghệ, măi cho đến lúc “ngọn lửa reo ṃn tuổi tác”.
Men đá vàng là tập thơ có sắc thái và địa vị riêng biệt trong tác phẩm Hoàng Cầm. Truyện thơ về người thợ gốm Bát Tràng làm năm 1973 in 1988, gồm phần dẫn nhập bằng văn xuôi thi vị, 13 trang và bốn chương thơ tự do, diễn tả tâm t́nh bốn nhân vật, ba người thợ gốm: cô gái Phong Kiều, người chồng, người cha và một người bạn đục đá. Truyện kể: người chồng mê chơi đi hoang, người vợ chờ mong hoá đá; chồng về hối hận khóc than, nước mắt thấm vào thân đá, bột đá hoà lệ thành men đá vàng, người cha nghệ sĩ tạo h́nh nung lửa tạo nên men gốm, trên đó cô gái Phong Kiều hồi sinh dưới h́nh tượng nghệ thuật: “ Từ chiếc b́nh men rạn nổi h́nh con phượng muôn màu ngậm mặt trăng nghiêng, cô gái Phong Kiều vươn vai đứng dậy (...) Trong bản t́nh ca hoà tấu tuyệt diệu của âm thanh, màu sắc, đường nét núi sông cây cỏ, Phong Kiều múa rẻo bàn tay làm hoa mưa hoa nắng. Cụ Hồng Châu đắm nh́n công tŕnh sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam và của chính ḿnh” (tr. 20-21).
Dụng tâm tác giả khá rơ: một mặt ca ngợi nghệ thuật làm gốm lâu đời của quê anh, qua đó, anh nêu lên quá tŕnh gian khổ của lao động nghệ thuật. Mặt khác, anh muốn dựa vào hư cấu đậm màu huyền thoại để thí nghiệm một ngôn ngữ thi ca mới, bằng cú pháp, nhịp điệu và h́nh ảnh khác lạ. Khi dồn hết tâm can vào việc kiến tạo ngôn ngữ, Hoàng Cầm cũng đă giăi bày nhiều t́nh cảm riêng tư: Men đá vàng có lẽ là tác phẩm Hoàng Cầm mang nhiều ẩn ức và u uẩn nhất.
Trong việc suy nghĩ, biên khảo về thơ trước đây, trong một thời gian dài, đă xa, tôi có chịu ảnh hưởng nhà bác học Gaston Bachelard, về những mạch thơ tuôn ra từ thể chất, từ không gian, từ tứ tượng trong vũ trụ quan phương Tây: đất, nước, lửa và không khí. Khi đọc thơ Hoàng Cầm về nghề gốm, tự nhiên, tôi nhớ lại Bachelard: gốm là hợp thể giữa đất và nước, thành h́nh trong ngọn lửa bừng trong không khí. Bachelard lại có những trang tuyệt vời về ngọn lửa t́nh và lửa dục4 thêm vào những suy nghĩ sâu sắc, độc đáo về thao tác quấy bột, gột hồ, nhào bột dậy men5. Gốm, từ vô thể biến thể thành h́nh thể, từ chất liệu vô tri hoá thân trong ngọn lửa, trở thành đường nét, màu sắc mang tâm t́nh, suy tư, mơ ước của con người. Đẹp quá. Tôi mang ngọn lửa trần gian soi vào thi phẩm Men đá vàng.
Tôi cũng có ít hành trang khác. Trong Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm đă có những chùm thơ về ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lại có chùm thơ về thực vật: Cỏ, Cây, Lá, Quả, về không gian: Gió, Nước, Khói, Sương, chứng tỏ có lúc nào đó, nhà thơ đă suy nghĩ về chất liệu, tư duy từ chất liệu. Trong cội nguồn thi hứng của anh, phải chăng đă có những giấc mơ thành h́nh từ thể chất, như Bachelard đă nói?
Và khi chọn nghề gốm để biểu trưng cho nghệ thuật, phải chăng lúc đầu – hay trong tiềm năng – Hoàng Cầm muốn t́m về những chất liệu sơ khai và “ ánh lửa sơ sinh” để nhào nặn nên một tác phẩm mới? Nghề gốm Bát Tràng là cơ hội lư tưởng, là truyền thống của quê hương mà anh thuộc ḷng ngơ ngách. Nghề gốm đ̣i hỏi cần lao, kỹ thuật, nghệ thuật và may mắn, v́ những thành quả bất ngờ gợi nên cơi huyền bí của thiên nhiên, chiều sâu tạo vật. Ḥn đất vươn lên theo ngọn lửa, hoá thân thành chim muông, hoa lá, những rồng ch́m phượng nổi, “màu son của đất pha ánh biếc của nước non (...) màu vàng của ngô lúa pha ánh hồng của những rạng đông huyền thoại” (tr. 18). Có cả t́nh yêu và t́nh dục bập bùng trong ánh lửa. Cô gái Phong Kiều, h́nh ảnh hoang tưởng của Nàng Thơ, âu yếm với ba người đàn ông cùng một lúc, cầm tay người chồng đă “ngày đêm canh sức lửa”, kề vai người bạn thợ đá, “ôm cả hai vai anh, run rẩy đặt môi hôn lên vầng trán”, và “đằm thắm nở nụ cười quyến rũ” (tr .21) với chàng tuổi trẻ ái mộ nàng trên con đường đi t́m t́nh yêu và nghệ thuật.
Muốn đạt tới kết quả đó, bàn tay thao tác đă tư duy. Trí tuệ có khi chỉ nối dài tư duy của bàn tay. Nhào nặn thể chất, rung cảm bằng thể chất, bàn tay tiếp xúc, khám phá, mơ mộng và sáng tạo ngoài sự tham dự của trí tuệ. Đây là bài học của người thợ gốm “mười ngón tay chai tạc vó ngựa vàng cố lư”.
Một tiểu phẩm thủ công, khi vươn đến nghệ thuật, cũng đ̣i hỏi tâm huyết:
Xuống đất quánh ngà
ngà pha lệ đỏ
Buồng gan hồng thạch
Dạ kim cương
(...) Nghe
lửa réo ḷ hồng
em níu vai anh mê ly
từng li ti mi li đất chín
Men đá vàng, tr. 32-34
Đến lúc người cha nghệ sĩ tạo h́nh truyền lệnh:
Men màu đâu ? Lên ngôi!
Men nâu lên
ńnh nịch vóc lực điền
vuông ngô lúa
tṛn ao cá chép
vuông mùa xanh
tṛn tiếp mùa vàng
(...) Men rạn lên ngôi
tia máu đan mành che băo táp
Nẻo người đi chằng chịt mấy muôn
năm
ngang dọc nước sông Hồng
Men đá vàng , tr. 46-48
Từ chuyện gốm Bát Tràng, Hoàng Cầm đă sa đà vào phong cảnh đất nước quê hương, qua địa lư, lịch sử, cho Văn Lang, Hồng Bàng, lớp lớp cánh cung căng mùa dân tộc hát, tiếng trống đồng Ngọc Lũ vang đến Sao Đẩu Sao Ngưu... Nhưng anh mỗi lúc một xa chủ đề trung tâm, là... cái ḷ nung gốm.
Truyện người thợ gốm lẽ ra sẽ giản dị là chuyện hai bàn tay tạo tác, đào luyện, nhào nặn, nung đúc một chất liệu dẻo dai, gắn bó, bền chắc keo sơn, thành những đồ sành đồ sứ men ngọc men nâu nổi tiếng từ thời Trần thời Lư. Nhưng người đọc không thấy được sự h́nh thành của nghệ thuật qua những tác phẩm vững chăi, rắn rỏi với thời gian, mà chỉ thấy sau nhiều đợt hô phong hoán vũ, những chia ly, tan tác, chủ yếu là tâm sự Hoàng Cầm, người cha xa con, người chồng ân hận, người bạn hồi tâm. Những t́nh cảm đó đáng kính đáng trọng, lời thơ tế nhị hơn những bài tâm sự sau này trong tập Lá diêu bông (1993), nhưng vẫn làm loăng men đá vàng trong chủ đề. Hoàng Cầm yếu đuối, lạc đường vào tâm sự và lỗi hẹn với Đá Vàng; anh làm lỡ cuộc t́nh bỏng rát giữa lửa hồng và đất mịn.
Điều c̣n lại trong Men đá vàng sẽ là niềm nhớ mong da diết của người cha:
Thương con đứng
thương
để vàng men gọi ngồi thương
Con hỡi Phong Kiều về đó
Men màu mơ giọt đỏ đọng ḷng tay
rớm máu mẹ cha sinh
Thương con chín thương
đá vàng men gợi mười thương
Con hỡi Phong Kiều về đó
Men đá vàng , tr. 50
Hay bản t́nh ca tha thiết của người yêu:
Đá hăy lên men
Nổi khúc tiêu bồng cánh nhạn
Em nhớ thương ai
Ta làm mưa đưa trầm ngải
Trải ngàn xanh về hàn đắp hồn đau
Sớm đă da non hồng phấn dậy th́
Em xót thương ai
Ta làm ánh chớp (...)
d́u sợi tóc mai về thềm mai lất phất
Em mong chờ ai
Ta làm rơm ổ
Chiều thu ru lá đỏ ấm vai gầy
Men đá vàng , tr. 60
Men đá vàng mong được hiểu theo nghĩa thứ hai: lớp men nhớ nhung tráng lên kỷ niệm đau thương những cuộc đời tan tác, hơi men đắng cay bốc lên từ cảnh đá nát vàng phai, b́nh tan gương vỡ. Men đá vàng khô se manh áo tân hôn cuối giường em gửi lại (tr. 39). Tác phẩm là những mảnh tan vỡ của ngôn từ, rạn nứt từ cuộc đời ngang trái.
Noël 1993
1 Georges BOUDAREL, Cent Fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, nxb. Jacques Bertoin, Paris 1991, tr. 26 đến 46.
2 Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1, từ 10 đến 20 tháng 9.1956, Hà Nội, tr. 2 và 4.
3 Hoàng Cầm, Tử Phác với điệu Múa Sạp, Tạp chí Âm nhạc, Hà Nội số 4-1993 Xuân 1993.
4 Gaston BACHELARD, La psychanalyse du feu, Gallimard, Paris 1949, chương 4.
5 Gaston BACHELARD, L’eau et les rêves, Essai sur l’Imagination de la matière, José Corti, Paris 1964, tr. 142-154.