HoangCam-3

 

                                                                                                                                                    

 

Hoàng Cầm : Về Kinh Bắc và Văn Xuôi  

 

 

 

 

 Tượng và H́nh (Ảnh ND-2006)

 

Về Kinh Bắc (1959-1960)

 

 

Mục lục

·        Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn – Tâm t́nh với bạn đọc talawas

·        Dâng

·        Nhịp một - Khấn nguyện

·        Nhịp hai - Kiếp trước

·        Nhịp ba – Rũ bụi gia phả

·        Nhịp bốn - Rồi cùng đi tất cả

·        Nhịp năm – C̣n em

·        Nhịp sáu - Điểm trang

·        Nhịp bảy - Rồi lại đi

·        Nhịp cuối - Về với ta

·        Xong cuộc tuần du

·        Vĩ thanh



Về Kinh Bắc bài nào cũng buồn
(Tâm t́nh với bạn đọc talawas)

Tập thơ Về Kinh Bắc (NXB Văn học 1994) không được nêu tên trong danh mục những tác phẩm được Giải thưởng của Nhà nước Việt Nam lần thứ V, nhưng trong các tập thơ Bên kia sông Đuống (NXB Văn hoá 1993), Lá Diêu bông (NXB Hội Nhà văn 1993), 99 t́nh khúc (NXB Văn học 1999) được nêu trong giải thưởng, có rất nhiều bài nằm trong bản thảo Về Kinh Bắc, trong đó có đủ những bài thơ chủ yếu bị quy kết là phản động hồi những năm đầu thập kỷ 1980 (“Cây tam cúc”, “Lá Diêu bông”, “Quả vườn ổi”…). Để bạn đọc có dịp đọc toàn bộ tập thơ đă trở thành một di sản văn hoá nước nhà trong bản chính thức của nó, chúng tôi đă đề nghị chính tác giả Hoàng Cầm cung cấp tài liệu. Nhà thơ đă vui vẻ nhận lời và nhân dịp này, có đôi lời tâm sự với bạn đọc.

talawas




Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đ́nh Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng th́ riêng tôi không phải đi lao động, (không biết v́ lư do ǵ mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt th́ đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát th́ tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần th́ tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn th́ dứt khoát là không được phép. Trong t́nh cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn ḿnh phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà ḿnh đă chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt th́ những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đ́nh Hưng, với sự "đỡ đầu" (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.

Riêng tôi, như đă nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ ch́m đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat [1] ), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xă Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào ḿnh nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đ́u hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, c̣n mẹ tôi th́ có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái băi rộng sau ga hát trống quân, c̣ lả…

Có lẽ v́ thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc ch́m trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Ḷ [2] bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy h́nh như đă là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, v́ Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi c̣n phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố th́ bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ "Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa" là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được.

Sau khi tôi ra tù, không ít bạn trách tôi v́ sao lại nhận tội như thế? Có phải là hèn quá chăng? Nhưng thực tế hoàn cảnh tôi trong tù rất khốn đốn, sau ba tháng là sức khoẻ suy sụp, nếu kéo dài thêm hai tháng nữa th́ có thể chết trong tù. V́ vậy, trước sức ép ngày đêm của những người công an thụ lư và những hứa hẹn của họ, tôi suy nghĩ: phải giữ cái mạng của ḿnh cái đă, phải tồn tại, phải sống, c̣n tác phẩm của ḿnh chẳng đi đâu mà mất, nó c̣n hay không là do nó, nó có giá trị th́ nó sẽ tồn tại. Cho nên tôi quyết định nhận tội. Khi tôi viết xong bản kiểm điểm (dài 6 trang giấy thếp th́ phải), anh công an thụ lư tên N. đọc ngay, và bảo "Tốt quá rồi!". Hôm sau, anh đem đến một cái cassette mới toanh, bảo tôi tự đọc bản kiểm điểm vào máy. Anh cẩn thận dặn tôi phải đọc hết sức tự nhiên, không phải như người bị ép buộc hoặc như đọc dictee [3] . Là một diễn viên kịch, tôi thừa sức để "diễn" theo đúng ư anh. Tôi muốn tỏ ra hết sức ngoan ngoăn, cốt để được về. Tôi vừa đọc xong, anh ta chồm dậy, bắt tay tôi rối rít và cảm ơn cảm ơn hai lần liền, sau đó cho người đi mua phở cho tôi ăn. Anh c̣n tuyên bố: "Chúng tôi sẽ đề nghị để Tết này anh được về". Tôi mừng quá, viết thư về cho bà Yến [4] báo tin vui. Thế là suốt những ngày gần Tết năm ấy tôi cứ khấp khởi đợi chờ. Sau này tôi biết bà Yến nhà tôi cũng trong tâm trạng ấy. Sáng 30 Tết bà bắt anh con rể mang xe đến chờ ở cổng Hoả Ḷ suốt từ sáng tới tối. Nhưng thực tế là tôi không được thả như lời hứa của công an mà ngay mồng 4 Tết th́ bị chuyển tới "xà lim bộ" [5] và tiếp tục bị giam, tổng cộng là 18 tháng.

V́ sao lại có chuyện thay đổi như thế? Có phải anh công an tên N. đă nói lừa tôi cốt để tôi nhận tội cho được việc của anh ta? Tôi cũng không rơ sự thực thế nào, cho đến một hôm sau khi đă ra tù, tôi t́nh cờ gặp một anh công an thụ lư khác (xin phép không nêu tên) ở quán bia Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Trông thấy tôi anh mừng lắm, anh mời tôi vào uống bia để tâm sự. Anh nói là anh đă ra khỏi ngành, và anh kể cho tôi một chuyện khá bất ngờ. Chuyện đại ư như sau: Sau khi tôi nhận tội, công an đă định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, th́ một hôm ông Lê Đức Thọ [6] gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đă giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng ǵ cụ thể th́ hăy thả ngay nhà thơ ra. Ông c̣n nhắc nhở: "Các cậu xem thế nào th́ giải quyết đi, không có th́ mang tiếng lắm". Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu [7] . Ông lập tức hạ lệnh: "Ngoại quốc can thiệp hả? Đă thế th́ cho thêm một năm nữa!"

Thái độ cứng rắn đến nghiệt ngă của Tố Hữu với riêng tôi cũng như với các anh em Nhân văn-Giai phẩm rất nhất quán. Ngay cả đối với những sáng tác mà anh em chúng tôi t́m lối mới vào cuối những năm 1950 nói trên, ông cũng rất ghét, mặc dù không biết ông có đọc hay không. Lại nói là sau khi bốn người chúng tôi bật ra được thứ thơ ấy, ai cũng măn nguyện v́ đă lộ rơ cốt cách từng người. Riêng tôi th́ ngay từ lúc viết xong Về Kinh Bắc, tôi đă tin là nó có giá trị, có đóng góp cho văn học nước nhà. Tuy tôi không dám truyền đi rộng răi, chỉ cho vài người bạn đọc, nhưng rồi nó được tự động lan truyền, đặc biệt có những bạn sinh viên trẻ say mê nó lạ lùng. Phải nói t́nh yêu đối với Về Kinh Bắc có cái ǵ đó rất đặc biệt. Tôi không tin là tập thơ dễ hiểu chút nào, đặc biết là phần Nhịp một với "những đêm ngũ hành" kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Ngay nhà thơ Lữ Huy Nguyên, cố giám đốc NXB Văn học, cũng thú thực với tôi rằng: "Em in cho anh th́ cứ in chứ nói thật là em chỉ hiểu được 1/4 tập thơ". Đến anh công an thụ lư N. sau khi tôi nhận tội cũng thú nhận: "Thực t́nh tôi chẳng hiểu anh nói ǵ, bây giờ anh khai ra tôi mới biết ư đồ chống Đảng của anh, th́ ra anh thâm thuư thật!"

Việc chúng tôi sáng tác những tác phẩm mới nhanh chóng được báo cáo với Tố Hữu. Một người bạn được tham dự buổi họp tuyên giáo mở rộng kể với tôi rằng trong cuộc họp Tố Hữu đă cảnh báo: "Tụi Trần Dần Hoàng Cầm… bây giờ đang thực hiện đúng khẩu hiệu phục xuống sáng tác mà Văn Cao đă khởi xướng. Phải canh chừng và dập tắt ngay."

Đây là lần đầu tiên tôi nói rơ một số chuyện liên quan đến Về Kinh Bắc, nói ra để khép lại những cái đau buồn ấu trĩ của một thời. Bây giờ, tôi xin các bạn thưởng thức nó vượt qua mọi bối cảnh chính trị xă hội, thưởng thức nó như một tác phẩm nghệ thuật mà đến hôm nay tôi vẫn thấy hài ḷng.

Hoàng Cầm






Dâng hương hồn mẹ
Ta con chim cu về gù dặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm

Ta ru em
lớn lên em đừng t́m Mẹ phía cơn mưa

*



Nhịp một - Khấn nguyện


Bưởi Nga My
sao mẹ bắt đèo ḅng


Đêm Thổ

Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông

Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách Môn đổ xô g̣ má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xoă ngủ
thoắt ch́m
Gấu đẩy đá Thiên Thai

Đi đâu

Tràng mày xếch ṿng cung
bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

Không gặp người quen
hờ
ngơ cũ

Đêm xuống
làm lầu hoang
Tṛ chuyện ǵ ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu

Bưởi Nga My sao mẹ bắt đèo ḅng


Đêm Kim

Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười
Con thoảng nhớ thoảng quên

H́nh nhân má điệp tóc mực tàu
Mắt nghiêng dựa liếp
Mai nhảy vào đám lửa giỗ đầu

Gấm Song Cầu khoác lại áo ngày xưa
Da trứng bóc
phủ bụi tàn nhang

Phía đông kéo cưa xẻ gỗ
Phía tây chầy nện ván thiên

Ông phó may già mười đêm chẳng ngủ
rũ xô gai biển động t́m kim

Kèn già lam ai tập thổi
Gió mất chồi xuân đay nghiến luỹ tre dầy
Năm ba gă trai tập bài lưu thuỷ
Một trẻ sơ sinh đuổi giọng mèo hoang
qua miếu mưa phùn

Giặc bên sông đă cắm cờ hạ trại

Mẹ đón con rung gậy mía Đường Trèo


Đêm Mộc

Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột ḷng tay

Tràng pháo ṛng thân cau mới bói
Tênh tênh chở đá Ba V́
Tiếc ǵ nhau nữa
Lứa ong bầu châm lửa gót chân

Cói Thanh ép mỏng
Bao giờ lim găy đá tan

Ngủ lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng nứt mạch tằm

Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
Súng lệnh gươm đao rậm rịch
Thua
lá màn lay
muỗi ngủ mê


Đêm Thuỷ

Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lư đợi tua rua

Chùa Phật Tích ruỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân

Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mơ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng rịt lá trường sinh

Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
ong bay vai áo tiểu thon ḿnh

Thập điện Diêm vương mở hội
trong mắt trẻ lên năm

Trưa hè găy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
Chuối chín cây đổ gục đứt dây b́m


Đêm Hoả

Về Kinh Bắc t́m chơi đàn kiến lửa
Ngón tay di sợi chỉ nâu

Mây nồi rang úp chụp đỉnh đầu
Giun đất ḷng tḥng mỏ con gà trụi
Vơng mắc cành hồng chạc ổi
Kiều khàn
dứt giọng nho sinh
... “buông mành...
... Con oanh học nói...”

Vợ xách giỏ cua đồng nghén nước
Hoa thui ngọn bí lông tơ
Đại hạn tháng ba
lá lúa rang châu chấu

Mải dỗ con
Mắt cua nghênh giă cảnh giă người
Càng hy vọng tủa lên trời đợi băo

Chiều cơm suông
Năm ngón tay lằn mông trẻ nhỏ

Trăng lên chém đầu ngọn gió
Cành si bưng chậu máu chát chao
Cuối năm ŕ rầm tiếng khóc
Chàng ôi ngựa tía vơng đào

Chợt mê thét giữa sân
Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng
Máu đổ
Mây đùn
Gió lộng

Sớm mai đi

*



Nhịp hai - Kiếp trước

Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử



Nắng phù sa

Người thơ kể

Ướm vết chân băi phù sa sông Đuống
Dựng tre làng Cháy
sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu

Chuột thành than
đen xạm dọc sông Hồng
Kẻ cướp run dưới Rạng-đông-thần-thoại

Người thơ kể

Thiên vương chẳng nói
Lúc gật đầu
vó ngựa đào ao hồ liên tiếp măi Đông Anh
Thiên vương chẳng nói
Lúc nghiêng tai
c̣ chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà
Hoa gạo các triền sông
giải lối Sóc Sơn bay

Người thơ kể

Thiên vương chẳng nói
Chân Mẹ c̣n đê mê cát mịn
Hội Gióng dong chiêng
Bé em về nằm khoanh ḷng mẹ
Nghe ngh́n muôn năm sau
xoa nắn đôi bầu vú lửa
Sông dài
Cát bỏng
Nắng hồng hoang [8]


Gió lông ngỗng

Lông ngỗng trải bờ lau
Sông Cầu xuôi bến Hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn

Chuỗi ngọc trai ai gửi lễ mừng
Vỏ ốc đổ bờ ao sờ sẫm tối

Bè lông ngỗng ngược sông Hồng mưa lũ
Cổ Loa cú rúc cḥi canh
Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử
I...i...m...m
ứ... !
I...i...m...m
ứ... !
Mất rồi
Mười bảy mười ba

An Dương Vương ôi
Bọt bể bồ ḥn



Sương Cầu Lim

Chấp chới lá chè non
Cầu Lim Nội Duệ
The Hà Đông đón kiệu
bỏ quê Xim

Ếch Quế Dương xếp đùi tṛn gơ trống
Sáo sậu Phù Ninh
rợp nắng
về Thăng Long

Đá nghển trông con
gục đầu sườn núi Dạm
Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền
Đè ngang khói bếp
bặt mùi khoai nướng
Đầu rau nằm sấp toạc môi

Trống Chờ thúc chín tiếng
Chuông Trơ nện ba hồi
Mơ Phù Lưu khua bến đ̣ Lo

Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo
Biết ḷng chim sáo chim ri

Gái Cầu Lim Nội Duệ đă đi


Khói Yên Thế

Ngựa Ô-truy lao cầu vồng Yên Thế
Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay
Ngựa Ô-truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề
Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ

Nhe răng cười

Trai Cầu Vồng Yên Thế đă đi

*




Nhịp ba - Rũ bụi gia phả


B́nh pha lê nghiêng rượu
liệm đêm tàn


Đèn nhang 1

Ông già thả gậy
bắc cầu phao vượt bến
bạc đầu lên núi thổi cơm chiều

Tay rẽ lá giở trang vàng diễm sử
Áo Hai Bà dăng mắc
rừng liên miên chi chít mộ Hùng Vương

Gia phả rũ bụi bay mịn chuốt Dó Vân
Cụ tổ mười lăm đời
Cùng ngửa mặt với Trần B́nh Trọng
nhận gươm phương bắc chém

Cụ tổ mười đời
lăn đá Chi Lăng
chẹn ngơ Đông Quan cứu viện
gơ ba hồi trống
tuyên giờ tuyệt mệnh Liễu Thăng

Cụ tổ chín đời
mở trang B́nh Ngô Đại Cáo
Nơi thôn xa ba chén chúc mừng
Chợt thấy mấy hài nhi khăn trắng
xẵng canh gà thét đuổi đêm đông

Ông tổ năm đời
cáo quan dưỡng bệnh
Tóc trắng bồng bênh trước án
Câu thơ chểnh mảng gối đầu tay
Tia hoàng hôn xuyên kẽ liếp
dở khóc dở cười
Đứa cháu đích tôn vừa qua cơn sốt cuối răng
Ngựa cố tri buộc ngoài ngơ trúc
Hũ rượu hoàng hoa
Hịch bốn trấn
Xé trang Luận Ngữ
lau gươm
lên đường

Đời cha tiến sĩ năm Nhâm Thân
Kéo quân về cửa khuyết
hỏi tội nghịch thần
mắt Chúa đảo thiên
kéo áo che ngai
né mũi kiếm vô h́nh xốc tới
Phanh hầm nhét vội một vầng dương

Cắn nhọn móng tay
Thơ cùm lim khắc máu

Chợt nghe tin giặc dữ
lấp sông san núi ùa sang
Vùng chặt xích bẻ gông
phá cửa
cướp ngựa H́nh Tham tri
phóng lên ải bắc
Dù nghẹn ngào thuốc độc tam ban
đă ngấm tuỷ xương từ chén rượu đêm qua


Đèn nhang 2

Dó lụa lật trang
sang chữ triện quan tài
Bóng người cô ruột
mây uốn hàng cau cúi ngó vành môi
Sông trôi xa c̣n ngoái về
xem gót chân uyển chuyển
Bao nhiêu núi đồi Kinh Bắc
dịch sườn thông sang xúm xít
quanh hàng mi
nắng đọng hồ trong

Một sớm đi làm vương hậu
Cười rũ cỏ hoa
rè tiếng trống chấp đ̣n khênh
Xà tích dấu đưa em
Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc

Nh́n mây về ngọn cau
Mái rạ thiu thiu

Đi
bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy
níu cuộng lá vàng qua trận băo

Phân kim hạ kiệu
khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân

Mấy chục nguyên tiêu
thời trân thưa thớt
Cơn trái nắng kén ǵ
đúng lúc quả đào rơi

Vua băng hà
Đời hậu tắt sao băng
Sợi tóc trắng quấn ṿng Khiêm lăng
chẳng dứt
Rêu lầy vầng trán thuở nào xưa cấy lúa
nghểnh xem diều tầng xanh đảo cánh
Đêm ngủ gối đầu cẩm thạch
Hồn ma đế bá cũng lang thang
đói khát t́nh thương

Đá Quảng Nam quen lệ ngh́n năm lấp sống
Đêm doang tay
mời vương hậu
ngủ chung giường

Chợt nghe tin giặc dữ tràn sang
Bàn tay quấn tóc khô
che mặt
về quê
Chết bên cây ngâu nḥm bể nước mưa đầy


Ngựa 1

Trấn Kinh Bắc vua nuôi đàn lính ngựa
Trăm trận đông đoài chập vút b́ tiên
cắt thịt chia da
Nhai cỏ úa lối ṃn đường quê chát đắng

Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ
ngửi hơi chồng quanh quất cửa đông nam
Dù gục khóc dưới chân thành
đă mất giải khăn đào hứng lệ
Người đổi kiếp ra mô đất xám
đắp thêm cho vững mái lầu hoa
chiều nổi cung đàn phỉ thuư
thong dong

Trận mạc vơng lưng Phiêu-kỵ-tướng-quân
phóng giữa Trường Sơn lớp lớp
san bằng đồi núi lô nhô
Vó sắt lún ba năm cỏ bồng chẳng mọc
Tiếng hí dài
ba lần triều đại đổi ngôi
Khoét thủng sáu lần nhung phục
Đập rập tám lọng vàng đô đốc
cha truyền con nối
đă xơ lơ

Bên cầu lếch thếch trẻ mồ côi
nhớ sữa mẹ gặp con ngựa út
bờm lông c̣n ướt
đă vểnh tai nghe động trống doanh lâu
nếp nếp áo chầu
ngă rạp
Chiến thư
dùng dắng
tử sinh

Ai gặp lúc tuổi măng háu đá
Óc ngu phu giám mă
chạm yên
đau rức xương hông
quằm gót
thốc ngang sườn quật thây tổng quản

Hỏng rồi
Chiến trường không dụng
Đeo thẻ bài nhà Chúa
ngẩn ngơ gặm cỏ
quanh quanh cửa bắc cửa đông

Nh́n tít mù xa khanh tướng
cờ bay bụi lốc
nghe tin về lái ngựa quận công
xiêm quận chúa tung rung kỳ ngộ

Tiếng hí khải hoàn ch́m lịm
B́nh pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn

Xương vụn kéo lên g̣ đống
Cháu bốn đời vỗ mả áp tai
nghe tràng đạc rộn hoang vu
c̣n thoảng khét mồ hôi
ngày huyết chiến năm Thân
Những Việp-Quận-công Bằng-lĩnh-hầu
đổ xuống bủng beo da thị rụng


Ngựa 2

Có một thời
Tin lửa đến giục thôn vàng ngái ngủ
Giặc tràn sang cỏ rạp ải quan rồi

Đàn lính ngựa vua nuôi
bỗng lừ đôi mắt mỏi
phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
áo nẹp vàng lên chín ngọn Hùng Sơn

Đường nắng bay từng đám hoả hoàng
san sát rừng gươm
Gia B́nh - Bạch Hạc
tràn lên thốc ngược cờ đốc đồng Kinh Bắc

Trước mặt cào cào rộn cánh
tốc xiêm y trăm sắc cung tần
Trên lưng nắng hạn xém yên cương
Dưới bụng dầm dề cỏ rướn ḿnh
uống nước mưa thổ hoàng bách chiến

Giặc cuồng vắt chân tháo chạy
Đầu lâu lăn lóc vó
vụn xương hàm cắm mốc biên thuỳ
tít tắp
từ Tiên Yên Hà Cối
đến Hà Giang dựng Cổng Giời xanh

Cũng từ thuở ấy
Cô gái quê thả tấm khăn điều
bay nối đường tre liền ngọn thác
bạc phau đổ xuống tự ṿm mây
Mắt ướt môi se không nức nở
Răng đen rưng rức
nghiến oán thù tím ngắt
nắng Phong Châu

Cũng từ thuở ấy
lính - ngựa vua nuôi gọi lính - người


Hội vật

Trống lớn Giảng Vơ đường
đội bổng ṿm trời cao vót
Gió thượng du dội lại
Mưa trung du thốc sang
Băo hạ du dồn vang

Ba hồi chiêng lảo đảo các toà lầu
cong mái đỏ quanh thành
Kỳ xí đêm qua ủ gió
sớm nay thả hết về nam
săn đàn mây ḅ mộng ngổn ngang

Loa khua nắng thét mời đô lực sĩ
Hiệp trấn rón hia lên đài khảo sát
Tuốt gươm trần trăm vệ sĩ
hai hàng tăm tắp vơ hoàng môn
Lệ ba năm nức ḷng ḍng vơ tướng
Vua kén người giỏi tiên phong
vật núi núi lăn
ngáng sông sông găy

Gái thường dân Kinh Bắc
t́m ai đây giỏi phận làm chồng
hai tay căng sợi chỉ
quỳ ba đêm không mảy động đường tơ

Các ngả đường bụi đùn lốc nổi
Thác người đổ qua cửa ngọ
Cờ xua hết mây đi
toà biếc lắng xem

Trống vẫn thúc
sạt sườn Tam Đảo đổ nghiêng
Loa vẫn rải
núi đồi trùng trùng đi bốn hướng
Chiêng lê thê sông Nhị
dăng dài băi mía bờ khoai đi
Một khắc cờ im gió đợi
Trai đô ùn đọng ngă tư thành

Ai từng buôn ngược bán xuôi
Chiều hoang rừng xế gặp hùm
liều thân cứu mạng
tránh hổ vồ học được miếng lèo đuôi

Ai xuống bể ṃ ngọc trai
tặng người yêu dấu
Né đuôi cá mập
bỗng nên tài dụng phép thúc sườn

Ai lên núi chặt ngà voi tiến cống
giỏi khoa vặn chệch hàm răng
Lại ḱa ai thuở bé thích trèo cây
giỏi môn vặn cổ

Ai vượt thác t́m vợ xưa tu chùa Yên Tử
tài ngậm hơi phồng bọng ễnh ương

Ai vào núi ba ngày ăn một hạt vừng khô
Chân nhái bén ngáng khoeo mất cựa

Lại ḱa ai quen trộm gà bà thím
Miếng nấn đùi trùng tuột các đường gân

Lại có ai từng quen tranh nhan đoạt sắc
tài dùng phép “Chiết yêu điểm huyệt”
C̣ bợ tháng tư mổ rút ruột voi già

Loa càng dóng dả
Vơ nghệ mười phương
hồi hộp bắc đồng cân

Đây Tổng Dong Vơ Giàng vào trước nhất
Nhiễu xanh vắt hông
Cử vạc ba trăm cân
nước đầy
không sóng sánh

Rồi Bá Ngạc Tiên Du
Tư Đang Yên Dũng
Bóp tay vỡ toác đốt tre ngà
nghiêng ḿnh thi lễ
Mắt trầm tư ngó vội khảo đài
mấy giải hồng y phơ phất phấn vua bay

Kia Bảy Ḱnh khét tiếng Yên Phong
gạt dóng tre ngà
cầm tấm mía nhai ṛn

thổi bă ngất trời bụi trắng

Đến Ba Ngư Siêu Loại
trề môi khinh vạc lớn
đứng tấn đại bàng
lay voi đá cửa dinh
nhấc bổng
diễu hai [9] ṿng băi rộng

Phong ba động biển reo ḥ

Gái nhà quan bố nuông
cho giữ dịp
bỗng để rơi dùi trống
nín hơi nghe rần rật
băo liên hồi
trong búp lá măng tơ

Hồi cồng buông trấn lệnh
Từng đôi vào
sư tử vờn quanh
Lên điệu "Bạch hầu đoạt trái"
Sang điệu "Hồng hạc tề phi"

Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
Nhiều nho sĩ bút gài tai nghển ngó
ḷng run nghiêng thời vận Tŕnh Chu

Thùng thùng trống chuyển nhịp tơi bời
Nhiễu đỏ bên trái lên
Nhiễu xanh bên phải xuống
Nhoè bụi cuốn
Cột đồng dựng
Núi đá mọc
Ngón chân cày đất ba gang
Vạt cỏ đuôi gà bật rễ

Đất vơ đài nhô lên lơm xuống
Cḥng chành vạn chiếc mắt thuyền
Cờ xoay hướng chỉ lên tây bắc
Vảy tê tê gạt gió
xô về xem cuộc giao phong

Đă vào trận léo tay tư
Chùm trống rụng ră rời từng quả mơm
Ôi thôi
Bá Ngạc cắn môi vít gót
Bảy Ḱnh nhắm mắt xuống ḅ
Ba Ngư bạnh quai hàm chơi miếng hiểm
Tổng Dong nghiến răng ken két
giật ngang mạng mỡ
Tử sinh là lúc này đây
Phẩm tước tay vua khua lủng lẳng

Cồng chiêng thoi thóp
Dựng giăng chưa dứt miếng kỳ phùng

Đốt hồng lạp hai hàng cột cháy
ánh lửa loáng lưng g̣ cật thắt
Mồ hôi người máu nến
rụng song song

Rạng đông
Người toàn thắng bước ra
ức vạn người xem khiếp sợ
Cuộc tàn tản mác cát ḷng sông

Đô nhất là ai
quê vùng đâu đó
Vươn tay chạm giời
Tóc hất sao mai
quỳ xuống
vọng về cửa khuyết
lạy hai lạy
Lưng vàng rạp cỏ

Nàng chấm thi khép mắt ngoảnh đi
kén được một người
nụ cười chếch đôi mắt lạ
vồn vă đến
thong dong thua
rồi lửng lơ đi

Vua kén đủ mười hai đô uư
Triệu về kinh ban yến năm đêm
Giọt rượu hồng hoen bố tử

Nâng ngự tửu xuống án răi thây trăm họ
Một lời khảng khái tung hô

Mai sớm kéo quân đi
ngh́n dặm lấn thành xa
Khúc quân thiều c̣n múa lượn
vành tai sương cóng

Chiều tím bặt sa trường màu giun chết
Thân mười thước đổ ngang rụng ngửa
phơi mồi quạ xúm đen ng̣m
Bắp thịt đường gân ngày thí vơ hôm xưa
thoắt đă bầy nhầy phân ngựa

Đêm vàng Kinh Bắc
Thuyền ngự đè sen chồm sóng rượu
Phi tần dâng hoa ngoài Thuỷ tinh cung


Lính thú

Lá cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ
Mười lần khấn gửi nước về xuôi

Lính thú đèo Mây
vươn tay chém nứa
xọc ngang sườn
Gục bên khe Vân tuyền nước đọng

Rừng khô thoảng động gót chân người
quẩy gạo thăm chồng đồn thú đèo Mây

Cô hàng xóm cũ ở riêng
Lạt cánh sen buộc nem lá chuối
cũng gửi quà xưa hội tháng giêng

Góc tuần trăng chưa vợi mặt sông
Đ̣n gánh đă theo củi giạt
Thúng Nha Kiều nghe nghé mắt xuôi
Cụm tóc lá sung lạt mở
Bến về nghe sợi đập làng xanh

Thôn cũ
đầu sân guốc chiếc nằm nghiêng
Cung quăng đo thân cau
vại nước lưng chừng
Đuôi nắng quệt ngang cành ớt

Lưng trâu mười tuổi ngủ đồng xa


[1]Bằng tiểu học (Certificat d'études primaires) – Chú thích trong bài của talawas
[2]Trại giam của Pháp ở phố Hoả Ḷ, mang tên Maison Centrale, sau này là trại tạm giam của công an Hà Nội cho đến cuối thập kỷ 1990. Tác giả bị bắt vào đây ngày 20/8/1982 sau khi công an phát hiện có "âm mưu" tuồn bản thảo Về Kinh Bắc ra nước ngoài.
[3]Chính tả (các chú thích đều của talawas)
[4]Bà Lê Hoàng Yến, vợ tác giả
[5]Trung tâm thẩm vấn của Bộ Công an ở ngoại thành Hà Nội.
[6]Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lúc ấy.
[7]Lúc đó là Phó Thủ tướng thường trực, đồng thời vẫn là người lănh đạo về văn hoá tư tưởng.
[8]Dị bản: Sông dài sóng đôi/ Mượt mà g̣ nổi/ Cánh rừng rưng rưng say/ Hồng hoang hương ấm mấy chân trời (bản in ở NXB Văn học 1994)
[9]Bản của NXB Văn học 1994: "diễu năm ṿng"

Nguồn: Văn bản sử dụng cho tập Hoàng Cầm-Tác phẩm-Thơ do NXB Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2002. Những chỗ khảo dị trong phần chú thích của talawas dựa trên đối chiếu với bản Về Kinh Bắc của NXB Văn học 1994.

 

 

Nhịp bốn - Rồi cùng đi tất cả


Những cuộc dọn nhà
tuần du trang sử rách



Trai đời Trần

Các con trai đi cả
Nợ nước xoá ơn vua

Một đứa cắn đứt dây buồm
thuyền giặc đang xô bờ Hàm Tử

Một đứa theo lốt chân hươu chạy
xục bóng thù găy nát rừng Tuyên

Một đứa cưỡi cá voi quá đảo Cô Tô
lùng mạch sóng đoạt lương
ngh́n hộc thóc

Một đứa ngâm thơ đàn gảy Vũ Hầu
Hổ báo cúp đuôi lè lưỡi máu
lê thê từng vệt đến Yên Kinh

Riêng một đứa gánh đôi bồ xiêm áo
t́m ẩn nẻo Chí Linh
gặp mũi tên lạc gió
chết trong xó núi
vợ không kịp chôn chồng
lại lơng thơng đôi bồ chạy giạt

C̣n đứa cuối cùng mười bốn tuổi
gói rau xam rau má
ruộng nhà chấm muối
Côn Vơ Ṭng thẳng tới miệng beo gầm


Gái Hậu Lê

Dây lạc tiên vắt qua tường đổ
đuôi cằn nắng xế ngựa lưu ly

Sợi tóc ba ngh́n dặm
Ôi giải xiêm đào ngày tuyển lựa hoàng phi

Một nắm cơm khô rạn túi gương tàu
dùng dắng bẻ đôi chiều nắng quái

Sét đánh phía kinh kỳ
biến mất Vọng Tiên lâu

Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát
cô gái điên
ôm xác chồng
lội đồng chiêm

Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa
ném xuống cầu em cởi áo chiều xưaH

Hoàng phi bện dây đay chằng lụa thủng
Từng đêm vuốt bụng
nổi vết bào thai
Khóc âm y trước lúc ra đời


Đứa trẻ

Mẹ đắp vai con mảnh chăn rách
Bụi dứa dại đầu bờ rẽ lối
Thôi con về ở với cha

Con về
giấu giếm những bàn tay
nâng vú
so đũa
lau mắt
phơi dây áo thềm sân

Bố chặt cây sung cây khế
cắm mía mía không lên
nắng bừng lùm ớt chỉ thiên
ai trồng mà mọc

Đến một ngày nhà đông khách
khen con ngoan
(... con ngoan !)
Kiến mở cờ trên mẹt đường phên
Gấc đỏ mặt ngoài vườn
Gặt non nếp dự

Con trẻ tung tăng nhà đám
nấp chân cây rơm
dùi xe điếu
trợn mắt
thổi căng tṛn bong bóng lợn

Cười nô ngoài ngơ
nhận chị nhận em
nhận thêm chú bác ông bà
những người đâu ta
(...đâu xa...)

Thoáng đă chiều hôm thảng thốt
Lạnh so vai
dựa cột
Cầm ủ ấm ấp hai con mắt
Hơi mẹ ơ hờ chỏm tóc tơ

Đêm được nằm mẹ gối đầu tay
Tiếng ai rả rích chuyện ǵ khuya
chợt tỉnh
... mắt dùi bóng tối

... À...ơi...
Câu ru mẹ mới
Có bàn tay vỗ tóc...
... ngủ đi con

Con t́m những thứ được rồi đây
Áo bông đón rét có
Áo lụa sang hè có
Mẹ mới may
Ướm áo t́m đâu

Gọi mẹ bao giờ mẹ cũng thưa
Giọng bưởi đường
Không thấy tiếng
Cha dấm dúi cho con
đồng xèng mua kẹo
đồng xu bánh dẻo

T́m trong lá bánh thấy ǵ
Mắt mẹ ơ hờ thoảng bóng mi

Con nghịch cha không mắng
Mẹ gọi về chia miếng bánh đa
Ngày tha hồ đánh khăng đánh đáo
Tối về lăn lóc ngủ
nói mê
chim ǵ bay

Con tắm ao lội ng̣i
tồng ngồng đi t́m hoa dại
không chết đuối không ai hay
Không lạc nhà
mẹ vẫn phần cơm đây

Có hôm cả nhà sắm sanh áo mới
đi cỗ giỗ bên sông
Có giỗ bên sông chừng mưa xa
phập phồng bong bóng
con ở lại coi nhà

Mẹ đă vuốt mép trầu giục giă
Hạ cổng chống rồi
Cánh sẻ chợt bay vù mái bếp
Ngồi giữa sân xua xua đàn kiến chỉ
kéo đông ng̣m ăn giỗ mẹt khoai lang

Mẹ ơi
Mẹ ơi
Con không mong giời mưa
(mưa không thả được diều)
bây giờ mẹ ở đâu

Đêm khoanh tṛn ngủ tay bưng đầu
Ngón cụt thói quen rờ ngực yếm
gh́ mảnh sành thia lia


Người không về

Én bay đi không hướng t́m xuân
Lá ngọt hết rồi
cỏ chát cứ [1] phân vân
muốn nuôi người c̣n sợ đau dạ người

Rêu xoá vết chân bạn cũ
Chè tươi cáu miệng bát đàn

Về ngóng tiếng em thơ
bé dại đi rồi
sân lặng

Về ngóng cô nàng xưa cắn chắt
cười lia dăm hạt cốm
Giờ đă nằm sương giậu lả tầm xuân
Răng nghiến [2] chặt nắm cỏ gà phơ phất ngọn

Ngựa trạm hí ngoài dinh hiệp lộ

Gài lá thư nổi nênh cửa Thần Phù sập băo
gửi đến miệng em theo cánh én thuỷ triều
Gió lật trang thư lầm cát đỏ đường quê

Ḿnh ơi
"Anh đi lúa chửa chia vè..."


Đi xa

Nắng gấm Ba V́ phủ khắp Lục Đầu giang
Mồ hôi đá Tam Thanh gói lụa sông Hồng
Mắt sư nữ chùa Thầy
thoắt mang màu xanh xứ Lạng
Tay búp măng người yểu điệu Thăng Long
nâng một dăy Cai Kinh chạy tắp đến Cao Bằng

Vạt áo chàm ṿng bạc
sương muối đầu năm
Nùng Văn Vân gọi trâu Tây Hồ thức giấc
đi gơ mơ Hưng Yên
rủ Chử Đồng lên Đồng Đăng ngả gỗ

"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa"...
Hỡi ơi Tô Thị
bế con về quê xưa

Rồi vào xuân mọi ngả
Núi xuân nghiêng đầu
Sông xuân vừa chợp mắt
đă gọi đ̣ Tú Xương
canh tư canh năm
sang bên này tát nước ruộng Xuân Hương


Đi măi

Đă đi cả
Những củ khoai mọc mậm góc nhà
Hạt vải gậm giường
phát du từ mùa tu hú trước

Những chùm tóc ngô nâu gác bếp
Khói vỗ về luống đợi lửa rang

Những hạt đậu xanh già nắng
óng mùa thơm
trút nhanh tuổi trẻ miệng ṿ

Những bồ thóc tám
đong từng đấu nắng ngập ngừng xay

Vợi hết mùa đông rụi lửa
Những khúc sắn lùi vàng đọng
màu da suối cạn Vơ Nhai

Đă đi cả
Cơi trầu chạm ngơ
cau tứ th́ long hạt thâm quầng
Vại cà váng mốc
bàn tay khua xạm nhẫn trao duyên

Nồi cám lợn kê vàng khê khét
Mắt bần thần tơ mơ dựng rạp

Cối giă treo dây chăo nát
tay nhầm nắm phải bàn tay

Cối xay đay tiếng than dài
xoáy thân ốc vặn

Đă đi cả
Đường kiến chân rêu có nghe dế gọi
hẳn là con dế đầu si

Ong rưng rưng bay đứng nắng mai
hoa mướp rơi đầy cổng ngơ

Tổ chích choè cây mít
tiếng chân truyền kẽ lá phân vân

Triền miên đêm hè
diều sáo lửng lơ
tiếng nói xa xưa
cùng ai chẳng nói
Đă đi rồi

Những cuộc dọn nhà
tuần du trang sử rách

vương quên mái tóc
sợi tơ trời
óng ánh mạng sương thu

*



Nhịp năm - C̣n em


Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá


Cây Tam cúc

Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
trầu cay má đỏ
kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài t́m hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương th́

Đứa được
chinh chuyền xủng xoẻng
Đứa thua
đáo gỡ ngoài thềm
Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giă
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
thả tịnh vàng cưới Chị
vơng mây trôi

Em đứng nh́n theo Em gọi đôi [3]


Lá Diêu bông

Váy Đ́nh Bảng buông chùng cửa vơng
Chị thẩn thơ đi t́m
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
Đứa nào t́m được lá Diêu bông
từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em t́m thấy lá
Chị chau mày
đâu phải lá Diêu bông

Mùa đông sau Em t́m thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng văn bên sông

Ngày cưới Chị
Em t́m thấy lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em t́m thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nh́n

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!


Quả vườn ổi


Nằm trên băi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có ḍng có lái
Trách ǵ ai xô giạt đến bờ hoang


Em mười hai tuổi t́m theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi...
Ngày tháng lụi t́m không thấy
Giải yếm ḷng chai mải phất cờ

Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
- Xin Chị một quả chín
- Quả chín quá tầm tay
- Xin Chị một quả ương
- Quả ương chim khoét thủng

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng


Cỏ Bồng thi

Chị đưa Em đến bến này
cheo leo mỏm đá

Trước vực
Sau khe
Tḥng lọng tơ ǵ quấn gót
Tua khăn buông c̣n buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi
Em vọng ai đâu mà hoá đá

Không trói mà không đi
không canh gà
không thu không
Mắt không mở
đừng khép
Ḱa dây muống dại kín Em rồi

Lắc đầu hoa tím rụng
ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn
Biết rồi
Thôi
nghe hoa tím hát

Ngày mười bảy tuổi
chót chơi đố cỏ Bồng thi
Cỏ Bồng thi phải cheo leo mỏm đá

Ù ù gió thổi
Không canh gà
Không thu không


Nước sông Thương

Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương
Mắt tṛn cối xay
có bao giờ ngủ trước sao Mai

Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
mất chân đi
má đội tổ ṭ ṿ
Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao

Ngày Chị bảo Em quên
Con bạc má lại về cành chanh
thương Em hay giận Em chả biết

Ngày Chị bảo Em quên
Tắm sông Thương không mát
Lên ngọn Kỳ Cùng té nước trao duyên
không mát
Về đuôi mắt xưa treo suối Cam Lồ
không mát
Ngày Chị bảo Em quên
Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ

Tha cho Em
Tha Em
"Sông Thương nước chảy đôi ḍng..."

Hết năm phương
Em nh́n năm hướng
Là mười phương
Chị biết C̉N EM


Tắm đêm

Em gánh gạo về dinh phú hộ
Nứt vai thành sẹo lá lan đao

Em chở nứa sang bờ duyên phận
Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh
Tuổi đă rách vá ǵ cho kịp
Da mỡ đông tuốt sẹo ngang thân

Tung toé dội gầu trăng nước giếng
mát lùa kẽ tóc
C̣n bủn rủn sẹo ngang sẹo dọc
Vắt áo nghe thầm tiếng vải kêu

Ḍng dây vục măi đêm hồ tinh
Ấp vú ḿnh trần con dế trũi

Cành tre trải áo nép thân h́nh
Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi

Ai ŕnh Em
Ai ngó Em
Chợt rùng ḿnh níu đêm trần trụi
Gai đâm xiên mười ngón ân t́nh


Đếm sao

Mài cạnh mảnh gương mới vỡ
đến bao giờ tṛn
Đừng cứa tay ḿnh câu hát ơi

Một tiếng buông khoan giữa nhịp
v́ chơi với điệu lúc tàn trăng
Ai ngờ để ḷng Em muối đổ
Đông đoài đuổi măi sao Hôm

Một thoáng gật đầu
Giữa trời găy cánh
Nửa mắt nh́n chênh
Giếng cạn mùa mưa

Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
...........................

Đếm chưa xong Em chớ gật đầu

Câu hát theo người leo ngọn thác


Đếm nắng

Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng

Tiếng ǵ dưới ấy
có phải tiếng vang

T́m tiếng vang ḿnh
Chui vào cửa hẹp
cửa khép

Trách ǵ ai sáo trúc gây mê
Trách ǵ ai cặm cụi vót tre
đan lồng vàng tía
ngỡ trời mây trăm sắc ước ao

Chị bỏ Em đi
Cánh nhẹ trên sông
Chiếc lá mơ rừng
hát lừng ngọn gió
khóc đỏ chiều quê

Nhớ về mắt Em
ới thương là thương

Động gót mưa xuân
cưới mặt trời hè
Ới thương là thương
Gà con nhớ mẹ
cỏ vàng rung chân
Ới thương là thương


Đếm giờ

May cho Em tấm áo sồi non
Làng không mở hội
Cất cho Em hương quế nước trầm
thẫm đường má răn

Chim vàng phải tên dưới bụng
giận ḿnh bay quá cao
Bướm ngũ sắc ră rời tay trẻ xé
trách ḿnh quá lộng nắng tàn xuân

Trốn tiếng Chị cười
Nấp mắt Em trông
Trèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo
mát chân rời rợi

Đừng ví thân Em hạt gạo tám xoan
Đừng vẽ h́nh Em hoa đào hoa lư
Đừng hát t́nh Em sóng vỗ mưa về
Đừng tạc mặt Em lệch mái thuỳ cung

Đợi sau khi Em qua đời
Sẻ đồng thành phượng núi

Cây đa đường xứ
lớn lên ai hay
Vẫn cơn gió cũ
bao nhiêu chiều vụn đá

Mắt nắng thay mùa mở lộc non


Theo đuổi

Em ơi thử đếm mấy giêng hai
Đêm hội Lim về
đê quai rảo bước
Đuổi tà lụa nhạt
ánh giăng đầm thấm đường sương

Ấy bởi thương Em
vườn khô bỏ ngỏ
gió vào ra bưởi trụi hồng thui
ấy bởi thương Em
mái nhà um cỏ
chim vào ra vách đứng cột ngồi

Em về đồng chiêm đất rạn chân chim
Em đi mưa ngâu nước ngập đồi chè
Hồ nghe đêm hội ới a
lại xót mắt Em mi trường khép bóng
Ḷng tay êm mát rừng tơ xa
Lại xót tay Em đêm trường ru vơng
Rừng chân mây chưa động sấm quê nhà

Chân Em dài đi không biết mỏi
Má hồng Em lại nổi
đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào Em đợi
Đào giếng sâu rồi
đừng lấp vội ngày xanh

Lư lư ơi khát khô cháy giọng
T́nh t́nh ơi chớ động mành thưa

Ch́a vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ...
... hở Em

*



Nhịp sáu - Điểm trang


Những Hội hè Kinh Bắc


Những hội hè Kinh Bắc
có thi nhau giật giải pháo toàn hồng


Thi sợi bún

Thi sợi bún
khi quất
quấn năm ṿng cột đ́nh
không đứt

Giă bột mười đêm
Pháo nổ không nâng hai hàng mi mọng
Mai về vỡ vại long chầy
đứt quăng hoa niên

Mai về lại dựng giường dựng chiếu
lúc dựng giăng
Tóc quấn cột nhà
Con trăn đen thoi thóp

Ơi đêm Đông Hồ
nát nhầu thân tố nữ
Sợi bún ngà vá lại dung nhan


Thi ăn mía thổi cơm

Thi ăn mía thổi cơm
Bụng đâu chứa hết những băi sông xanh ngắt
Lửa đâu xém cánh tay bột nặn
Cháy phù sa ngọt sắc Yên Viên

Cơm vừa chín tới
Má xuân hồng
lồng khói tím
lịm [4] sang thu

Băi mía sông Cầu reo đáy bát
Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa


Thi đánh đu

Luồn tay ôm say
giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh


Thi hát đúm

Chiếc pháo x́ loay hoay
thềm gạch vỡ Bát Tràng
Chuỗi pháo đùng thèm bay
bùng giấy đỏ liều thân
Lụa xé đôi tay
bến nhức gan tằm

Người bỏ chồng vào thi hát đúm [5]
chệnh choạng lối mưa
nón quai thao úp bụng

Người chồng bỏ cũng thi hát đúm
gót chân bùn ngơ tối
tuổi lội
lầy đường mới sống trâu [6]

Trăng khuya các bờ sông
Chụm sao mai soi hai mái đầu [7]


Thi dệt vải

Ḷng Em phau phau
t́m đâu mấu sợi
Một tấm trường giang
đèn rọi vơ vàng
Thoi chim khách đếm năm đi vút
Vải gột hồ hai má gột môi hoang


Thi thêu gấm

Từ thuở bé biết đâu
chim uyên chim thuư
Kim se dây mà rẽ thuư chia uyên

Một mái rạ vàng ấm Châu Long Dương Lễ
Ngơ ngẩn đường khâu áo lạnh Lưu B́nh

Ai luồn kim giải áo dở dang mơ [8]
Chàng Lưu ứa nước mắt
bước ra thềm hong mưa


Hội chen Nga Hoàng

Chen Nga Hoàng
len chèn nguyệt tận
Phụt nửa đêm đèn nến lặn
Ba hồi trống giăi dầm dề
lim dim bao dong ba ngh́n mắt Phật

Tóc tung t́nh bờ xôi ruộng mật
Quanh co toả bốn hướng đ́nh
Từng ngôi sao mắt người lung linh
Ai gọi... im ĺm
Í ới... sao ch́m
Đôi đôi ú tim... t́m
Oà ập... cánh chim... e ấp

Hỗn mang mê vô cùng
Địa đàng say tới tấp
Không giờ không
Thăm thẳm nguyện cầu hơi em nồng

Nhẩn nha thôi
Ôi dùi nhẹ buông tênh... tang vờ câm
Ai nện xin thương ngầm
gơ hờ đôi ba tiếng cuối buồn vang âm
V́ tay ải tay ai
chưa nguôi tê mê thầm

Chợt bừng ngh́n cây nến đỏ
như sững sờ ngh́n tội
biết lội về đâu
cho qua cơn thịnh nộ sầu
cụ Tiên chỉ già tuổi t́nh cạn kiệt
tóc héo bưng đầu
lùi lũi tiếc thời xa
khua gậy cùn rập mấy thời sau
Tơ xanh ngây ngây đêm sông Cầu
Em anh giờ lẩn trốn bụi bờ đâu

Th́ trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim ư găy rồi
Giường nhung ừ sóng đôi

Sân đ́nh
lại Thị Mầu í a tung t́nh
rung rinh
chờ [9]


Hội Gióng


Mùng Tám tháng Tư
Không về hội Gióng
cũng hư mất đời
(Ca dao)


Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng băi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi

Chú bé lên ba là tướng vơ nhà Giời
Ai ngờ đă bốn ngh́n năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây


Hội Long Khám

Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô

Thiện nam vin khói đi quanh chùa
Mơ Từ Thức
gặp ngay quan huyện khác [10]

Mẫu đơn một nhành rơi
Ngọc lan mười búp chắp
Nến tắt sao không tắt
Giải Ngân hà giải chiếu nâng hoa

Hội văn rồi quan huyện về nhà
Quan-huyện-khác lại làm Từ Thức

Ni cô ơi


Hội Vân Hà

Lợn ba trăm cân
kềnh xuân lún ngơ

Khói bếp lun phun mưa
Mép chàng trai lún phún đương th́

Tết Vân Hà làng mở hội thi
Núc ních từng đôi chật đường nghẽn lối

Cỗ ba tầng
Gị lụa nổi
Gị mỡ ch́m
Nem bối rối
Lá sung bay rụng đầy nong

Vại bỗng ngất ngư cười cải mả
Bát bỗng lim dim
t́m mắt gái muộn chồng
Sân một sào xôn xao
sồi lụa thưởng [11]
Mười lợn thi đi chật cổng đ́nh cong

Đêm phường chèo trống giục
vùi lấp nồi niêu [12]
Hồi tiếu cùng eng éc
Khúc giáo đầu bi tráng lợn nhà kêu
Ba ngày tiếng dao phay liếc nhanh thành vại
Ba đêm chim lợn toác sương gieo

Chai đại lăn kềnh giữa chiếu
Chai bố chéo khoeo
vật vă góc ban thờ

Chai con gậm giường rụt cổ
Tuư luư mềm soải tóc khóc ngu ngơ

Hội tàn men
quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
Bỗng đốp chát mắt đom đóm nổ
Mịt mù hơi rượu miếu cô Mau.


Hội đền tám Vua triều Lư

Hội đền tám-Vua-triều-Lư
c̣n đau thớ gỗ phượng rồng
chen chúc khoảng trời thương nhớ
tạnh thời gian

Tám tượng ngồi mê tà khói mỏng
để thạch sùng vào bụng rỗng
chép miệng vàng son ngút khói tan

Đôi lính Chiêm Thành canh cửa Việt
Quê hương quê hương xa không về

Tù binh gửi máu vào tay chạm
Đứng cửa c̣n trông thấy đất Chàm
Bát đế ngoái nh́n trang sử ố
Ngh́n năm sao chẳng tuyệt ṇi tham [13]

Giá như tế lễ uy linh thế
Được tái sinh nhiều đấng minh quân
Hẳn Công Uẩn đă tâu Thượng đế
Treo trống hồn vua lắng tiếng dân [14]

Hỡi ơi Chiêu Thánh sao không nói
Người ta lo dựng nghiệp lâu dài
Ai lo việc cưới chồng công chúa mồ côi
Ví như không có Trần Thủ Độ
Mắt dại Vua Bà biết chọn ai
Quân cờ chí chát đêm Kinh Bắc
Mấy ngón tay tính nước vào ra
vân vê nhẵn nhụi cạnh ngà
tṛn lăn cung cấm trẻ con chơi


[1]Bản của NXB Văn học năm 1994: "lá đắng lại phân vân"
[2]Bản VH 94: "Răng cắn chặt…"
[3]Dị bản: C̣n có một câu kết khác (đă truyền tụng phổ biến): "Một chiếc xe đen đi chân trời". Tác giả phân vân. Xin tuỳ ḷng bạn đọc.
[4]Bản Văn học 94: "Chợt sang thu"
[5]Bản VH 94: "Người bỏ chồng/ chệnh choạng đi lối mưa/ nón quai thao úp bụng"
[6]Bản VH 94: "Người chồng bỏ/ gót chân bùn ngơ tối/ tuổi lầy đường sống trâu"
[7]Bản VH 94: "Thường soi đôi mái đầu"
[8]Bản VH 94: "Dừng mũi kim giải áo buộc đêm mơ"
[9]Bản VH 94 ngắn hơn rất nhiều:
Chen Nga Hoàng hội chen nguyệt tận
Đúng nửa đêm đèn tắt
trong ba hồi trống dầm dề
Nhẩn nha thôi ôi tiếng cuối vang âm
Tay không rời tay người chưa nguôi tê mê thầm
Chợt bừng ngh́n cây nến đỏ
Sững sờ ngh́n tội nắm tay đau
Th́ trói cả đôi
Xin trói cả đời
Cột lim găy rồi
Giường nhung sóng đôi
[10]Bản VH 94: "thấy ngay quan huyện khác"
[11]Bản VH 94: "vàng lụa thưởng"
[12]Bản VH 94: "vùi lấp điệu nồi niêu"
[13]Bản VH 94: "Bát đế tù binh trong sử xanh/ Khép gió chân trời ngồi lặng tênh"
[14]Bản VH 94 không có bốn câu trên

Nguồn: Văn bản sử dụng cho tập Hoàng Cầm-Tác phẩm-Thơ do NXB Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2002. Những chỗ khảo dị trong phần chú thích của talawas dựa trên đối chiếu với bản Về Kinh Bắc của NXB Văn học 1994.

 

 

Nhịp bảy - Rồi lại đi


Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng


Luân hồi

Con đấy ư
con đă về Kinh Bắc
Những cỏ Bồng Thi
với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
với đôi xe hồng
luân lưu thụ thai qua chín đời
đằng đẵng
đến khi con lọt ḷng

Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
đội mũ niêu đen
đi trong đêm mưa dầm
Mẹ đau trở dạ

Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
báo hiệu cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
ngăn trận băo bao la
trong giọt lệ cuối hàng mi

Con đấy ư
mười ngày không khóc
mười thày lang dờ dẫm
ven giường ẩm ướt
mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước “sắp qua cầu" nghẹn tiếng


Đợi mùa

Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ
Dẫy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng kẻ ăn mày đă quăng sau núi
hàng tre nhả yếm
trả mẹ về
lều dột mưa đêm

Th́ Chị đi mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi mai tu hú gọi [1]

Như không có Mẹ từ năm biết gọi gà
chiêm chiếp xó nhà mưa mọt
xanh ǵ chỏm tóc lên ba

Khi cọc cầu ao dứ mắt chuồn chuồn
buồn ngủ ră rời cánh mỏng
Em đi măi những đường làng ngơ ngắt
nhặt lá đa đan mũ Chiêu Quân
hát vẩn vơ lời sẩm chợ
Gậy mù ngửi hơi đường lạ
bóng cây rợp mát lưng gù
Chiều lá dứa tít mù chong chóng
Gió mát này Mẹ quạt
từ chênh chếch nẻo tàn trăng

Có cô láng giềng trái đào vắt vẻo
hỏi đằng ấy đi đâu
Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng [2]
cài tóc Chị sênh tiền gơ nhịp
đánh bồng trên mái đ́nh cong
Em bước vào đ́nh
ôm cột mấy người ôm
Em rẽ sang chùa
lay chân hộ pháp
Sau chùa tát đêm một chạp
Gầu giai ai vớt Chị ơi
loà loă thân trăng

Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non

Cắm bốn que tăm
Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo
Phần Mẹ khúc đuôi tṛn
Phần Chị nửa ḿnh thon
Phần Em hai chân ngơ ngác
Tăm cắm chật b́nh hương
Em xuưt xoa tập khấn
Chắp tay nh́n nghẽn ngh́n phương

Có hôm Em lần xuống bếp
Cậy cháy sành vỡ toác trôn niêu
Một con mèo mướp ruỗi chân chiều
Lưỡi gió liếm gio vờn tóc rụng

Tưởng như Mẹ về
Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa

Tưởng như Chị về
Tóc óng đêm xưa giờ tua túa rễ tre [3]

Bao giờ Chị về
tóc phủ vai Em chiều hương nhu

Bao giờ Mẹ về
buộc yếm đào phai vỗ hát ru

Khấn thầm như gặp Chị
mắt nứa cứa tay Em
vẫy đón đầu làng
Khấn thầm như Mẹ lỡ đ̣ ngang
miệng hé hạt na nhoà bến vắng
cổ tay tṛn đẫn mía gie

Không
Bầu Mẹ không tṛn
Bưởi Chị chưa hoa

Đă hết năm tu hú gọi rừng già
Đă sang mùa
Tu hú ngủ rừng xa


Quà mẹ

Quà gửi con
chùm nhăn Hưng Yên
Đừng gặm hết ngày thơ trẻ

Nửa đêm
Thuyền thúng đồng chiêm
đi t́m hướng làng xa
Ngọn cây đa trang hoàng khúc múa
đàn cá song lơ lửng tự t́nh
ổ sáo đen mái chèo khua vỡ trứng
Gà lên chuồng chuông động b́nh minh

Đi t́m con bướm bạc đầu
Liếc qua hoa nhài nhuộm nâu
Đi t́m tóc rối đổi kẹo
Cụm tóc hờn ghen cài kẽ liếp
Lược bóng gương trong
Sợi tóc kéo mùa xuân
ĺa bỏ băi làng

Đi t́m đôi ếch cơng mưa rào
khai giá thú
Ḿnh con đốt đuốc đến mừng

Đi t́m chổi xuể gậm giường um khói
đêm tân hôn
đêm giao thừa

Đi t́m vành khăn chít đầu ngải cứu
Khăn mùa hoa đào
Khăn mùa hoa mai

Cúc vàng sóng sánh
khăn nhiễu tam giang
Đâu chùm hoa lư
đưa trăng về làng

Cánh c̣ bống bang
đậu sừng con nghé
Con ngoan con nhé
Con đi t́m Mẹ
Tre dậm lông mày
Ao bèo chột mắt
Bàn tay mẹ cắt
gửi quà cho con

Ơi chiều Kinh Bắc
Chuông chùa nhuộm son


Nhớ

1- Lá

Có nét buồn khôi nguyên
ch́m sâu vào đằng đẵng
Có tiếng ca ưu phiền
ch́m sâu vào lẳng lặng

Và dai dẳng em ơi
là cơn say khát lá
cứ thon mềm xanh lả
trong men quê bồi hồi

2- Ngơ

Sao không thể khép cửa buồng thương nhớ
C̣n phong phanh manh áo
dắt về những ngơ làng xưa
Sao không quên chiều đổ mưa
Con rô rạch ngược
nướng cong mùa thơ
cơm nghèo thuở trước
A bê nghé ơi


Mưa Thuận Thành

Nhớ mưa Thuận Thành
long lanh mắt ướt
là mưa ái phi
tơ tằm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
nâng bồng Thiên Thai

Mưa chạm ngơ ngoài
chùm cau tóc xoă
Miệng cười kẽ lá
mưa nhoà gương soi
Phủ Chúa mưa lơi
Cung Vua mưa chơi
lên ngôi hoàng hậu

Cứ mưa Thuận Thành
hạt mưa chưa đậu
vai trần Ỷ Lan
Mưa c̣n khép nép
nhẹ rung tơ đàn
Lách qua cửa hẹp
mưa càng chứa chan

Ngoài bến Luy Lâu
tóc mưa nghiêng đầu
vành khăn lỏng lẻo

Hạt mưa chèo bẻo
nhạt nắng xiên khoai
Hạt mưa hoa nhài
tàn đêm kỹ nữ
Hạt mưa sành sứ
vỡ gạch Bát Tràng
hai mảnh đa mang

Chiều khô lá ngải
mưa gái thương chồng
ướt đằm nắng quái
sang đ̣ cạn sông

Mưa chuông chùa lặn
về bến trai tơ
Chùa Dâu ni cô
sao c̣n thẩn thơ
sao c̣n ngơ ngẩn
không về kinh đô

Ơi đêm đợi chờ
mưa ngồi cổng vắng
mưa nằm lẳng lặng
hỏi ǵ xin thưa
nhớ lụa mưa lùa
sồi non yếm tơ
.......................
Thuận Thành đang mưa...
...........................

*



Nhịp cuối - Về với ta


Ngủ say rồi đôi cá đ̣ng đong


Về với ta

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi măi t́m sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
gặm cỏ mưa phùn

Dóng dả gọi về đồng sương
đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng

Ta con chào mào khát nước
về vườn xưa hạt nhăn đă đâm mầm
Cây ổi giơ xương
chống đỡ mùa đông xập về
đánh úp
Ô này tám đỏ ra hoa

Ta con chim cu
về gù dặng tre
đưa nắng ấu thơ
về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm
Ta ru em
Lớn lên em đừng t́m mẹ
phía cơn mưa

Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng t́m sao

Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều nay
dềnh mặt nước hương sen

Ta soi
chỉ c̣n ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
đôi cá đ̣ng đong

*



Xong cuộc tuần du


Tuần du chưa vợi khối ân t́nh


Ước nguyện

Gửi Mẹ và Chị
Cơi Âm
Bến Lú, bên kia sông Giác
H.C.


Bốn tám dáng Thơ đi tám nhịp
Tuần du chưa vợi khối ân t́nh
Ứớc sao sóng Mẹ bừng Công chúa
Chớp mắt nghiêng buồn…
kiếp ảo sinh
Ươc sao soi chị lim dim hát
Tay gió đàn
lơi
yếm trắng tinh
Ví chăng Em cứ bơ vơ nhớ
Nắng lượn cồn mây
Lá hiện h́nh
Th́ thưong cuốc lả
hồn Chiêu Thánh
Mơ giục chuông dồn
… lệ chép Kinh…

Hà Nội, tháng Vu Lan Giáp Tuất

19/8/1994

Hoàng Cầm

*

VĂN XUÔI HOÀNG CẦM

 

 

 

Thư gửi người âm

 

 

Ô mai, em đến đấy!..

Vậy mà đă sắp giỗ hết. Thoảng ngọn gió se, nửa đêm. Sao sáng hơn, gọi hồn Hưng về nói chuyện, có lẽ vui… Nhưng, lời nói th́ bay đi, viết thư đốt xuống, chắc Hưng càng tĩnh độ. - Ḿnh gửi những trang này về cơi ấy, cái cơi mơ mơ tím nhạt mà trước khi mua vé đi chuyến xe vạn cổ, trong một đêm lạnh, anh cũng mang máng biết là may ra, có lẽ nó sẽ hồng lên cái màu vĩnh cửu của yêu thương. Vậy là… Hưng ơi, cũng có một thời… ngày xửa ngày xưa có một giáo sư bác sĩ nhổ bật cho anh cái khối u trong lồng ngực, u ǵ… bénigne hay maligne lúc đó nào ai đă biết. Hẵng cứ nhổ cho xong đi một đoạn đời, mà cùng lúc con trai anh, thủ khoa một cuộc dương cầm ở một xứ nào xa có hàng bạch dương trên tuyết, cũng nhổ bật cho người cha cái khối u tội t́nh của cuộc mưu sinh vất vả, cái khối u tưởng như ác nghiệt lại trở thành ngọn đèn tâm linh soi lại đời ḿnh, thẩm phán mọi việc đă qua để anh tự ḿnh gạn đục khơi trong. Khối u thần thánh!

Quả nhiên, có những giọt nắng buồn Chopin đọng trên mười đầu ngón tay diệu kỳ của đứa con trai út đă lung linh lên tiếng rất trong trẻo gọi anh cố gượng dậy mà ra thoát cái ṿng âm u quái quỷ lá mặt lá trái nỗi đời đă trói buộc, giày ṿ anh hàng chục năm ấy chứ! Hưng hẳn không quên, cũng vào dịp ấy, ḿnh động ḷng thương xót bạn, viết một đêm xong bài thơ giao hưởng U ǵ tặng bạn và mừng cháu Sơn thủ khoa. Hưng th́ vừa qua một trận dao kéo cắt, rạch luôn, lách rất tài t́nh vào bộ ngực c̣n phồng căng băo táp của nỗi đời đa đoan lắt léo; con trai út của Hưng th́ cũng vừa qua ṿng cuối cuộc thi tài đầy kịch tính nơi quê người. Hưng nghe thơ U ǵ đến câu chót đă nắm chặt tay ḿnh rơm rớm khóc. Đọc lại, Hưng nghe nhé, mà đọc từng nhịp một thôi. Sợ Hưng lại bị xốc ở giữa cơi Tịnh không th́ ḿnh mang tội với bạn nhiều lắm.

 

U ǵ

Thơ giao hưởng

 Hoàng Cầm tặng Đặng Đ́nh Hưng

Prélude (*)

Hỡi Nàng mắt biển mưa thâm

Chopin nhớ Chị sớm nằm cỏ xanh

Bao giờ phấn bướm thăm Anh

Giọt sương đỉnh núi long lanh nắng tàn

Rơi vào kẽ - phím - âm - hoang.

 

(*) NÀNG? - Ai đấy nhỉ? - Người yêu xưa của Hưng à? - Có khi là Georges Sand, nữ văn sĩ đă ṿ nát tim thi sĩ Alfred de Musset, và sau lại xé nát ngực nhạc sĩ Chopin? - Chưa chắc đă phải - Hay là người-đàn-bà-không-quen? H́nh như tôi đă gặp nhiều lần ở hè phố Hà Nội - Hay là tiền thân của ô-mai-em?

 

Nhịp một

Đêm trắng

Thiên cơ ngời mắt xanh

Đơm đóa hồng đen giữa ngực anh

Đêm sau

Thiên cơ ngời mắt xanh

Chụp h́nh

Bằng tia chớp Đào Hoa

Một khối u lành trong suốt đáy.

Phim

Bầu trời thủy tinh

đọc

Lấm tấm những nốt hồng đổ về cung si bémol lệ chảy dường như giọt nắng buồn Chopin

Đúng vậy không, Hưng? Chúng ḿnh thuở xanh tơ – xanh thơ có thể gọi tên là những “khối u lành trong suốt đáy”, những tế bào trong cơ thể một hành tinh ăm ắp sự sống, mà nḿnh cứ mượn chữ của Tử Vi đặt tên là Thiên Cơ. Hành tinh đẹp đến nỗi cả một đời chúng ḿnh dốc hết từ ngữ âm thanh, đường nét, màu sắc vẫn không nói được trọn vẹn một phần tỷ cái tuyệt vời say đắm của sự sống địa cầu.

Rồi đến khi, rời ghế nhà trường, ta vào đời th́ mỗi người chúng ta lại đi một ngả của riêng ḿnh. V́ non nớt, chúng ta đều bị quyến rũ, mê hoặc.

Hồi đó, anh chưa biết đau. Ngă th́ anh đứng vậy, b́nh tĩnh (tuy cũng đă có vẻ run run), anh nh́n bốn phía, anh vẫn t́m hướng bay, quẫy cựa trong cái áo thùng th́nh mà hóa ra chật chội, anh đâm cáu kỉnh, phẫn nộ với cả những người thân yêu nhất, đă có lúc phẫn nộ với cả chính ḿnh (tuy cũng đă có vẻ run run), anh nh́n bốn phía, anh vẫn t́m hướng bay, quẫy cựa trong cái áo thùng th́nh mà hóa ra chật chội, anh đâm cáu kỉnh, phẫn nộ với cả những người thân yêu nhất, đă có lúc phẫn nộ với cả chính ḿnh.

Thế là anh biết, trong ngực anh và cả trên cái lưng nilông các-tông của định mệnh, có một khối u…Thuở ấy,… Hưng ơi!

Khối u đă nhổ đi rồi, cơ thể anh lành trở lại th́ cũng vừa lúc có một khối u khác, điện ở tần số nào soi cũng không rơ, dần dần choán hết hồn anh. - Cái khối cô đơn khổng lồ, anh ngồi trong cái lồng trong suốt bằng không khí. Mà quái ác thật, cái khối quạnh quẽ mênh mông ấy lại phải đối diện, hội thảo với một cơi màu tro c̣n mịt mù hơn, ta thường gọi là cơi chết… A, th́ ra ta sắp chết đó chăng. Thoạt, anh cũng rờn rợn, ngợp, sợ. - Th́ sợ đă sao - lẽ thường thôi - ḿnh đâu phải Tôn Ngộ Không! Anh đă đi sắp hết một ṿng âm dương, chịu luật ngũ hành, một chu kỳ nhân sinh th́ đấng tối cao đă gieo vào anh những hạt nhân của không-biết. Vậy th́ anh thôi… sợ. Anh b́nh thản, hay cố-ra-vẻ-b́nh-thản xoay cái khối cô đơn sừng sững ấy cho đối mặt hẳn với hư vô - Nào, thử xem cơi mịt mù kia, ngươi làm ǵ được ta - Bằng sức mạnh tư duy phản tỉnh, anh đi vào cơn thể nghiệm cuối cùng - Nó khác hẳn những cơn thể nghiệm trước. V́ nó bắt đầu bằng một cơn thèm polydimensionnel - Thèm sống - Làm như đến bây giờ anh mới bắt đầu được sống và phải sống. Một ḿnh trong căn buồng - anh gọi là hầm - cố đóng kín cửa cho thành ḥn đảo hoang giữa biển người sóng gió - giữa một cái chợ - Anh nghe từng tiếng động nhỏ, thẩm thấu từng đường cong, nét quẹo, ầm ỳ sóng ngầm và h́nh như ở bên kia cũng đang vi vu nhiều cơn gió gọi… Nào, kiếp người - Kiếp anh, là thế nào đây? Anh bèn thể nghiệm lại, gọi là cơn thể nghiệm số 7. Trước hết là cơn thèm dữ dội. Là cái trục của một cuộc sống rất thật để những khát khao, ước vọng, - gái nghén thèm miếng sấu dầm - cứ xoay quanh tít mù - Thèm ngửi, nếm, sờ mó, nhai nuốt, có khi nuốt chửng một mùi hương tóc - một vệt chân người một cái hôn bất tận - Con libiđô nhảy múa, kín, hở, khóc cười. Hưng ơi, khi khởi bút Ô mai Hưng hẳn không ngờ chính từ ḍng đầu Ô mai róc rách trong khe đá đời anh khô khốc ấy, Hưng mới sống đích thực một Đặng Đ́nh Hưng thi sĩ. Nên, đêm ấy, Hưng nhờ cậu Tú thắp đèn Hoa Kỳ (v́ khu phố mất điện) đọc thong thả cái Ô mai chưa đánh máy, lần đầu tiên ḿnh đă khóc v́ thương Hưng quá. Chao ôi hơn ba chục năm bầu bạn, chưa khi nào ḿnh thấy Hưng chân thật đến thế. Ḿnh khóc, Hưng có biết đâu, v́ cái ánh sáng leo lét ngọn đèn… (phần bản phô tô nh́n không rơ) phát hiện được giọt nước mắt cảm thông.

Đặng Đ́nh Hưng sau giải phẫu, về với cuộc sống thật, mới biết suy ngẫm về một cuộc sống thật, mới biết suy ngẫm về một ṿng đời - 1 hội đă khép - mới biết thèm. Anh thừa nhận anh là con gấu ăn trăng - là cái nồi đồng mắt mở - một di vật - một chuyển động - một thèm khát tỉ mỉ từng chi tiết, từ đáy vực sâu của hư vô lên tuyệt đỉnh của cuộc sống hối hả, xô bồ, ào ạt hàng ngày - Anh thèm ăn bằng tất cả các giác quan, cả giác quan thứ 6, thứ 7 - Ăn tái b́nh minh - ăn tái buổi chiều - ăn (ràu rạu) cả mặt trời - ăn một quả chuông buông giờ… nói gọn lại, vào tuổi 60, anh mới biết thèm sống, sống thật sự, tỉ tỉ mỉ và bao quát, anh khát cái thời gian đă mất, anh thèm níu lại từng sợi tơ thoi thóp nhiều chiều trong một không gian sôi động.

*

Hưng ơi! Từ sau phút rời bàn mổ đến khi anh chạy lên trước ḍng người đang đứng xếp hàng nghiêm chỉnh, anh chen ngang mua bằng được cốc bia tận thế, anh vội đi, đi trước nhiều anh em về cơi vĩnh hằng (đă thanh thản chưa ?) đến hôm nay, h́nh như đă quá 10 mùa heo may nắng vàng ươm, mà lá bàng rắc đỏ mặt đường phố, phân phát cho từng nhà những giấy mời tha thiết đi ngao du đến những vùng bâng khuâng, tiếc hận đến cả những vùng vu quy, hôn phối ấm áp (thường phải mặc áo len mỏng mà phải là áo đan bằng hai bàn tay - bàn tay em trắng của người t́nh.) Mười mùa thu, khoảng ấy anh b́nh tĩnh lấy thân ḿnh, số kiếp ḿnh làm thần tượng cô đơn để - rất chậm răi - chậm răi như khi anh nhấp từng ngụm nhỏ rượu quê - ngồi (hay nằm) viết bài Thơ Truyện Ô mai - Anh đă nói từ lâu: - Cô đơn cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng - Vậy th́ Ô mai là hiệu quả cao nhất của cơn thể nghiệm cuối cùng, cơn thể nghiệm cô đơn toàn phần Đặng Đ́nh Hưng.

Đúng vậy, Ô mai, một cơi có thực hơi ấm thịt da người, những nồng đậm nếm được trong một cái chợ - y như những cái mẹt bày tim, gan, ḷng tràng, khấu đuôi - Ô mai - y như thúng gạo nếp, một hạt nếp thấy sữa và hương trời - Ô mai y như bóng gà đi vào bụi thẳm - những vệt bước chân đi quên bên một sườn đồi. Phải, Ô mai lại là cơi ảo mê, có thật giữa ban ngày, ai mua rươi ra mua lanh lảnh cái giọng nữ cao lê thê dài dọc phố màu tro thổi thốc trời đông. Ô mai - một nét nhạc từ t́nh ca cuộc đời thực nối vào bản giao hưởng mùa ảo vọng như man mác - như mây trôi, lại như trống trải cô ly - như tiếng gọi mùa.

Hưng nhỉ, thực đấy, mê đấy - như thơ - Nữ thi vương diễm lệ - ảo huyền - cả như thơ Hưng đă viết gần mười tập ấy, nàng thơ của Hưng - từ một cô bé Lọ lem - Ô mai em.

Xuân hạ thu Đông - đi giữa mùa em gió lộng - Thu cùng

Tôi đă rờn rợn hai vai lạnh, và se se da thịt đêm thu ở căn buồng của anh, đường Giảng Vơ khi nghe anh nói mê trong tiếng đọc đều đều của người bạn trẻ: Mùa hương đi tóc xanh - lại càng thêm thương xót anh v́ nỗi anh đă lăng phí cả một ṿng âm dương sinh thành t́nh yêu và hạnh phúc, để măi đến bây giờ mới h́nh tượng được một góc biển ái, một trượng nguồn ân, bấy giờ mới biết t́m đến hạnh phúc ngoài anh. Qua nỗi đau thương bằng thánh - Em người thánh, Oan là thánh và bấy giờ mới t́m cách hiện đạt ước mơ: lấy lại ấu thơ, lấy lại mùa tổ ấm - bàn tay em trắng. Bấy giờ anh mới biết: uống mùa hương vị ấy, ngây ngây ngày chớm lửa - lửa bồi hồi biết lửa, lửa bùng quên - bùng bốc cháy - xoay vần - cô lánh - mưa sa.

Tưởng anh đă hồi tâm, đă lấy lại được ấu thơ nhưng ḱa anh vẫn lù lù một Hy Mă cô đơn đối diện tử thần. Muốn kéo anh trở về cuộc sống thực, để hưởng đến đáy một mùa xuân có thực, để anh có cơ may ôm ấp một người nữ tràn sinh lực libiđô, để thơ anh đỡ quằn quại trong cái vũng thế t́nh xoáy lốc, nhưng anh không nghe. Anh hoài nghi cuộc đời, hoài nghi cả chính ḿnh, bèn mở ngoặc giữa chừng bài thơ - truyện để bày ra một trận đánh thật khốc liệt. Cái ngoặc cùm khóa lớn. Con người bị giam trong cái ngoặc: nhà cửa, ngựa xe, danh vọng,

đến cả trí thức lớn Dăm ba cuốn (sách) cứ lẽo đẽo đi theo nhau qua các cuộc dọn nhà. Sách và người thường nh́n lại nhau qua cái b́a. Khoảng cách nh́n lại cứ thưa dần. Đi trong cái ngoặc là một thời gian sống dài vô vị, han rỉ. Ảnh, thuốc bong ra, những khuôn mặt chặp lại cái vali cũ lưu giữ những cơn sợ hăi - Bao nhiêu sợ hăi, bao nhiêu rơm rác cuộc đời trong cái ngoặc ấy. Quăng đời anh trong cái ngoặc là một xe rác, xe tải cỡ lớn mà anh chở đến vài chục năm nặng nề - nhục nhă, nay đem ra tung hê tất tật những cặn bă ấy đi, đánh bật rễ chúng đi, bật khỏi kư ức. Anh làm cuộc tổng tảo mộ đời ḿnh. Trận đánh khốc liệt này, dạo ấy, ḿnh nhớ lắm. Hưng cứ ĺ lợm triển khai cái trận tự oanh tạc - Autobom-bardement! Ḿnh cũng hỗ trợ Hưng bằng nhịp hai của bài thơ giao hưởng, v́ cảm kích cái tuyệt vời nhân cách của Hưng… Anh dũng cảm nă đại bác vào quá văng đời anh th́ ḿnh cũng thành thực vẽ cái chân dung Đặng Đ́nh Hưng, không chùn tay trước sự thật phũ phàng. Hưng nghe lại nhé! Thơ giao hưởng - nhịp hai, c̣n nhớ chứ!

nhịp hai

Đêm câm

Đôi ba ngôi Văn Xương trứng tằm

Rủ nhau đi li ti xa hút bầu trời thâm

Gặp lóe vàng tia chớp chị Hồng Loan

(nghe như chiếc thoa vàng bẻ nửa

(nghe như bông sen muộn hè chói lửa)

Chụp h́nh

Một khối u Không màu

Phim mây ngầu

Đọc: lỗ chỗ chín chậu nắng tóc mắt vơng rách tụt cân đai yên ngựa què kéo đen ng̣m cỗ xe bánh vuông không thấy mũ sa lầy băi sông thu bùn lũ ngược vẫy sen tàn (đi hoang ư) ngậm miệng nghỉm gió thốc lốc cung ré-majeur quắt nhức ba cạnh nhung gai ái ân ǵ dài thon mười búp trắng sữa đầu vú núi cao ngất

[Bao giờ về quê trong

Khoanh

một cái ao ngồi giặt áo cả ngày [1]

ngảnh mặt xem chú chuồn hoa

đêm đầu khe chớp tía]

[Bao giờ về quê trong

Khoanh một cái bếp

nấu cháo nếp xoan sánh lá mơ non

nḥe mắt tóc mai ly

Khói dàn ngang chập h́nh bác mẹ toàn thân trần

ru U đào “bé ngoan đừng nghịch nhé…à…ơi…]

Lại đọc: Lố nhố nhiều u ǵ sau xe h́nh mắt lé mă tấu trùng trùng răng chuột mặt nạ người đẹp tiếng ngọt thanh sà nép là bồ đề - u - rồi - cũng đâm đầu khe ẩm rậm âm hoang.

(Hội chẩn: vô phương)

 

Anh nghĩ sau trận tự oanh tạc, sau cuộc tổng tảo mộ, trên đống hoang tàn đổ nát của giấy và sách, ảnh và kỷ niệm chua chát đắng cay, anh có thể bới tung quá khứ, t́m lại ḿnh để thư thái đi vào cơn thể nghiệm cuối cùng, sáng tạo trên nền móng mới, bằng nhiều vision mới để t́m ra đích thực tho thuần khiết là đi từ đâu - T́nh yêu trốn ở đâu. Thương thân - thương người khởi nguyên là đâu và đến đâu th́ tận cùng. Khó thật; nhưng thôi, anh đă thôi thèm, anh đi giao lưu, rồi anh về hầm, khép kín cô đơn, đặt bút, như từ khai thiên lập địa đến bấy giờ mới đặt bút viết - miễn là chân thực, ḷng lành th́ cái đẹp sẽ long lanh hiện dáng thơ Nữ chúa… Anh ra vẻ đĩnh đạc trang nghiêm, b́nh thản, nhưng tôi vẫn thấy anh run rẩy thồ trên vai gầy cái khối cô thần quả tú cứ rộn ră, hạch sách, đ̣i anh phải trả nợ - Cái nợ làm người quả thật là quá nặng. Anh tự bắn phá cốt để qua đi cơn ác mộng ma đè. Xong. Anh gắng một nụ cười - anh định thần đứng dậy.

Và gặp Ô mai Em. Một lọ lem con đẻ của nỗi đời oan nghiệt - một thơ ngây trinh tuyết của Thi ca - nữ thánh thoát thai từ đau thương bầm tím trên ḍng đời cuồn cuộn những giấc mơ tan. Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - giật ḿnh… ḿnh lại… (N.Du) biến ảo Ô mai Em, em có thật đấy. Chính mắt tôi đă hơn một lần nh́n thấy “cô ta” trong cái quán chợ “ngựa vàng”, nơi Hưng thường ngồi một góc, nhắp từng ngụm nhỏ của Lặng Im ngâm trong một thứ rượu quê ngát mùa lúa chín và trắng toát màu sinh ly của những bến sông ảo vọng.

Ô mai Em, mà không có thật đâu. Ảo ảnh. Hư huyền. Nhưng huyền diệu một loại thuốc an thần, giảm đau - thuốc này chỉ có những thi sĩ đích thực mới bào chế ra được - nó vuốt ve những vết sẹo c̣n ứa máu của đời anh, và nó tung ra nhiều hẹn ước, - bao giờ cũng dễ dàng để lỡ - Ước một giờ gặp lại - Ô mai thành hương ấm phả vào mái tóc rối bời rưng rưng ngày tháng trôi qua của người thơ đau khổ chưa từng biết, để bấy giờ mới biết… gừng cay muối mặn… xin đừng quên nhau (ca dao). Anh đừng quên em. Nhưng h́nh như Không-phải-em một tia nắng cuối chiều chợt lóe và chợt tắt. Có thể, đúng nửa đêm, lại là một ngôi sao xanh chập chờn thức ngủ. - Hưng ơi! sao mà thương xót, ái ngại anh! Cuối đời rồi mới biết vơ nhanh một tia nắng, một ngọn gió hương cau thoang thoảng để làm thần tượng cho Thơ, nên anh cứ bị hẫng. Cả chuyện t́nh Ô mai… bập bồng… thoang thoảng mùi hương thiên lư những đêm trăng vùng quê đồng chiêm trũng của anh, h́nh như chỉ là ảo giác của một ông già 60 tuổi cố níu một mùi hương, một gam màu lư tưởng rồi cố đẩy vào cái kho tiềm thức anh vốn rất nghèo những ái ân đằm thắm đời thường, v́ qua một hội nhân sinh, anh chưa từng biết đam mê thực sự.

Nên, suốt cả hai chương dài, Giao Lưu - Chiều thứ bảy, tôi chỉ thấy anh mơ (hoặc là nói mê) bằng cái ton không lấy ǵ làm chắc, giọng anh dịu dàng đấy nhưng h́nh như có nhuốm màu tuyệt vọng, tôi cố t́m măi không thấy, không bắt gặp được hơi thở nồng ấm trên ngực anh đâu, Hưng ạ. Những ḍng thơ xuôi bảng lảng như bóng con đ̣ trên sông chiều sương khói chập chờn - như cánh chim trên đồng chiều vội vă, không có hoàng hôn… Nghe yếu đuối, ngọt mềm, nghe van vỉ, thở than, như lời ḥ hẹn bâng quơ ĺm lịm trôi, để rồi như không - không có ǵ cả - đến ước mơ nữa cũng không có ǵ hết.

Vậy th́, sau nhiều cơn thể nghiệm cũ, sau những bi kịch dằng xé ṿ nát anh một đời, anh c̣n lại ǵ đây? Anh mất, mất hết - anh vứt, vứt hết. Anh gặp nữ thánh thơ, anh c̣n được một tiếng thở dài trong như ngọn gió cuối thu trên cánh đồng chiều đă gặt hái. Hưng ơi, dẫu chỉ c̣n một tiếng thở dài, anh vẫn c̣n sống măi, miễn là có người nghe thấy, cảm và hiểu cho anh, qua tiếng thở dài thi sĩ ấy. Đến đây, ḿnh thắp nén nhang, thỉnh Hưng về qua những phố-Phái giữa Thăng Long này để nghe lại nhịp cuối U ǵ - Thơ giao hưởng v́ Hưng, nén nhang

thân hữu v́ nỗi đau rất Đặng Đ́nh Hưng.

Nhịp ba

Hào quang chạy quàng đi quanh

Kết ṿng chỏm núi

dấm dúi cho ai

một - U hồng

hai - U bưởi

- vô khối U chanh

U sen có vành

U na rách mắt

cười

Miệng cười đen

ánh sơn mài

dành cho U ác kiện trời đó ru?

Thiên cơ chợt ngủ

Sương mù tháo chốt rêu

từ độ ấy

hẹn Anh

Dương cầm vỗ sóng

vỗ thanh

Ngủ đi u!

(ngủ đi ư?)

Ru em

Sóng lại rập rềnh…

Hư Không…

 

Hà Nội 1992


[1]Một câu thơ của Đ. Đ. Hưng trong tập Cửa Ô

Nguồn: Bài này được nhà thơ Hoàng Cầm viết làm lời tựa cho tập “Ô Mai” nhưng v́ một lư do riêng đă không in trong lần xuất bản. Sau đó nó được Hoàng Cầm sửa lại, cắt bớt khá nhiều, cho in trong tập “Văn xuôi Hoàng Cầm” (NXB Văn Học 1999) với tên mới là “Ô mai – em đến hay đi”. Chúng tôi xin giới thiệu bản gốc theo thủ bút của Hoàng Cầm năm 1992.

 

 

 


Vĩ thanh


Thai nghén quê xưa
Về Kinh Bắc lọt ḷng
qua tám nhịp Tuần Du Dạ Khúc



Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân văn-Giai phẩm đă qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường xiêu vẹo. Xong, trời lại xanh, đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật (trên văn bản, giấy trắng mực đen do ông Nguyễn Đ́nh Thi, tổng thư kư Hội Nhà văn kư: Khai trừ khỏi ban chấp hành Hội. Thời hạn 1 năm không được ấn hành tác phẩm - lưu lại Hội để giáo dục. Và cũng chỉ có thế, c̣n đời sống vật chất cũng chỉ sa sút có 50%. Vẫn có lương nhỏ nhoi hàng tháng (lương chính bị cắt tới 65%), lao động chân tay bắt buộc trong 3 năm, sau th́ được tự giác t́m một nơi nào đấy lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng. Cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đă giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.

Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong ḷng – dẫu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận ǵ ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận ḿnh, có chút cay đắng, có xót xa. Nhưng v́ “đă mang lấy nghiệp vào thân” như Nguyễn Du nói, cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh và từ những câu chữ kỳ diệu đă đem đến cho ḿnh không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống b́nh nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương ḿnh hết ḷng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.

Vậy th́ vào mùa Thu rồi sang mùa rét 1959, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đă sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập Nhớ lại một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp t́nh nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đă giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).

Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu (lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ ch́m dần, ch́m sâu, ch́m và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi c̣n nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, mầu sắc, hương vị đă quá xa, đă “đi đâu, về đâu” tôi không thể biết nhưng cả một thời, từ khi vào tuổi bước đầu nhận thức được cơi đời này đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi th́ sống lại, và ngày đêm thầm th́ nói chuyện với tôi về quê hương, về t́nh yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền-diệu-dĩ-văng rồi xẻ ngang, vạch chéo vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi vơ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít buồn nhiều, cái đau của những thuyền t́nh không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đă khép, những tiếng hát người yêu đă tắt, những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đă nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đă úa bạc. Tất cả... tất cả... tôi bơi, ch́m trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại: Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc.

Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người Mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “lúng liếng” thật t́nh tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đ́nh Bảng, mép váy buông chùng cửa vơng xuống mu bàn chân, ai trông thấy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng “mốt Đ́nh Bảng”, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó trên thắt lưng để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp th́ từ mép váy lên có đến 4 pli. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.

Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đă nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn sông Đuống, thuộc tỉnh Bắc Ninh) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lăo làng Bựu-Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, ngoài công việc mưu sinh mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng Tám âm lịch th́ tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng Giêng sang năm, th́ dự giải hát thi ở đ́nh làng Bựu (làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 th́ Tần đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ B́nh nam Tả tướng quân (ngang với Tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và rồi sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước: Nguyễn Du). Mẹ tôi (1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được thừa kế tinh hoa quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ, những câu thơ (cốt lơi là thể lục bát) trữ t́nh, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.

Lại cũng v́ mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đă nảy sinh một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi, mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại sao tôi là con đầu ḷng, măi đến năm mẹ 31 tuổi, mới được xổ ra cơi đời này? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên nội, bên ngoại kể chuyện một cách khái quát (không có chi tiết) rằng "bố mẹ mày chê nhau lâu lắm, đến hơn 10 năm đấy".

Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai? Ai kể chi tiết ǵ đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn 10 năm? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886-1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang và cũng lại lang thang đi chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đă tham gia các phong trào Đông kinh Nghĩa thục, Đông du, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi c̣n nhớ hồi lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước, điếu đóm, hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên 7 (1929) bố tôi đă bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam ở thị xă Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị t́nh nghi, đế quốc Pháp đă dẹp tan Việt Nam Quốc dân Đảng, bố tôi không có chứng cớ ǵ cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó th́ bố mẹ tôi sống yên phận: bố bốc thuốc Nam, thuốc Bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai bồ hàng xén đi các chợ làng, chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được hết bậc trung học ở Hà Nội.

Vậy là trong người tôi hoà quyện hai ḍng máu. Ḍng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca hoà với ḍng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai ḍng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất.

Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm? Tôi lớn lên, chính ḿnh được nghe mẹ kể: Lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi th́ gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ th́ ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, mà người vợ ba mươi tuổi kia lúc mang thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo v́ chồng cứ đi... Đi đâu? Dạy học hay làm thuốc rong, hay hội kín hội hở ǵ mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên th́ bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn cho nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa... tă lót cho nó, cũng may mà nó sống được, chỉ phải cái tội là sau mấy tiếng oa oa đầu tiên th́ nó im bặt không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à? Thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái ban thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đă gần nửa đêm 12 tháng Giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ c̣n một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước, mẹ tôi xúng xính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đ́nh Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lư, cùng với bốn năm chị em phường hát đi ra đ́nh từ sớm để rồi hát chúc, hát thi... C̣n ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cơi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, th́ ở đ́nh làng, cách nhà chừng non cây số, như văng vẳng vẫn c̣n tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kể vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng Giêng, tháng Hai. Hội to th́ kéo dài dăm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới ră đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà, cảnh xóm, cảnh thôn xă, cảnh phố huyện, phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc... người ngụ cư, người cấy cầy, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “làm thày, làm thợ với làm thuê”, người dân nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng manh, trắng nơn, tinh khiết, mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái ǵ có thể xoá đi được, dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua... Vậy nên, cả tập thơ Về Kinh Bắc tôi viết từ lập thu 1959 đến giữa xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đ́nh tôi.... số phận mỗi người thân yêu... nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đă hiện lên thành 48 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể, một khối n-phương thống nhất chia làm tám nhịp, mở đầu là Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau khi Xong cuộc tuần du là mươi ḍng ước nguyện tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, về Kinh Bắc.


Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp
Tuần du
chưa vợi khối ân t́nh


Vâng, một cuộc "tuần du" đi từ người Mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dă sử, về những chuyện t́nh huyền thoại đến cả những chuyện thực đă diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, th́ h́nh ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu bông trong tay đi xuyên thời gian, xuyên suốt vùng quê đa t́nh, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa t́nh diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cành hoa, lúc cao th́ cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp th́ lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá b́nh thường. Hai nhân vật EM và CHỊ này choán hết cả một nhịp - nhịp năm - của bản đại hợp xướng Về Kinh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời th́ tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên Luân hồi.

Nói chung, hầu hết những bài thơ của tôi được độc giả ưa thích trong nhiều năm bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm ḍ mạch nước ngầm để đào giếng, khi đă có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là t́nh cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch khởi xướng ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhơm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài "Bên kia sông Đuống" (tôi đă viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư ḿnh trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đă đăng trên Tuần báo Văn nghệ số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, tháng 5-1992) tôi đang ở trong trạng thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương ḿnh bị giặc Pháp xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết ǵ, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:


Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa... cát trắng phẳng ĺ


tôi bèn chụp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong ḷng ḿnh. Cho đến gần sáng th́ xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đă gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ư nghĩ, một tư duy nào định trước, tác giả giống như một cậu học tṛ viết chính tả, lúc đầu là viết theo tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc thầm th́ từ trong tâm can ḿnh, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ, nghĩ ngợi ǵ về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu ǵ ǵ hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả tâm hồn và thể chất, khí chất.

Đương nhiên, những bài bật ra như vậy không nhiều, c̣n người làm thơ thường phải khổ công tu luyện những con chữ, tu luyện từ ngữ đến nhịp điệu từng câu, tạo ra điệu riêng từng bài th́ sau cùng mới có thể tạo cho ḿnh một thế giới riêng. Đặc biệt, có bài “Lá Diêu bông”, duy nhất có một bài này hoàn toàn là những lời văng vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 watt, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con những giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng cầm sẵn một tập giấy trắng bên tay trái và cái bút ch́ bên tay phải. Nếu ngủ được th́ càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện ǵ phải lo nghĩ, chẳng có ư định ǵ trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong nên tiếng xe cộ thưa thớt ngoài đường tôi cũng không nghe rơ. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm răi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:


Váy Đ́nh Bảng buông chùng cửa vơng...


Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay lên giấy. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im bặt hẳn, ḷng tôi nhẹ bẫng đi, được một lát th́ tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nh́n lại trang “bản thảo” th́ có chỗ rơ, đọc được, nhiều chỗ ḍng nọ đè lên ḍng kia, chữ này xoá mất chữ khác. Phải mất nửa giờ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đă đọc cho tôi viết lúc quá nửa đêm hôm qua. Bài “Lá Diêu bông” ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lư giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học.

Vậy nên, cái lá Diêu bông là cái lá ǵ, ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc Diêu bông, tôi chép Diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc đấy. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người con gái láng giềng hơn tôi những 8 tuổi. V́ từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xă Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. C̣n 6 km nữa th́ qua cầu sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi ḍng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường xe lửa Hà Nội-Lạng Sơn ngăn cách với mảnh vườn nhỏ sau nhà bằng một hàng rào cắt xén khá đẹp trồng toàn những cây ruối, dâm bụt dày dặn. Nhà tôi có tủ thuốc Bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ. Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về chưa kịp bước vào trong nhà đă thấy một cô gái đang mua ǵ của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nh́n ra đường th́ cậu bé lên tám choáng người, như sau này người ta thường nói là bị "coup de foudre". Người con gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ t́nh đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một ḍng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót: Em gửi Chị Vinh của Em. ấy, sở dĩ mới bé tí đă làm được một trang thơ lục bát v́ ở trên nhà trọ, chỗ thân t́nh với bố tôi, chủ nhà chính là ông sếp ga xép Núi Tiết ấy, gia đ́nh ông trên tỉnh đông con, làm nghề hàng xay hàng xáo, đêm nào cũng xay lúa giă gạo rồi dần sàng quạt sẩy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải đọc đủ các thứ truyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Lục Vân Tiên, Phạm Tải, cả Cung oán ngâm khúc đến Chinh phụ ngâm v.v... V́ thực ra, ngay từ bé tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm. Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ tuổi, ḿnh lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư t́nh gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm Em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư t́nh lại viết bằng thơ lục bát th́ hẳn không phải là điều ǵ đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn? Tôi say mê Chị, Chị đi đâu Em theo đấy, chỉ biết gọi Chị ơi, chứ c̣n biết nói ǵ hơn. Người gái tuyệt sắc ấy con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ con, mẹ goá con côi nghèo khổ, đèo ḅng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi, nước vối, cả bánh đa, bánh đúc, bánh chưng, bánh mật, bánh khoai. Chị Vinh vơ vẽ chữ nho, đọc thông Quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiên Du, nên hát quan họ th́ làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này nó mê đắm ḿnh nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không ǵ sánh bằng là được Chị Vinh cho ngồi sát bên Chị, chầu ŕa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh thiếu niên tụ tập ở cái băi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp, đặc biệt là về môn hát quan họ th́ Chị là bà Chúa của dân ca! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đă hồng lại thường hay cắn chỉ quết trầu, răng đen rưng rức hạt na. Chị Vinh ơi, viết đến đây, Em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vầng trán, từng con mắt Chị lúng liếng t́nh tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng nụ cười, Em c̣n ngửi thấy hơi tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều, mà nếu Chị buông tóc dài gần đến mắt cá chân để hong khô th́ cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng Em từ độ ấy đến nay, dẫu tóc Em đă trắng hết, Em vẫn có thể vẽ đúng chân dung Chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho Em đôi điều sơ đẳng về nghệ thuật hội hoạ. Ảnh Chị in mầu trong hồn Em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho Em những tấm ảnh như Em đang có trong một mảnh hồn lả lướt xanh xao, trong một tâm tư u buồn chạng vạng mà vẫn c̣n đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn những kỷ niệm từ sáu bảy chục năm xưa đấy, Chị ơi!

T́nh của người Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi kư sau này, để một số bạn ở xa quê hương hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều b́nh luận sai lạc thậm chí nguy hiểm nữa mỗi khi luận về những thi phẩm của tôi. Trong tập Về Kinh Bắc, th́ hai nhân vật Chị và Em ấy đă xuyên qua năm tháng và không gian, qua mưa phùn và nắng rát, qua biết bao h́nh thái của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vấn vương măi, cho tôi nhớ măi đến hết một kiếp này, biết đâu c̣n xót xa yêu thương vào tận kiếp sau... kiếp sau nữa...

Vậy chỉ mới sau vụ Nhân văn-Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đă lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc ǵ chăng, chỉ có điều là qua thời gian viết được ra 48 bài thành tập thơ Về Kinh Bắc này, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc chính trị và xă hội trước mắt. Tôi ch́m về một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh mầu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê năo nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nh́n chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong... Như gần đây tôi đă phải thốt ra: "Mắt thời gian càng miên man xanh".

Rồi Chị, Em đi về Kinh Bắc, lúc th́ đố “Lá Diêu bông”, lúc vào “Vườn ổi”, lúc “Đánh tam cúc”, lúc lên “Ngọn sông Thương”, lên tít “Ngọn Kỳ Cùng”, lúc “Đếm sao”, “Đếm nắng”, “Đếm giờ”, Em cứ theo đuổi Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và ḷng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái lá Diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, h́nh như vào dịp lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền tôi về gia đ́nh ở cái phố ga xép đ́u hiu ấy, nghĩa là cứ được nghỉ học th́ tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện t́nh có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn "lẽo đẽo bụi hồng". Tôi đă 12 tuổi và chị Vinh đă 20. Vào chiều mùa đông năm ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiểu Đ́nh Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đă cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chẽn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đă nhạt, dây thắt lưng hoa đào phai, Chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, ngày ấy lúa đă gặt hết. Cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ c̣n trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dăy núi Neo. Cậu bé Em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nh́n, chờ đợi Chị, thấy Chị đă bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy Chị bước nhanh ra cánh đồng, đương nhiên là cậu Em theo ngay, và bất kỳ đi theo Chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái g̣ nhỏ giữa đồng và cứ cúi t́m... t́m măi... chả biết Chị t́m ǵ vậy. Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thập thùng từng giây phút theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng Chị đứng thẳng người quay mặt nh́n Em, rồi nói, như một lời trách, như một lời quở mắng, lại như một lời ḿnh nói với chính ḿnh (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi c̣n nhớ như in từng lời trong bộ năo đă hơi suy, trong tấm ḷng may thay vẫn là tấm ḷng 12 tuổi): "Ơ hay! Sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng măi thế nhỉ?". Máu Em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu Em đang đỏ mặt, môi Em run run, không nói lại với Chị được nửa lời. H́nh như Em thoáng thấy Chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn t́m... t́m măi. Nắng đă sẫm dần. Măi sau, Em mới bạo dạn hỏi:

“Chị Vinh ơi! Chị đi t́m cái ǵ thế?”

Chị Vinh quay phắt lại, h́nh như má Chị hồng hơn lúc năy. Chị nh́n thẳng, nh́n xoáy vào mắt Em và gần 60 năm rồi, tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng rất tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất bí ẩn kiêu sa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo:

“Ừ, Chị (các bạn chú ư giùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi t́m cái lá... ấy đấy, đứa nào t́m được cái lá ấy (Chị càng cười càng rơ vẻ trêu cợt) ta gọi là chồng!”

Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi ngừng lại vài giây rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau th́ tôi quên bẵng, thôi th́ hôm nay tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đă gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi lá tai voi, lá mắt nai ǵ đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nhớ nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đă nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới t́m được, mà t́m lá ấy chắc là để chữa khỏi một chứng bệnh ǵ hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá ṿ nát ra, hay giă kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó t́m lắm lắm, chả thế mà Chị đi hết bờ này băi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu! Cái lá oái oăm thế! Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê ḿnh, nó "phải ḷng" ḿnh từ năm năm nay rồi... c̣n ǵ! "Đứa nào t́m được... ta gọi là chồng!". Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cơi nào, nếu c̣n sống, Chị cũng đă gần tám mươi tuổi đấy chứ, sao hôm nay, Em đă ngoài 70, lúc Em viết những trang nhớ lại này, Em hoàn toàn vẫn là đứa em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ Chị ơi!

Chiều ấy, trời xẩm tối rồi, Chị lại cho Em được cầm tay Chị. "Chị em thơ thẩn dan tay ra về"... mà nào đâu chiếc lá? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xă ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, h́nh ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm ḷng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đă si t́nh.

Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nh́n sang nhà Chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chơng tre, mà hỏi ngay:

“Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế hả mẹ?”

Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà h́nh như trong giọng nói của mẹ tôi có cái ǵ như nước mắt nghẽn lại:

“Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.”

Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa đột ngột nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào ḷng mẹ, khóc măi, ḷng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế. Mà nó khóc!

Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, c̣n cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đă quá cũ kỹ, nghe rất sáo ṃn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy: Hồng nhan bạc mệnh...

Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đă qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê. Chị đi t́m lá rồi... Chị đố lá... "Đứa nào t́m được... ta gọi là chồng..." Và bài thơ “Lá Diêu bông” ra đời trong đêm khuya, như tôi đă kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. C̣n một số bài khác như “Cây tam cúc”, “Quả vườn ổi”, “Cỏ Bồng thi”, “Bên kia sông Đuống”, “Chùa Hương”, “Về với ta”... những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm nay th́ bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải là của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho ḿnh chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để sáng mai sẽ ghi lại ra giấy th́ chỉ một vài phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn ḍng... Trong đời làm thơ của tôi, thời c̣n trai trẻ, tôi đă mất khá nhiều những câu thơ "xuất thần" bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đă rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái ḿnh một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút ch́ học sinh (bây giờ đă có bút bi thay cái bút ch́). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, ǵ ǵ đó, mà bỗng nghe vẳng một câu, dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đă tắt, mà cảm xúc chưa tan, th́ những ḍng thơ cứ tự nhiên bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của ḿnh. Y như đă có tia nước phun lên th́ phải tiếp tục đào đất, chắc chắn sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó th́ cả ba loại thơ (như các nhà phê b́nh văn học Trung Quốc đă đúc kết thành lư luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thần thi đều có thể xuất hiện trên trang viết. Và cùng lúc đó th́ có ba cái "thức" đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ư thức, tiềm thức và vô thức, cũng đủ cả một cặp: trí thức và tâm thức nữa. ở tôi th́ luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đă huy động tất cả nội lực của ḿnh: cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều lời thơ lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ chính ḿnh viết ra mang ư nghĩa ǵ cụ thể. Ai hỏi tôi lá Diêu bông, cỏ Bồng thi là lá ǵ, cỏ ǵ, ở đâu? Tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên khoa Văn ở Hà Nội cũng đă hỏi tôi: "Miếu Hai Cô" là ở đâu? Hai Cô nào? Tại sao lại thờ? Hoặc cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp.

Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng hết được cái hay của nó. V́ ngoài ư nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại c̣n nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu của một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đă nói từ lâu đến "thi tại ngôn ngoại". Thơ đă có ư là dễ hiểu. Nhưng thơ lại c̣n cái tứ. Cái tứ ở đâu ra? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ mang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó b́nh, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.

Tôi hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm ḷng nhân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy Thơ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ không bao giờ lấy Thơ làm phương tiện để cho ḿnh đạt tới những ǵ ǵ đó mà tâm hồn ḿnh không thể chấp nhận. Ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, dèm pha, thù hận v.v... là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa.

Tôi đă trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của ḿnh như đă nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đă khuất bóng ở nhân gian nhưng măi măi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập Về Kinh Bắc đă ra đời như thế, mặc nhiên thành cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi kể từ những năm 40 của thế kỷ này.

Hà Nội, những ngày cuối năm Nhâm Thân 1992

Hoàng Cầm


[1]Bản VH 94: "Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi"
[2]Bản VH 94: "Em lên núi xa hái cỏ nhiệm màu"
[3]Bản VH 94: "Tóc óng đêm xưa giờ rễ tre"

Nguồn: Văn bản sử dụng cho tập Hoàng Cầm-Tác phẩm-Thơ do NXB Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2002. Những chỗ khảo dị trong phần chú thích của talawas dựa trên đối chiếu với bản Về Kinh Bắc của NXB Văn học 1994.

 

 

Tôi đă làm đúng thiên chức thi sĩ của ḿnh

 

Hoàng Hưng thực hiện

 

Nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh vào đêm trước Hội Lim (12 tháng Giêng âm lịch, 1922) , quê làng Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, cha là nhà nho nghèo, mẹ là liền chị quan họ. Từng là Trưởng Đoàn văn công Tổng cục Chính trị trong kháng chiến chống Pháp, ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam. Bị kỷ luật treo bút một thời gian dài, măi đến thời kỳ "đổi mới" mới đượïc phục hồi. Những tác phẩm chính: Kịch thơ "Kiều Loan", các tập thơ "Men đá vàng", "Bên kia Sông Đuống", "Về Kinh Bắc", "99 t́nh khúc", "Văn xuôi Hoàng Cầm" .Phần chính của bài phỏng vấn này đă đăng trên báo Lao Động ngày 23.2. 2002.

Anh vừa trải qua mấy ngày thật hạnh phúc. Lễ mừng anh bước vào tuổi 80 như một dịp để ông Trời chứng tỏ rằng việc kết thúc "có hậu" cũng thường xảy ra cho những bi kịch ở đời. Con cháu thương, bạn bè yêu, người đọc ngưỡng mộ, nếu thiếu th́ có lẽ chỉ c̣n thiếu một nàng "Anna" cụ thể để anh được"ngủ đằm bên gối" giống như ông Dos mà anh có chút ganh tị [1] . Nhưng ngược lại, có thể chính cái thiếu ấy mới cho anh tiếp tục làm thơ, những bài thơ t́nh mê đắm nhất của anh lại được viết ra ở tuổi 60 – 70. Cuộc đời nhuốm màu huyền thoại của người con sông Đuống đă được báo chí khai thác nhiều lắm rồi (tuy mới chỉ nặng về những mối t́nh "chị em" này nọ). V́ vậy tôi chủ bụng: trong cuộc nh́n lại đời thơ của anh vào dịp "bát tuần khánh hạ" này chỉ tập trung vào những vấn đề của thơ anh và thơ Việt Nam mà anh tâm huyết...

Liệu anh có nghĩ là câu chuyện "nửa đêm có ai đọc cho ḿnh những ḍng thơ ấy, ḿnh chỉ việc ghi ra" mà anh hay kể sẽ tạo nên một huyền thoại khiến lao động thơ bị thần bí hoá? Thực ra trong lịch sử thơ Việt Nam, hầu như chưa có tập thơ trữ t́nh nào có tính cách một "cuốn sách thơ" ("un livre de poèmes" chứ không phải "un recueil", tập họp ngẫu nhiên), như "Về Kinh Bắc": nó được thiết kế với 7 nhịp "tuần du", huy động tổng lực kư ức và tưởng tượng về một vùng văn hoá, "nhất khí" về cảm xúc và bút pháp. Nó làm ta nhớ đến tập "Cante Hondo" của F. G. Lorca cảm hứng trên nền dân ca Andalusia Tây Ban Nha. Một tập thơ như vậy phải có "nhiều mùi dầu đèn" lắm chứ?

Hoàng Cầm:
"Về Kinh Bắc" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt, tôi như xa ĺa thế giới thực tại để ch́m đắm rất sâu vào kỷ niệm quê hương, kỷ niệm thời thơ ấu... Tôi viết cả tập thơ trong ṿng hơn năm tháng, bắt đầu trước Tết năm Canh Tư tức là cuối 1959 đầu 1960. Vợ tôi rất hiểu nỗi băn khoăn sáng tạo của chồng, trong cảnh nghèo túng khổ sở bà ấy vẫn tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn toàn rảnh rang, không có một người vợ như thế chưa chắc tôi đă làm xong tập thơ. Nhiều đêm tôi thức trắng, và trong những lúc ấy, quả thật đôi khi như có giọng người nữ nào đọc lên những câu thơ, đặc biệt là bài "Lá diêu bông". Nhưng đó chẳng qua v́ khi ḿnh sống hoàn toàn với những ǵ đă ăn sâu nhất vào ḷng ḿnh, đă biến thành tế bào của ḿnh th́ tự nhiên nó bật ra. Nh́n chung th́ lao động cả tập "Về Kinh Bắc" khổ lắm chứ, có khi cả đêm loay hoay với một bài, cân nhắc từng chữ từng câu, cân nhắc sự phối hợp ư trước ư sau, câu trước câu sau, cân nhắc hiệu quả của nhịp điệu, âm hưởng. Như bài "Tam cúc", câu kết của nó đến bây giờ tôi vẫn băn khoăn. Lúc đầu tôi viết: "Một chiếc xe đen đi chân trời". Thời gian sau tôi bỗng nghĩ: câu thơ này sẽ vận vào ḿnh, thế này th́ khác ǵ một cái xe tang đưa xác ḿnh? Thế là tôi suy nghĩ để t́m câu kết khác. "Em đứng nh́n theo em gọi đôi" th́ lạc quan hơn, nó có chiều mở ra. Nhưng cho đến nay vẫn có những bạn làm thơ và kể cả sinh viên bảo vệ câu thơ cũ của tôi, cho là hay hơn, ám ảnh hơn. V́ vậy trong một lần xuất bản tôi phải chú thích: Bài này c̣n một câu kết khác: Một chiếc xe đen... tác giả phân vân, c̣n tùy độc giả chọn.

Ba bài "Cây, lá, quả" (Cây tam cúc, Lá diêu bông, Quả vườn ổi) có số mệnh thật lạ lùng. Được hoặc bị coi là có tư tưởng chính trị này khác, nên nơi th́ đày đoạ nơi th́ tôn xưng. Sau đó có lần anh công khai cải chính đó chỉ là những bài thơ t́nh thuần túy không hàm ư ǵ khác. Bây giờ xă hội đă cởi mở, vào tuổi chẳng c̣n ǵ phải "nh́n trước nh́n sau", anh có thể có "một phút nói thật" về những bài này?

Hoàng Cầm: Chân lư chung của thơ là tổng hợp tất cả mọi sinh hoạt của xă hội, của cá nhân, của một chế độ nữa vào người ḿnh rồi thoát ra bằng thơ. Ở nước ta cái ǵ cũng là chính trị. Không thể nói là trong mấy bài ấy không có đời sống chính trị. Người ta nói những bài thơ ấy là "biểu tượng hai mặt", hay ba mặt cũng đúng, có điều ḿnh không có chủ định, do cảm xúc bị dồn nén mà vọt ra thôi. Bảo là ám chỉ chính trị cũng đúng, bảo là tâm trạng của người bị đè nén đau khổ mất mát cũng đúng, hoặc bảo là một mối t́nh tuyệt vọng cũng đúng. Khi thơ thật chân thành với chính ḿnh, và làm bằng lao động hết sức nghiêm chỉnh để từng chữ, từng chữ loé ra một cái ǵ, tất nhiên nó mang rất nhiều ư nghĩa.

"Về Kinh Bắc" có một thi pháp rất riêng, khác hẳn trào lưu chung, mặc dù ai cũng thấy là nó lấy chất liệu từ văn hoá Kinh Bắc. "Bên kia sông Đuống" cũng là Kinh Bắc, nhưng "Về Kinh Bắc" đă ở một tầng khác. Trong khi làm, anh có quan tâm đến vấn đề thi pháp "mới, cũ"? Anh có ảnh hưởng ở thơ Pháp sau chủ nghĩa lăng mạn? Lúc ấy những người bạn cùng số phận với anh như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đ́nh Hưng đều có quyết tâm cách tân thi pháp, Trần Dần thường nói "phải chôn tiền chiến", anh có nghĩ như các ông ấy?


Hoàng Cầm:
Khi viết "Về Kinh Bắc" tôi không hề có ư định cách tân ǵ hết, mà chỉ viết trung thực với tâm hồn ḿnh. Tâm hồn tôi lúc bấy giờ khác hẳn thời kỳ "Bên kia sông Đuống", cũng là kỷ niệm quê hương, nhưng ch́m sâu trong ẩn ức. Tôi không thấy ḿnh ảnh hưởng trường phái thơ nào, nhưng từ trước tôi đọc khá nhiều thơ Pháp và thơ các nước dịch qua tiếng Pháp. Sau này ngẫm nghĩ th́ thấy ḿnh có ảnh hưởng của Rimbaud, Verlaine, Mallarmé, Bréton, các nhà thơ tượng trưng và siêu thực. Cùng năm 1959, không ai bảo ai, cả Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đ́nh Hưng, đều ch́m đắm vào sáng tác, và cũng không ai bảo ai, cùng hướng vào một hướng là phải đổi mới thơ đi, cứ "Tự lực văn đoàn" măi th́ khổ lắm, cứ làm theo những giọng Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, nhất là Nguyễn Bính, kéo dài quá, thế th́ giết chết nền thơ mất. Tôi cho là những nỗ lực của các anh ấy trong giai đoạn ấy thực sự có giá trị. Riêng tôi, tôi rất chăm chú về thi pháp, tôi không chịu theo một thi pháp cũ. "Bên kia sông Đuống" vẫn c̣n nhiều vương vấn cái cũ, khi làm "Về Kinh Bắc" tôi cố thoát cái cũ đi, ngay cả bài "Lá diêu bông" dù là viết ra một mạch từ đầu đến cuối như có người đọc cho, nhưng sau đó tôi vẫn xem lại xem có vương vấn cái cũ không, nếu có là tôi bỏ.

Trước "Về Kinh Bắc", anh có những tác phẩm nào có thể coi là "sự kiện"?

Hoàng Cầm:
Đầu tiên là vở kịch thơ "Kiều Loan" ḿnh viết lúc 20 tuổi (1941 – 1942) ở Bắc Giang. Định diễn ở đó, nhưng chánh xứ Pháp Luciani xoá gần hết kịch bản v́ cho rằng có hàm ư chống chính phủ bảo hộ, đưa về Hà Nội th́ Cousseau chủ nhiệm Pḥng Thông tin Tuyên truyền Báo chí của Phủ Thống sứ dùng ch́ đỏ xoá bốn màn. Măi đến năm 1946, trong không khí tưng bừng cách mạng, vở kịch mới ra mắt được. Nhưng chỉ diễn đúng một đêm ở Nhà hát Lớn th́ giặc Pháp khiêu khích, thế là phải đem về diễn ở mấy làng Phù Lưu, Đ́nh Bảng, Đông Hồ bên Bắc Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp, hai bài "Bên kia sông Đuống" và "Giữ lấy tuổi trẻ" rất được chiến sĩ yêu thích. Riêng bài "Giữ lấy tuổi trẻ" có kỷ niệm đặc biệt với Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và chiến dịch Điện Biên Phủ. Nguyên bài thơ ấy được in trên tờ báo Quân Đội Nhân Dân số đặc biệt phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, do Trần Dần và Từ Bích Hoàng phụ trách, nhưng kư tên là "em Vân", v́ bài thơ là lời một cô gái vùng tạm chiếm bị địch làm nhục, gửi thư cho các chiến sĩ xin các anh trả thù. Tướng Giáp đọc rất xúc động, hỏi ông Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Lê Quang Đạo ai là tác giả bài thơ. Ông Đạo trả lời: đó là thơ quần chúng. Tướng Giáp không chịu, nói chắc chắn phải là nhà thơ chuyên nghiệp, và sẵn sàng đánh cược đó là Hoàng Cầm. Sau việc ấy, tôi được thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng 2, những buổi liên hoan có mặt tướng Gíap là ông đ̣i tôi ngâm bài "Giữ lấy tuổi trẻ".

Anh là một trong số không nhiều nhà thơ thuộc loại rất được ḷng quần chúng. H́nh như các bạn thơ của anh cũng coi anh là nhà thơ "polulaire" theo ư không cao lắm. Quả thực có những bài của anh như "Đêm liên hoan", "Giữ lấy tuổi trẻ" rất phổ biến một thời nhưng giá trị không thực sự lâu bền. Trong khi đó, các bạn thơ của anh không may mắn thế. Các lối thơ "cách tân" của họ rất khó vào ngay cả làng thơ chứ đừng nói công chúng. Vậy sự "may mắn" của anh, anh thấy nó có lợi ǵ thực sự cho thơ ḿnh?

Hoàng Cầm: Tôi thấy khi ḿnh bị dồn nén, chèn ép hoặc thế nào đó khiến ḿnh phải tự lấy hết sức chống chọi th́ khi ấy thơ được lợi hơn, c̣n sự chào đón, ngưỡng mộ th́ làm cho ḿnh hạnh phúc, tự hào, thấy đời đáng sống, chứ hầu như không lợi cho thơ. Tất nhiên nhà thơ cũng là con người, chẳng ai muốn bị khổ sở, nhưng nhiều khi những cái làm cho ḿnh thiệt tḥi, đau khổ lại làm tốt cho thơ ḿnh.

Phải ba mươi năm sau,"Về Kinh Bắc" và những tập thơ cách tân của nhóm các anh mới được biết đến rộng răi nhờ "đổi mới". Mười năm đổi mới cũng xuất hiện một thế hệ thơ mới, theo anh thế hệ này có đóng góp được ǵ cho sự tiến lên của thơ Việt Nam không?

Hoàng Cầm:
Thế hệ mà độ tuổi đă chững chạc vào cuối những năm 80 có ghi được một vài cái mới... Thế hệ thực sự của thời đổi mới, sinh ra từ ngày thống nhất đất nước, bắt đầu có những cái mới rất đáng khích lệ, mới thật sự chứ không phải giả tạo, mới trong cách biểu hiện, ngôn ngữ, trong nhịp điệu, h́nh tượng... Nó là những cái mầm, trắng nơn hoặc xanh non, hoặc hồng hồng, khá là đẹp mắt. Không ít đâu, rất đáng mừng, nhưng chỉ cần một trận mưa to là mất thôi. Rất tiếc là thiếu những "bà đỡ", thiếu người bảo vệ, thật là vô cùng thiệt tḥi cho họ. Hồi trước, khi Đặng Đ́nh Hưng mới viết được bài thơ "Cửa Ô", chính Trần Dần, người làm thơ đi trước, với t́nh bạn chân thành đă chỉ ra cho Hưng chỗ hay, chỗ dở, chỗ mới, chỗ cũ. Hưng theo chỉ dẫn ấy mà thành một tác giả rất độc đáo. Tóm lại phê b́nh phải là người bạn đồng hành với những ǵ mới manh nha, làm người bạn của tác giả, giúp cho tác giả tự phát hiện ḿnh thêm mà tiếp tục hoàn thiện trên con đường mới. Tiếc rằng đời sống văn học của ta không có được điều ấy.

Nói đến phê b́nh, người trong nghề dễ nhận ra sự lúng túng của các nhà phê b́nh trước những hiện tượng thơ mới. Phải chăng lâu nay lư luận về thi pháp thơ đă quá lạc hậu, kiến thức và thói quen cảm nhận thơ của các nhà phê b́nh quá cũ?

Hoàng Cầm:
Có phần đúng. Có một nhà phê b́nh nổi tiếng thú thật với tôi là ông không đủ điều kiện để đánh giá cái mới trong thơ. Ngay tập "Về Kinh Bắc" viết từ 40 năm trước, sinh viên bây giờ đọc thấy thích lắm nhưng đề nghị thầy phân tích rơ cái hay của nó th́ thầy chịu! Một số vị có thiện chí t́m hiểu, cố vượt qua cái ngưỡng "Bielinski" [2] , nhưng họ cũng nhiều tuổi quá rồi, lực bất ṭng tâm. Một số nhà phê b́nh c̣n trẻ như Đỗ Minh Tuấn, Phạm Xuân Nguyên, Đỗ Lai Thúy... rất thành tâm nghiên cứu nhưng họ chưa làm việc được bao nhiêu, mà đă có cái ǵ đó khiến họ như co lại. Cả một nền thơ đang sôi nổi, vận động mà không có cơ chế thẩm định, hướng dẫn đáng tin cậy, đó là điều phải nói là đau xót chứ không chỉ là đáng buồn nữa. Tờ báo Văn Nghệ th́ không nêu lên những vấn đề của thơ, một tờ báo riêng cho thơ th́ bàn măi rồi mà không ra được, thế th́ làm sao được kia chứ [3] ?

Nh́n lại một đời thơ của ḿnh ở tuổi 80, anh có thể tóm tắt cái vui cái buồn của nó trong vài câu được không?

Hoàng Cầm:
Đời thơ của tôi, kể từ năm tôi 14 tuổi cho đến nay, nếu nói về thiên chức của một người được trời phú cho làm thi sĩ th́ tôi cũng tự hào là ḿnh đă làm đúng. C̣n với hoài băo của ḿnh th́ tôi chưa thoả măn. Lúc tôi sung sức th́ bị hoàn cảnh hạn chế nhiều thứ. Mươi năm lại đây, đất nước đổi mới, bao nhiêu vấn đề đặt ra cho người làm thơ, tôi cảm thấy ḿnh có những rung động mănh liệt c̣n hơn ngày trước. Vậy mà tôi già mất rồi, sức lực không cho phép nữa. Tôi tiếc lắm.

Mới năm năm trước, anh c̣n có thể ngồi "Suzuki tống ba" chạy một ṿng Kinh Bắc "đóng phim". Năm nay có xe hơi rước mà anh cũng phải lỗi hẹn với anh em chuyến về làng quan họ. Nhưng nói đến chuyện thơ th́ anh vẫn sang sảng, say sưa như không biết mệt. Vậy chắc chắn anh c̣n ôm ấp những dự định về thơ.


Hoàng Cầm:
Về sáng tác th́ mặc dù tự biết đă đuối sức, nhưng khi một ư thơ, một tứ thơ đến, ḿnh vẫn phải cố gắng theo đuổi nó để ra được bài thơ. Ḿnh c̣n muốn tự đặt cho ḿnh một nhiệm vụ: khi thấy loé lên những tia tốt đẹp trong thơ của anh em trẻ, ḿnh phải viết để bảo vệ, để họ vững ḷng đi theo hướng của họ. Ḿnh không biết như thế có tác dụng ǵ không, nhưng ít ra ḿnh cứ làm theo cái ḷng thành của ḿnh. Ḿnh sắp tập họp những bài thơ làm từ 1995 đến nay mà chưa in, để in thành tập, độ 50 bài, trong đó có những bài thể nghiệm về thi pháp, có thể người hoan nghênh người đả đảo, song chuyện đó ḿnh không quan tâm.

Xin chúc anh vẫn đủ sức để c̣n nghe được tiếng "chị Thơ"sai đi t́m chiếc "lá diêu bông" của vĩnh cửu.


[1]Những từ trong ngoặc kép lấy ở bài thơ "Bao giờ nói hết", trong đó Hoàng Cầm chú thích: Anna Grigorievna 20 tuổi trẻ đẹp t́nh nguyện và kiên quyết kết hôn với Dostoievski khi ấy 45 tuổi, già yếu cô đơn, nghèo nàn và bệnh tật.
[2]Nhà phê b́nh Nga (1811-1844), người có công làm cho chủ nghĩa hiện thực chiến thắng trong văn học Nga lúc đó. Các nhà lư luận phê b́nh ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 được đào tạo theo hệ thống Liên Xô chịu ảnh hưởng chủ yếu từ các nhà mỹ học dân chủ Nga thế kỷ 19 trong đó có Bielinski.
[3]Chú thích của talawas: vào thời điểm này, báo Văn Nghệ chưa ra Phụ San Thơ

 

Hoàng Cầm

Nguyễn Đ́nh Thi trong tôi -Nguyễn Đ́nh Thi ngoài tôi

Hồi kí

 

Hương hồn anh Nguyễn Đ́nh Thi linh giám


Anh Thi ơi!

Hà nội, nơi địa linh đă nuôi dưỡng và tạo nên biết bao nhiêu nhân kiệt cho dân tộc chúng ta, nơi chính anh đă để lại cho đời một khúc tráng ca duyên dáng hào hùng: "Đây Hồ Gươm... Hồng Hà...Hồ Tây..." để hôm nay anh đi vào cơi phiêu diêu những Lư Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Nguyễn Trăi..., những Hồ Xuân Hương, Lê Ngọc Hân, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều và lung linh những Tản Đà, Hàn Mặc Tử. Anh về cơi ấy anh sẽ đứng đâu trong cái bầu hư vô xanh xám kia, chắc hẳn con cháu chúng ta sau này rồi sẽ nhận rơ.
Nhưng có thật là duyên nợ không, hay do hai người mang hai bản chất ngược chiều nên suốt 60 năm, mặc dầu có nhiều lúc rất gần nhau mà không hiểu sao, anh và tôi vẫn cứ rượt ra khỏi cái đáng lẽ ra phải có Ngọn lửa tôi nhen lên chưa kịp ấm đă tắt. Tôi nâng tàu lá sen hứng vừa tṛn một giọt sương mai, giọt sương thoắt đă bốc hơi. Như trên biển lớn, thuyền nan tôi cố bơi đến với anh, thoắt cái anh đă xa, vẫn nh́n thấy nhau mà xa, xa tít tắp. Khi viết bài này, tôi đă phải cố gắng nối lại sợi dây đứt quăng nhiều đoạn. Những trang tâm sự rất chân thực này, xin gửi với đất với trời, gửi đến hương hồn anh, hẳn anh sẽ chứng giám cho ḷng thành của tôi, nếu có điều ǵ linh hồn anh khó chấp nhận cũng mong anh lượng thứ.


I.

Ngay khi mở đầu những năm bốn mươi của thế kỷ trước, người ta thấy xuất hiện một cái tên tác giả trên b́a những cuốn sách khảo cứu dày cộm: khảo cứu dịch thuật, giới thiệu đôi ba triết thuyết phương Tây. Nào Kant, Nietzche, Descartes. Một cái tên rất mới mẻ, trẻ trung và tươi tắn như đang muốn bay ra khỏi tủ kính những hiệu sách lớn ở Hà nội: Nguyễn Đ́nh Thi.

Năm ấy tôi cũng vừa chân ướt chân ráo bén mảng vào một cái làng nghe ra có vẻ xa hoa, lại có vẻ hỗn độn kiêu kỳ mà hấp dẫn lắm: làng Văn. Một anh trai quê măi tới năm 16 tuổi (1938) mới biết đến cái cầu Đu-me (tên ta là cầu Long Biên), đứng trước cái nguy nga tráng lệ của những lâu đài, dinh thự và cuộc sống náo động đô thành, tôi chỉ là anh học tṛ ngây ngô, như h́nh thù một chữ trong từ điển Larousse của Pháp thời bấy giờ: lơ nha quê (người nhà quê). Anh trai quê là tôi lúc ấy, lấy làm kính phục một người cầm bút chắc cũng xấp xỉ tuổi ḿnh đă bạo gan và kiên nhẫn bỏ ra một đống th́ giờ hẳn là khá lớn để giới thiệu cho độc giả Việt nam biết đến những nhà triết học đồ sộ của thế giới.
Thời gian ấy, tôi đă có cái bằng tú tài toàn phần. Mà anh Thi chắc cũng đă là cậu tú chỉ sau tôi vài năm. Tôi không chịu đi làm, hoặc thi vào một trường cao đẳng nào của xứ thuộc địa, mà chỉ mải mê chơi: chơi kịch, chăn thơ, chơi ả đào. Có lẽ v́ giang hồ mê chơi" [1] như thế, nên từ năm 1940 đến 1945, tôi sống ở Hà nội luôn mà chẳng một tổ chức chính trị nào của cách mạng thèm chú ư đến một anh thi sĩ trẻ mà chăn dắt cho cậu ta hoạt động trong các đoàn thể của Việt Minh như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Đ́nh Thi, Nam Cao... (Câu hỏi này là lời tôi tự vấn vào cuối năm 1948 khi tôi đă bước đi vững vàng trên đường kháng chiến chống Pháp). Tôi hoang mang khi tự giải đáp cho ḿnh cái điều thắc mắc ấy, không biết nên buồn hay không buồn.

II.

Thế là ...Cách mạng tháng Tám đă thành công, lần đầu tôi gặp Nguyễn Đ́nh Thi. Bấy giờ, tuy tôi cũng đă là anh bí thư đoàn thanh niên cứu quốc xă Lạc Thổ, làng quê gốc của tôi, những khi ra Hà nội, với ḷng mong muốn thiết tha được biết mặt Cụ Hồ, tôi vẫn là anh lơ nhà quê với dáng vẻ quê mùa, trước một đại biểu Quốc dân đại hội Tân Trào, một uỷ viên trong uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, mà có mấy anh bạn thân giới thiệu tên là Nguyễn Đ́nh Thi cái tên mới lạ tôi đă biết từ năm 1942 trên b́a mấy quyền sách triết học dày cộp ấy. Trước mặt tôi, sừng sững một anh chàng cao lớn, da ngăm ngăm đen, đôi mắt tinh anh, giọng nói uyển chuyển ấm áp. Đặc biệt là bộ âu phục sang trọng đắt tiền, màu đen óng chuốt, cái ca vát đỏ tươi màu mào gà, khiến tôi cảm thấy anh đúng là h́nh ảnh tiêu biểu cho khí thế cách mạng lúc mới giành được chính quyền. Đôi giày da đen đánh bóng càng làm tăng cái uy phong của một nhà cách mạng trẻ tuổi. C̣n tôi chỉ như cậu bé ngu ngơ lẽo đẽo đi theo ở đằng đuôi. Nỗi mặc cảm này ngự trị trong tôi suốt từ ngày Tổng khởi nghĩa ở Hà nội cho đến khi lên Việt Bắc, tôi gia nhập Vệ quốc quân.


III.

Trước Tổng khởi nghĩa, một nhóm văn nghệ sĩ tự do chúng tôi đă thành lập một ban kịch lấy tên là Đông Phương. Theo sự chỉ đạo của cán bộ Việt Minh tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi thường lưu động diễn nhiều vở kịch ngắn ở sân đ́nh, sân chùa các làng thuộc huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, có khi ở cả Hà nội, Hải pḥng... Cách mạng có chính quyền rồi, chúng tôi càng ra sức củng cố và phát triển ban kịch với khát vọng sẽ công diễn được vở kịch thơ lịch sử quy mô là kịch thơ Kiều Loan mà tôi đă viết xong từ cuối 1943.
Theo gợi ư của các bạn mà tôi quen biết từ khi mới vào làng văn (1943) là các anh Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nam Cao, tôi đă viết một lá đơn tŕnh Hội Văn hoá cứu quốc tŕnh kịch bản Kiều Loan cùng lời kiến nghị xin Hội trợ cấp tài chính ít nhiều, để động viên ban kịch Đông Phương chúng tôi khởi công dàn dựng Kiều Loan cho kịp ngày khai mạc Đại hội Văn hoá toàn quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ chủ toạ đại hội này). Tôi đưa đơn đến tận tay anh Nguyễn Đ́nh Thi, lúc đó đang là Tổng thư kư Hội Văn hoá cứu quốc, đơn kèm theo kịch Kiều Loan. Rồi tôi hồi hộp chờ đợi...

Với tôi hồi ấy cách mạng như một người khổng lồ mà tôi th́ bé bỏng xa lạ quá. Cái uy thế của cách mạng tôi không thấy rơ lắm ở những người như các anh Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Kim Lân, Nguyên Hồng, nhưng lại thấy nổi bật hẳn lên ở anh Nguyễn Đ́nh Thi. Ngồi trước mặt anh, bên cái bàn giấy lộng lẫy có đủ cả máy điện thoại và hai chồng sách dày, b́a cứng in nổi chữ vàng chữ bạc: Các Mác với vấn đề văn hoá, Tư bản luận, Chống Du-ring...tôi hoa cả mắt và cảm thấy ḿnh là con chim chích vào rừng...

Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu câu chuyện của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng:
- Tôi đă nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đă giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đă đọc qua ...
Vừa nói, anh Thi vừa rút ở cái cặp da đen bóng tập bản thảo vở kịch đánh máy của tôi. Anh trao nó cho tôi với một nhếch mép cười mà cho đến nay tôi vẫn không sao hiểu được, nhất là câu nói ngay sau cái cười nửa miệng ấy:
- Rằng hay th́ thật là hay!

Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ư bảo tôi "Về đi!". Cũng để cho anh lính mới làng văn biết rằng mỗi giờ mỗi phút với anh Thi là vàng ngọc đấy! Tôi thấy ḿnh như bé quá, bất cứ lúc nào nhớ đến anh, bất cứ ở đâu, lời anh nói khi đưa trả tôi kịch bản Kiều Loan vẫn cứ day dứt trong tâm trí ḿnh: Một lời khen ư? Không chứng minh được! Một liên hệ giữa câu Kiều ấy với thời đại ta đang sống? Cũng không đến mức to tát thế.

Hoặc giả là một ư so sánh nhân vật Kiều Loan với nhân vật Thuư Kiều!

Rằng hay th́ thật là hay... Chưa đến lúc b́nh phẩm như vậy, v́ đă nói ǵ với nhau đâu về cái tác phẩm kịch thơ ấy của tôi.


IV.

Dạo ấy, tôi cũng đang theo đuổi một người nữ đẹp và sắc sảo, gần một năm mà chưa nên hoa trái ǵ, tôi có viết mấy câu thơ, vẫn c̣n nhớ đến bây giờ. Tiện đây, xin được chép ra, cũng là để liên hệ đến sự giao thiệp giữa tôi và anh Thi từ năm 1945.

Có ban mai mơ hồ
Bấp bênh thuyền sóng lũ
Có mấy chiều đổ mưa
Con bướm nào đă ngủ

Có phải mũi tên thần mũi tên thần
Lao nhanh vào ánh lửa
Hay leo teo sợi cỏ
Nghiêng sang mùa du xuân?

Gió bay đi mù khơi
Phải chăng là băo tố
Phải chăng là duyên số
Mà xa nhau thật rồi.


Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lư cho ông Tố Hữu. Vốn là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đă làm thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân Khoát. Bấy giờ, Hội đă tập hợp được hầu hết những văn nghệ sĩ có tên tuổi, anh Lê Đạt thấy không khí trong cơ quan Hội có vẻ bằng phẳng trầm lặng quá, con người ưa hoạt động như anh h́nh như rất khó chịu. Anh bèn nghĩ ra mấy việc nhằm khuấy động cái không khí công chức ấy lên, tạo ra một không khí chiến đấu, luôn luôn sôi động, gây men sáng tạo liên tục và mạnh mẽ. Vậy th́, Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đ́nh Thi. Tôi không dự "cuộc thơ" chắc là lư thú ấy! Ít lâu sau cuộc tranh luận về thơ làm chấn động ít nhiều dư luận trong giới văn nghệ ở Việt Bắc, t́nh cờ, một hôm tôi gặp anh Thi trên đường Thái Nguyên - Đại Từ. Anh Thi cùng đi với Trọng Hứa và Nhị Ca. Gặp tôi, anh Thi chỉ chào hỏi qua quít rồi lại cúi xuống đọc một xấp giấy đánh máy, như là một tài liệu ǵ quan trọng lắm, nhân lúc nghỉ chân cần phải tranh thủ đọc lại. Tôi hơi buồn bèn quay sang tán chuyện với Nhị Ca và Trọng Hứa cũng làm việc ở văn pḥng hội (bấy giờ cơ quan Hội đóng ở bản Yên Giă, huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Anh Nhị Ca sôi nổi cho tôi biết về cuộc tranh luận thơ không vần từ tháng trước, giọng Nhị Ca rất vui, anh nói:
- Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu th́ có lẽ cũng góp được nhiều ư kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. C̣n một tá những ông già khác không chịu nói ǵ, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một trận đ̣n đếch căi vào đâu được.

Tôi ôn tồn nói với Nhị Ca, nhưng chính là để nói với anh Thi đang ngồi bên cạnh:
- Cái dở ngay từ đầu dẫn đến thất bại của thơ tự do hôm ấy là tại các cậu đặt vấn đề sai. Nói chuyện thơ, chẳng ai và chẳng lúc nào, chẳng chỗ nào có cái thể loại thơ không vần để đem ra làm chủ đề tranh luận cả. Chỉ có thơ và thơ. C̣n về chất lượng chỉ nên bàn thế nào là thơ hay, thơ xoàng, thơ tồi. Về h́nh thức, có khi trong một bài có những câu dài dằng dặc đến 12, 14 chữ, như trong Tương Tiến Tửu của Lư Bạch, câu đầu 17 chữ rồi câu thứ hai cũng 17 chữ chạy liền một mạch như rượu chảy ồng ộc ở chai ra. Tất cả đều phải gọi là thể thơ tự do. Tại các cậu đưa ra thảo luận về thơ không vần của Nguyễn Đ́nh Thi làm như nó là một thể loại thơ đă định h́nh từ lâu, mà ở nước ta bây giờ mới có Nguyễn Đ́nh Thi là người dám đem ra sử dụng vậy. Vấn đề các cậu đặt ra để thảo luận là thế nên ông Lành mới có cớ để phê phán và bác bỏ cái loại thơ này. C̣n nếu chỉ đề ra thảo luận Về một số bài thơ gần đây của Nguyễn Đ́nh Thi th́ chẳng ai dám bảo đó là loại thơ "vô dụng, phí giấy mực" như lời ông Lành kết luận.

Tôi nói một tràng như thế, hai anh Nhị Ca và Trọng Hứa đều ngồi yên lắng nghe. Tôi thấy anh Thi có thay đổi thái độ đôi chút. Lúc đầu, anh vẫn chăm chú vào mấy trang đánh máy. Khi tôi nói đến nửa chừng, anh nh́n tôi một thoáng rồi buông tập giấy xuống bên cạnh, mắt đăm đăm nh́n ra quả đồi có vài khóm trúc trước mặt, như vẫn chăm chú nghe. Có lẽ v́ những câu nói của tôi có ư bênh vực cho những bài thơ của anh bị ông Tố Hữu nặng nề phê phán chăng? Khi chia tay, tôi trở ngược, ba anh về xuôi, trong cái bắt tay tạm biệt, tôi nh́n thẳng vào mắt anh Thi. Tôi thấy, vâng, đúng thế, lần đầu tiên anh Thi hé ra một nụ cười hồn nhiên và thành thực tuy có đôi chút e dè.

Và rồi câu nói sau cùng của anh cũng như bắt đầu một hơi thở chân thực trước một người "đồng chí, đồng nghiệp, bạn chưa hẳn là bạn". "Hôm nay gặp Cầm, ḿnh rất vui". Cái dáng vẻ lịch sự xă giao, vẻ vồn vă ân cần rất kiêu kỳ, thái độ dửng dưng từ lần đầu tiên đến hôm ấy đă gần bốn năm, tôi cảm thấy với anh thật khó gần. Về sau, thắng Điện Biên Phủ rồi, về Hà nội, có lần gặp anh Lê Đạt, tôi cũng trách anh đă đặt sai chủ đề thảo luận đến nỗi làm anh Thi cụt mất hứng làm thơ. Tài năng h́nh như không theo tỉ lệ thuận với tầm vóc con người và chức danh trong xă hội. Cho đến hôm ấy, dẫu là gặp nhau t́nh cờ, tôi vẫn chưa thấy một lần nào anh Thi sống thật như tuột nghệ sĩ, một thi sĩ đích thực.
Anh luôn có ba bốn con người đối lập cùng chung sống trong một cơ thể cường tráng, một khối óc bề bộn nhiều triết thuyết, tưởng như thông tuệ mà yếu ớt, một tâm hồn đầy đam mê mà đâm ra lúng túng, tinh tường mà lắm nỗi rối ren. Tôi có một vài kỷ niệm cũng vui và cũng hơi buồn về bản chất đam mê của anh.


V.

Năm 1954, đoàn văn công Tổng cục Chính trị được lệnh về tiếp quản thủ đô. Đoàn của chúng tôi hơn bảy chục người, được cấp trên cho kén chọn những diễn viên ưu tú nhất trong số hơn hai trăm nam nữ diễn viên và nhạc sĩ, kịch sĩ ưu tú của loàn quân. Đoàn đóng quân và làm việc ở mấy toà biệt thự đối diện nhà thờ Liễu Giai. Suốt thời gian từ ngày 10.10.1954 đến hết năm dương lịch, hầu như chúng tôi phải biểu diễn cả ngày và đêm, ở các sân khấu thủ đô, trong sân hoặc thềm nhà một số xí nghiệp, nhà máy, công sở, trường trung học, rồi đ́nh chùa, sân phơi thóc các thôn làng ngoại thành. Thường th́ đêm diễn, ngày phải ôn luyện rất nhiều tiết mục đơn ca, tốp ca, đồng ca, ngâm thơ, kịch nói, kịch dân ca, múa dân tộc, múa nước ngoài... Công việc th́ bề bộn mà kỷ luật làm việc trong quân đội lại rất nghiêm, hầu như không có ngày nghỉ trong cả tuần, cả tháng.
Trong những ngày tháng tưng bừng rộn ră ấy, anh Thi c̣n phải nằm điều dưỡng ở Quế lâm, Trung Quốc. Đầu năm 1955, tôi mới thấy anh xuất hiện ở Hà nội. Một sớm vào khoảng 8 giờ, các diễn viên của tôi đă bắt đầu vào chương tŕnh luyện tập. Anh Thi đi xe đạp thẳng đến cái biệt thự được chọn làm trụ sở của đoàn. Được báo tin có khách, tôi với xuống nhà, anh Thi bắt tay tôi rất ân cần và nói se sẽ nhưng khẩn khoản:
- Anh Cầm, cho phép ḿnh gặp Th. L. một lát, chỉ dám xin anh mười phút thôi.

Trước sau, dẫu suốt 8 năm kháng chiến chống Pháp, với tôi, anh Thi rất "người dưng nước lă", nhưng tôi vẫn giữ một ḷng yêu mến kính trọng anh. Thấy anh nói có vẻ khẩn khoản, ḷng tôi có cảm giác của người đồng t́nh đồng điệu, v́ con người tôi thật ra cũng thuộc về cái "ṇi t́nh" từ cái thuở "em 12 tuổi t́m theo chị" [2] . Tôi bèn cười rất "bầu bạn" cởi mở, phá tan ngay cái không khí rụt rè, khép nép kia đi:
- Anh Thi, sao lại mười phút? Mời anh vào pḥng làm việc riêng của tôi. Thi có thể chuyện tṛ với cô ấy ít nhất trong ṿng một giờ .

Tôi dẫn anh vào pḥng, anh cần vụ của đoàn mang lên một phích nước sôi, ấm chén và một gói trà loại ngon nhất. Tôi thân mật nói:
- Thi ngồi đây nhá. Ḿnh sang chỗ pḥng tập, mời Th. L. về.
Anh Thi hơi cúi đầu, vẻ mặt rạng rỡ. Tôi sang pḥng tập yêu cầu nhạc sĩ Lê Đoá chuyển cái tiết mục có Th. L. tập ấy xuống dưới, cách ra độ một tiếng và dẫn Th. L. về gặp anh Thi. Thấy Th. L. hơi ngần ngại, tôi phải nói ngay:
- Ô hay! Có việc ǵ ghê gớm đâu mà trông em có vẻ sợ sệt thế! Chả là anh Nguyễn Đ́nh Thi, bạn anh, là Tổng thư kí Hội Văn nghệ ấy mà, anh Thi muốn gặp em để hỏi chuyện về nghệ thuật ca múa thôi, em có đồng ư cho anh ấy gặp em không?
Cô Th. L. vẫn có vẻ e dè, tôi nói vui:
- Em th́ chắc là chưa quen biết lắm. Anh Thi cũng như anh thôi mà. Anh chị em cùng một gia đ́nh văn nghệ sĩ cả, có quan to quan bé ǵ đâu mà em ngại. Nào nếu em đồng ư th́ đi với anh.

Tuy khép nép, Th. L. vẫn tươi tỉnh đi theo tôi. Th. L. mới 18 tuổi c̣n rất ngây thơ, nhưng tôi tin cuộc "tao ngộ" giũa một người lănh đạo văn nghệ từng trải và một diễn viên múa mà tôi vui ḷng thu xếp cho cuộc gặp này, dẫu chẳng đi tới chỗ tốt đẹp cho cả hai người th́ cũng "vô thưởng vô phạt". Sau buổi đó, tôi nghĩ tôi với anh Thi sẽ trở thành hai người bạn thơ khăng khít, cùng đem hết khả năng để cùng làm việc cho một nền thi ca rực rỡ của dân tộc và đất nước. Vậy mà, rồi sau, có lẽ do vị trí xă hội của hai người có một khoảng cách khá xa nên không vẫn hoàn toàn không.

Trong ṿng một tháng, vẫn ở chỗ ấy anh Thi c̣n đến thêm hai lần nữa, mỗi lần có rút ngắn thời gian lại, lần sau ngắn hơn lần trước, cho đến một hôm, sau tết âm lịch, cô Th. L. có mạnh dạn đến gặp tôi và rụt rè nói rất nhỏ:
- Anh ơi! Từ nay về sau anh đừng bắt em gặp anh Thi nữa nhé.
Tôi hơi sửng sốt và cũng thấy ngượng ngùng đành phải nói với Th. L.:
- Khổ! Có bao giờ anh "bắt" em phải gặp anh Thi đâu? Th. L. cứ nhớ xem, lần nào anh cũng hỏi lại: có đồng ư không? Em gật đâu rồi anh mới đưa em đến. Đúng không? Thôi được em không đồng ư nữa th́ thôi. Đừng bao giờ nghĩ rằng anh cậy là người chỉ huy bắt buộc em phải làm việc này việc nọ nhé!
Th. L. lúc đó mới tươi tỉnh:
- Vâng, em không dám nghĩ thực. Chỉ v́ em nể anh quá mà anh Thi cũng rất tốt với em. Vậy em xin lỗi. Em cảm ơn anh.

Bẵng đi đến ba tuần lễ, không thấy anh Thi đến. Một buổi tối, đoàn văn công chúng tôi đă mở màn đêm diễn trong sân nhà máy điện Yên Phụ, tiết mục đầu: Ca cảnh giải phóng Điện Biên của Đỗ Nhuận vừa xong th́ anh Thi lại đột ngột xuất hiện sau cánh gà sân khấu ngoài trời. Anh rụt rè nói với tôi vẫn cái giọng giao đăi:
- Anh Cầm ơi! Thật phiền anh quá. V́ công việc vội, xin phép anh cho ḿnh gặp B. D. độ dăm bảy phút thôi.

Tối ấy dẫu tôi thấy cũng hơi "phiền" thật tôi vẫn bị cái thói quen "cả nể" nó lấp mất lư trí. Lại vẫn cái "ṇi t́nh", khiến tôi thấy cảm thông ngay với người bạn-chưa-bao-giờ- thân-thiết-ấy, và tôi lại thu xếp như các lần trước. Rồi lại phải nói khó với Hồng Minh, là người chỉ huy đêm diễn:
- Cậu giúp ḿnh, cái tiết mục có B. D. diễn ấy, nếu nó sắp tới rồi th́ cậu chuyển nó xuống cuối chương tŕnh, chỉ ra trước cái "sạp" thôi... (đêm diễn nào, điệu nhảy "sạp" cũng là tiết mục kết thúc).
Hồng Minh chẳng nghe tôi một cách dễ dàng như Lê Đoá, anh hỏi lại đoàn trưởng một cách nghiêm chỉnh:
- V́ sao thế anh? Cái tiết mục này khá dài, mà đi với cái "sạp" kết thúc th́ em sợ...khán giả người ta hơi nản đấy anh ạ. Vả lại hai cái múa đi liền với nhau e rằng... Từ trước, có ai sắp xếp chương tŕnh, tiết mục một đêm diễn như thế đâu? Có thật cần phải chuyển chương tŕnh như thế không anh?
Khó lư giải cái "lệnh" rất vô nghĩa của ḿnh quá, tôi đành nói thật, tuy rằng vẫn là dối trá:
- Hồng Minh à, cậu biết anh Thi rồi chứ? Bạn thân của ḿnh đấy!
Mỗi lần nói đến anh Thi bằng hai tiếng "bạn thân" tôi cảm thấy ngường ngượng v́ cứ nghĩ rằng người nghe sẽ tưởng ḿnh "thấy người sang bắt quàng làm họ". Ai không biết anh Nguyễn Đ́nh Thi lúc ấy có uy danh rất cao trong số văn nghệ sĩ trẻ, lănh đạo Hội chỉ đứng sau một người (là ông Tố Hữu thôi). C̣n tôi, đă không là đảng viên, lại chẳng có vai vế ǵ bên Hội cả, chỉ có mấy bài thơ nổi tiếng tạm thời lúc kháng chiến ban đầu như Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa, Bên kia sông Đuống, sự nổi tiếng ấy cũng chỉ lặng lẽ, ch́m lắng trong một số cán bộ dân sự và quân sự, chưa lúc nào ồn ào, phơi lên mặt báo hay trong hội nghị nào ở đâu cả.
- Bạn thân của ḿnh đấy Minh ạ. Mai anh ấy phải sang Liên Xô từ sớm, anh Thi cần gặp một diễn viên múa ưu tú vào loại nhất, chắc là để hỏi kinh nghiệm và tài liệu để trao đổi với các bạn văn nghệ sĩ Nga hay Tiệp, hay Đức, Pháp ǵ ǵ đó nên anh ấy mới cần gặp B.D. ngay.

Tôi viện lư do bằng cách nói dối Hồng Minh như vậy. Mà cũng chỉ là chiều theo ư riêng một người tôi yêu mến, tuy bạn chẳng phải là bạn, cấp trên chẳng phải cấp trên. Vả lại, từ khi "nhập thế cục" tôi chưa bao giờ biết nịnh nọt ai, tâng bốc ai. Mà ngược lại, đôi lúc thẳng thắn phê b́nh ai đó lại đâm ra dại dột, chuốc lấy vạ vào thân.

Vốn là cán bộ trong quân đội đă lâu, Hồng Minh rất vui tính, hay bông đùa, rất tinh ranh khi vặn tôi thêm một câu nữa, tôi đă không trả lời được lại c̣n bị ngượng đến đần mặt ra trước anh cấp dưới thân thiết mà tinh quái của ḿnh.
- Sao anh Thi không hỏi em để lấy kinh nghiệm ca múa? Em vừa là nhạc sĩ, vừa là biên đạo múa th́ lại không hỏi, mà lại hỏi một cô mới nhập môn có 6 tháng. Chắc hẳn em kém cô B.D. v́ trời sinh ra em lại không phải là cô gái 20 tuổi có nhan sắc. Thôi được rồi. Em xin nghe lệnh đoàn trưởng để "bạn thân" của anh có nhiều thành tích v́ t́nh nó đang thách anh Thi ấy mà.

Nhiều lúc anh Hồng Minh này "chơi chữ rất tài t́nh như thế đó. Rồi cậu ta ôm lấy tôi rất thắm thiết, cười rất tế nhị rồi chạy ngay đến chỗ đội múa đă chuẩn bị để ra sân khấu tŕnh diễn.

Đêm ấy, anh Thi được phép mời cô B.D. sang một tiệm cà phê xế cửa nhà máy đèn, chuyện tṛ với B.D. chừng 15 phút rồi quay lại nói cảm ơn tôi xong th́ nhảy lên xe đạp phóng nhanh trên đường phố Châu Long. Hôm sau tôi có hỏi B.D. xem cô ấy có ư kiến ǵ về cuộc gặp không hẹn trước ấy không, liền được nghe B.D. rất phép tắc:
- Anh Cầm ơi. V́ anh nói anh Thi là bạn thân của anh, vả lại anh ấy cũng đă ngoài 30 tuổi rồi, có vợ và ba con rồi, nên em cũng coi như anh cả của em ở nhà vậy. C̣n chuyện th́ cũng có đôi điều thú vị đấy ạ. Hôm qua gặp anh Thi tự nhiên em đâm ra có thêm nhiều hiểu biết về các "bậc đàn anh" như các anh đấy - Cô B.D. cười hóm hỉnh, rồi hạ giọng nói tiếp - Nhưng từ nay, nếu anh Thi có đến xin phép anh cho gặp em th́ anh cứ từ chối kheo khéo hộ em đi anh nhá. Đừng để em...

Cô ấy ngừng lời... Rồi B.D. [3] lại cười rất vui vẻ và...thế là hết chuyện.


VI.

Vào khoảng cuối năm 1948, đoàn văn nghệ [4] lưu động của tôi nhận được một ca khúc của Nguyễn Đ́nh Thi - bài ca Người Hà nội, dưới bài có ghi thời gian sáng tác: xuân 1947.
Thời gian ấy trung đoàn thủ đô đă giam chân giặc Pháp trong thành phố thủ đô đến gần hai tháng, nện cho chúng những đ̣n ác liệt, tiêu hao khá nặng lực lượng xâm lược, làm đổ sụp cái cuồng vọng đánh nhanh thắng nhanh của chúng, buộc chúng phải chờn, phải gờm những anh vệ quốc quân và các anh sao vuông [5] của Hà nội. Tôi tin là anh Thi đă có nhiều xúc động mạnh mà cũng rất lăng mạn khi viết ca khúc này trong thời gian quân ta chiến đấu ngoan cường ở từng góc chợ, từng ngôi nhà ở Hà nội. Mà anh Thi, như h́nh ảnh tôi được tiếp xúc hồi Cách mạng tháng Tám, thật đúng là người Hà nội, mà tiếng Pháp thời ấy gọi là "Hà nội yêng" (Hanoiiên). Tôi triệu tập ngay Văn An, nhạc sĩ tài năng trong đơn vị văn nghệ của ḿnh, yêu cầu anh xướng âm và hát tạm để tôi "nghe xem thế nào" (chính là v́ tôi điếc nhạc). Mới đọc được các lời in dưới các nốt nhạc, tôi h́nh dung ra được cái hùng tráng, cái chất trữ t́nh sâu sắc của anh Thi. Tôi tin bài ca này khi đoàn tôi biểu diễn sẽ thu hút khán giả ghê lắm. Quả nhiên, anh Văn An mới tạm hát thôi, giá mà anh Thi có mặt ngay ở chỗ tôi lúc ấy chắc tôi sẽ lao vào gh́ chặt lây anh như ôm một người t́nh lần đầu trao xương gửi thịt. Tôi yêu cầu anh Văn An bố trí ngay các ca sĩ của đoàn thành một dàn đồng ca gồm hai mươi diễn viên ưu tú nhất. Diễn tập trong ṿng có ba ngày, bài hát ra mắt ngay trong một hội nghị quân sự liên khu. Tôi không ngạc nhiên v́ sự thành công vang dội của nó v́ tôi đă cảm thấy trước rồi. Từ buổi diễn ấy, bài hát được truyền ngay đến các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương và cả dân quân lan sang cả các cơ quan hành chính toàn chiến khu. Suốt năm ấy đến năm 1949, đi đâu cũng nghe thấy tiếng hát Người Hà nội, do tôi phân công nhiều nhạc sĩ, biên đạo múa và diễn viên xuống dạy hát cho các đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương toàn liên khu I. Tôi càng yêu anh Thi hơn, mặc dù anh không chú ư mấy đến anh chàng có biệt danh là "Con oanh vàng đất Bắc" này (v́ thời trẻ tôi cũng đă từng là một chàng ngâm thơ cổ, thơ mới, đủ các thể loại bằng một giọng ngâm tươi trong, có độ vang xa, có độ trầm lắng sâu, thấm vào ḷng người nghe, nên nhiều cán bộ trong quân đội tặng tôi cái danh vị khá trân trọng "Con oanh vàng đất bắc" ngay từ những ngày đầu đánh giặc Pháp).

Từ năm 1949, đoàn văn nghệ liên khu Việt Bắc do tôi làm trưởng đoàn đến tháng 7 năm 1952, tôi được đại tướng Nguyễn Chí Thanh điều động lên làm đoàn trưởng đoàn văn công tổng cục Chính trị, tiết mục bài hát Người Hà nội mà tôi rất yêu quư, luôn có mặt trong các chương tŕnh biểu diễn của đoàn. Đến nay, tôi càng vững tin rằng trong các tác phẩm của anh Nguyễn Đ́nh Thi đă ra đời (nào thơ, nào tiểu thuyết dài, ngắn, nào kịch nói, nào ca khúc, nào lư luận phê b́nh) th́ ca khúc Người Hà nội sẽ sống lâu hơn hết với tổ quốc, với nhân dân, c̣n "lâu" là bao lâu th́ không ai dám khẳng định.

Cái "ngày mai" sau khi một nghệ sĩ tài danh qua đời hao hao giống như một màn trắng sương mù, ai dám tự khoe ḿnh là người nh́n thấu được cái ngày mai của Nguyễn Du? Thi hào Tố Như cũng chỉ dám tự hỏi rằng ba trăm năm sau khi ḿnh qua đời biết c̣n ai khóc cho cái số kiếp đau khổ của ḿnh không? C̣n theo các nhà lư số học phỏng đoán, cả nhà tiên tri lớn là cụ Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ may ra nh́n trước được những việc lớn của nhân dân và đất nước ta trong ṿng ba trăm năm là cùng. Vậy nếu tôi cứ liều anh mà nói rằng: Một trăm năm nữa nghĩa là sang đầu thế kỷ XXII, dân ta c̣n nhớ và hát bài Người Hà nội th́ cũng chả ai tin, nhưng cũng không ai mắng tôi là nói láo v́ đến hôm nay ai cũng thừa nhận đó là một bài hát hay. Triết lư dân dă Việt nam nói: "yêu nên tốt", c̣n một nhà triết học phương Tây cũng đă nói: "Khi yêu, người ta thường nói bốc lên đôi chút, đó là một nét tâm lư phổ quát của mọi con người trong đời sống xă hội của mọi dân tộc, mọi thời đại". Vậy th́ anh Thi ơi, hôm nay anh cứ thanh thản mà yên nghỉ trong ḷng mảnh đất Hà nội, rồi sang đầu thế kỷ XXII tôi sẽ cùng anh thức giấc vào nửa đêm nào đó, rồi hai đứa chúng ḿnh sẽ cùng lắng nghe xem: đúng là có một đám thanh nữ h́nh như đẹp lắm và đông lắm đang hát véo von: Đây Hồ Gưom, Hồng Hà, Hồ Tây. Đây lắng hồn núi sông ngàn năm...


VII.

Tháng Chạp năm 1955, tôi chuyển ngành, tạm biệt đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị mà tôi làm trưởng đoàn đầu tiên, khi đoàn văn công đă vượt quá ngưỡng trưởng thành, phải phân ra làm nhiều đoàn chuyên ngành: đoàn kịch nói, đoàn chèo, đoàn quân nhạc, đoàn ca vũ, đoàn nhạc giao hưởng. Tôi được phân công làm trưởng đoàn kịch nói từ 1.1.1955. Cuối năm ấy (12.1955) v́ một chuyện riêng sinh ra mâu thuẫn gay gắt giữa tôi và ông Cục phó Cục tổ chức (cũng nằm trong Tổng cục Chính trị) nên tôi đă chuyển ngành sang Hội Văn nghệ Việt nam, tạm thời làm cán bộ trong nhà xuất bản Văn nghệ, đọc và duyệt rồi đưa in những tác phẩm của anh chị em văn nghệ sĩ sáng tác trong thời gian kháng chiến chống Pháp.

Một sáng đầu năm 1956, anh Thi đến nhà xuất bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ tập hợp những bài anh sáng tác từ những ngày tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến, và anh Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. Tôi đọc xong, rất thú vị v́ vẫn c̣n nguyên những bài thơ thể tự do mà lúc bấy giờ các anh Lê Đạt, Nguyễn Đ́nh Thi đặt thành một luận đề để tranh luận là thơ không vần rồi hứng lấy thất bại. Bấy giờ (1956) mà in được những bài thơ cách tân ấy th́ thật có lợi cho phong trào thơ và chỉ ít lâu nữa là có thể sánh vai b́nh đẳng với nền thơ các nước phương Tây.
Sau khi để anh em ban biên tập của nhà xuất bản đọc kỹ và thẩm định, ba ngày sau, tôi kư ngay phiếu xuất bản, gửi xuống nhà in Tiến Bộ. Tôi cũng quyết định ngay số lượng in tập Người chiến sĩ của Nguyễn Đ́nh Thi là hai mươi ngàn cuốn! (Hồi ấy, sở dĩ thơ in được nhiều thế v́ cơ quan phát hành của nhà nước sẽ phân phối sách đến các nhà sách nhân dân toàn miền Bắc rồi đến các thư viện từ trung ương đến các cấp tỉnh, huyện, xă chưa kể một số lượng không nhỏ gửi sang Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong phe xă hội chủ nghĩa).

Tập bản thảo chép rất gọn, đẹp của anh Thi vừa đưa xuống nhà in Tiến Bộ hôm trước th́ hôm sau tôi nhập được một cú điện thoại.

Chuông máy điện thoại reo, giọng nói Huế rất êm ái, rất t́nh cảm của ông Lành đầu dây bên kia. Tôi tiếp chuyện:
- Vâng, nhà xuất bản Văn nghệ đây. Tôi là Hoàng Cầm, thưa anh, có chuyện ǵ thế ạ?
- Nghe nói, nhà xuất bản Văn nghệ sắp cho in tập thơ ǵ đó của anh Nguyễn Đ́nh Thi hỉ?
- Thưa anh, đúng thế ạ. Tôi đă kư phiếu in và gửi cả bản thảo xuống nhà in Tiến Bộ rồi ạ.
- Anh Hoàng Cầm hỉ! Tôi đề nghị anh hoăn lại đừng cho in vội.
Tôi hơi sửng sốt, tuy cũng cảm thấy vấn đề này có trục trặc ǵ đó.
- Thưa anh, v́ sao thế ạ? Toàn thể anh em biên tập đă đọc và thấy tập thơ không có vấn đề ǵ sai trái với đường lối chính trị đâu ạ. Đó là một tập thơ tốt.
- Tốt th́ có tốt, nhưng bây giờ in ngay rồi phát hành đến các tầng lớp quần chúng, nhất là công, nông, binh th́ có khi lại hóa ra không tốt.
- Dạ, tôi chưa hiểu rơ ư anh về tập thơ ấy.
- Cũng đơn giản thôi, trừ một số bài, c̣n hầu hết là thơ không vần. Quần chúng độc giả của ta hiện nay, tŕnh độ cảm nhận thơ c̣n thấp, họ mà đọc tập thơ này, tôi tin chắc rằng họ không hiểu, v́ trước hết người ta khó thuộc, thơ ǵ mà lổn nhổn, câu ngắn, câu dài tuỳ tiện. Quần chúng đă khó hiểu, không thuộc th́ in ra có ích ǵ cho họ? Thơ như vậy th́ phục vụ ai?
- Vâng, thưa anh, thế th́ hoăn đến bao giờ mới in được ạ?
- Hoăn là để anh Thi sửa lại đă, sửa cho có vần có điệu quen thuộc, người ta mới hiểu, mới thích đọc rồi mới có tác dụng tốt, để anh Thi chữa, muốn bao giờ xong th́ xong. Có thể từ một đến ba tháng.
Đến đây, giọng ông Lành trong máy đột nhiên vui và rơ ràng hơn, tôi nghe cũng dễ hơn lúc trước.
- Nè, Hoàng Cầm, chừ tôi là một độc giả tŕnh độ i tờ hỉ. Tôi thử đọc một bài không vần của anh Thi nhé. Anh nghe xem liệu độc giả là công nông binh, người ta có thích không?
Rồi ông Lành đọc luôn một bài thơ không vần và quả thật có hơi trúc trắc về âm điệu ở đôi ba chỗ. Tôi nghĩ, nếu đúng độc giả là nông dân th́ cũng không thể thích được một bài thơ như thế.
Tôi lại nói như để tán thành ư kiến người lănh đạo cao nhất trong giới văn nghệ:
- Vâng, thưa anh, đúng như anh nói. Có đôi chỗ hơi lủng củng thật. Thôi để tôi cử người xuống nhà in rút bản thảo về rồi trả lại cho anh Thi.
Lúc ấy giọng ông Lành êm dịu và ấm áp hẳn lên:
- Thế c̣n Hoàng Cầm có dự định in lại Bên kia sông Đuống không? Bài thơ ấy tốt đó. Nông dân, công nhân người ta sẽ dễ nhớ đó. Thôi cảm ơn Hoàng Cầm hỉ.

Sau buổi tôi nói chuyện với ông Lành, anh Thi đă đến ngay nhà xuất bản hỏi tôi để lấy lại bản thảo. Tôi làm như không có cuộc trao đổi với ông Lành về tập thơ Người chiến sĩ.
- Anh Thi ạ, tập thơ của anh, chúng tôi thấy rất "được", có lẽ chính nó sẽ mang lại một luồng gió đổi mới cho chúng ta. Tôi đă đưa xuống nhà in rồi.
Anh Thi đáp, giọng buồn rầu, nhỏ nhẹ:
- Thôi Cầm cứ cho ḿnh xin lại bản thảo, không in vội.
- Sao thế anh Thi? Ḿnh tưởng tập thơ thế là hoàn hảo rồi? Cứ thế mà in. Tôi sẽ cho in rất đẹp và có thể mời họa sĩ Nguyễn Sáng hay Dương Bích Liên vẽ cho một phụ bản màu.
Anh Thi nài nỉ :
- Để ḿnh sửa chữa lại. Thú thật, anh Lành đă có đọc tập thơ này, trong khi anh Lành chưa có ư kiến ǵ, ḿnh muốn đưa cho Cầm để xuất bản thật nhanh. Nhưng gần đây, khi nghe nói ḿnh đă đưa bản thảo xuống nhà xuất bản th́ anh ấy gọi ḿnh lên và khuyên ḿnh nên sửa một số bài mà anh ấy cho là lủng củng. Vẫn là những ư kiến của anh ấy đă phát biểu trong kháng chiến. Ḿnh đă tranh luận với anh ấy. Cuối cùng anh Lành vẫn bảo ḿnh nên chữa lại cho độc giả công nông dễ hiểu, dễ thuộc. Thôi th́...người ta là lănh đạo mà.
Tôi chỉ c̣n một cách rất thân mật nói với anh Thi:
- Chắc anh Thi cũng thừa lư luận để hiểu rằng, không ai sửa chữa thơ ḿnh theo ư người khác, dẫu người ấy là cấp trên. Nếu không thể cưỡng lại anh Lành th́ anh cứ hoăn thật lâu, kiên quyết không sửa ǵ cả, đợi một lúc nào đó t́nh h́nh văn nghệ có biến chuyển tích cực, tôi sẽ lại đứng ra chịu trách nhiệm in cho anh. Đă là thi sĩ, hăy cố giữ cái bản sắc riêng, tội ǵ theo ư người khác để đánh mất bản ngă của ḿnh?
Anh Thi lần ngần đứng dậy, nói bằng một giọng kiên quyết tuy hơi yếu:
- Thôi, mai nhé...Tôi sẽ đến lấy bản thảo về. Mà có lẽ ḿnh theo ư Hoàng Cầm, chưa xuất bản vội. C̣n có chữa bài nào, câu nào là theo ư ḿnh chứ không theo ai cả.

Hơn một tháng sau, khoảng 5.1956, anh Thi lại cầm bản thảo Người chiến sĩ đến nhà xuất bản gặp tôi. Anh nói:
- Dẫu sao tôi cũng phải nhân nhượng ông Lành. Cũng không theo ư ông ấy hoàn toàn, nhưng v́ tôi đă là đảng viên từ lâu, cũng không muốn tỏ ra điều ǵ khiến người ta có thể kết tội ḿnh là bất tuân thượng lệnh hoặc như bây giờ người ta bảo ḿnh là cố ư không chịu sự lănh đạo của Đảng. Vậy mong Hoàng Cầm cho in thơ của ḿnh theo bản thảo này.
Trong khi đưa tay vào cái túi vải đựng khá nhiều tài liệu để lấy ra cái bản thảo tập thơ mới sửa chữa, anh Thi c̣n nói thêm một câu khiến tôi cũng đâm ra hoang mang:
- Trí thức văn nghệ sĩ chúng ḿnh đă đi với cách mạng vô sản th́ ít nhiều cũng phải hy sinh cái bản ngă của ḿnh dẫu là bản ngă tốt đẹp!
Thế là trong phút giây, tôi chợt nghĩ, Thi nói vậy có lẽ đúng chăng? Mà nói đến tinh thần cách mạng th́ ḿnh phải kém Thi rất nhiều chứ!

Anh Thi trao cho tôi tập bản thảo mới, giấy trắng, đánh máy đẹp, đóng b́a khá dày. Tôi cầm tập thơ, chỉ mới giở vài trang đầu, đă thấy có ǵ gờn gợn trong người. Hóa ra anh chữa khá nhiều. Có bài đă rất vững vàng về ư tứ, âm điệu, anh đă chữa toàn bộ thành ra đủ vần điệu kiệu cũ khiến tôi đă như bực bội. Chắc là lúc ấy, mặt tôi đỏ gay gắt và ngấm ngầm có một cái ǵ cứ trào lên nghén nghẹn ở cổ họng. Tôi đă muốn nói thật to một câu ǵ đó cho đỡ bực, nhưng may quá, tôi nén lại được. Tôi kết thúc cuộc gặp bằng giọng nói b́nh thản, gần như vô hồn:
- Vâng, để cả ban biên lập chúng tôi đọc lại. Ba ngày nữa, tức là sáng thứ bảy này, mời anh đến thảo luận lần nữa về việc in tập thơ này.

Dẫu không tán thành việc anh Thi chữa thơ ḿnh theo ư cấp trên, tôi cũng không dám chủ quan, đưa luôn tập Người chiến sĩ mới sửa chữa này đến tận tay anh em biên tập viên, yêu cầu mọi người đọc kỹ lại tập thơ rồi suy nghĩ kỹ, cho ư kiến riêng của tŕnh để chiều thứ sáu tới th́ hội ư chung trong toàn ban. Hôm ấy mới là sáng thứ hai, c̣n những bốn ngày để ba biên tập viên và tôi xem kỹ lại bản thảo. Khi giao nó cho anh em biên tập, tôi nhấn mạnh:
- Đừng ai lặp lại ư kiến thẩm định của người khác. Độc lập suy nghĩ, hết sức khách quan trước một tập thơ "có vấn đề". Quả là có vấn đề lớn về thơ nói chung, cả về thi pháp, về trào lưu cách tân thi ca nói riêng nữa sau khi kết thúc chiến tranh, mở đầu giai đoạn xây dựng ḥa b́nh.

Anh em biên tập đều làm việc rất có trách nhiệm. Các ư kiến nhận xét và thẩm định cũng có nhiều chỗ khác nhau. Đến chiều thứ sáu, khi hội ư chung th́ trong ban biên tập và tôi (tôi thay mặt anh Tô Hoài - giám đốc bận đi công tác xa) đă có ba ư kiến thống nhất với nhau:

1. Không nên xuất bản v́ xem ra nó chẳng mới mẻ ǵ, thi pháp đă không có sáng tạo lại thụt lùi về những nếp cũ hơn những tập thơ trong phong trào Thơ Mới. Rất nhiều câu chữ đă sáo ṃn.

2. Ḿnh đưa in theo bản thảo này th́ trước hết rất có hại cho chính anh Thi là một nhà thơ trẻ đang cách tân, hai là không lợi cho trào lưu đổi mới thi ca đang lên cao ở Liên Xô và các nước Đông Âu.

3. Cứ cho in ra theo bản thảo nguyên tác. Ông Lành có không ưa th́ chỉ có cách là mở ra một cuộc phê b́nh trên các báo "đánh" vào "thơ không vần", thế thôi. Mà như thế càng tốt. Sẽ có những bài báo bênh vực sự cách tân thơ.

- Quá lên nữa th́ anh Cầm bị chuyển sang công tác khác là cùng chứ ǵ? Nếu vậy th́ anh Cầm nghĩ sao?
Tôi đáp lại cái thiện chí của anh em:
- Chả phải nghĩ ǵ cả. Số mệnh nó sắp đặt cho ḿnh làm việc ǵ th́ làm việc ấy. Miễn là đúng trách nhiệm công dân và đúng chức năng thơ mà ông trời đă đặt vào con người ḿnh. Thậm chí ông Lành có cách chức ḿnh th́ ḿnh cũng không sợ chết đói. Chỉ có khổ thôi (đến đây tôi cười nói bổ bă cho tan cái không khí thảo luận nghiêm trọng từ phút đầu), nhiều khi đau khổ lại sinh ra thơ hay chưa biết chừng.
Rồi tôi nói tiếp:
- Thôi kết luận về tập thơ anh Thi nhé...Cứ trùng tŕnh vài tháng nữa rồi ta in tập Người chiến sĩ. Cứ nói với mọi người là nhà xuất bản chịu trách nhiệm. Tránh cho anh Thi đỡ phải "ăn đ̣n". C̣n bản thảo mới th́ không thể in được. Đồng ư cả chứ?
Đồng thanh đáp lại câu hỏi kết thúc cuộc hội ư chiều thứ sáu ấy:
- Đồng ư mọi vấn đề.

Sáng hôm sau, anh Thi đến. Chúng tôi mời anh ngồi vào chiếc chiếu hoa rải ngay trên sàn gác. Anh Thi hỏi ngay đến quyết định của ban biên tập. Để tránh cho anh Thi đỡ phải nghĩ rằng Hoàng Cầm quyết định theo ư riêng của cá nhân ḿnh, tôi đă dặn anh Đỗ Quang Tiến, biên tập viên truyện ngắn và kư sự, bút kư, phát biểu trước tiên với anh Thi, sẽ không ai có thể trách ban giám đốc nhà xuất bản là thiên vị, hoặc định kiến, hẹp ḥi...
- Thưa anh Nguyễn Đ́nh Thi, ban biên tập chúng tôi đều đă đọc kỹ và cân nhắc kỹ cả hai lần bản thảo tập thơ Người chiến sĩ của anh. Chúng tôi thống nhất với nhau một ư kiến là có in th́ in theo bản thảo nguyên tác anh đưa từ ba tháng trước. Nó có nhiều bài hay và thi pháp đă có nhiều đổi mới. C̣n bản thảo sau, anh chữa nhiều, anh trở về với nhiều h́nh thức cổ và cũ kỹ nên đọc thấy mất hay mà lại chóng chán, nên chúng tôi quyết định chỉ in theo bản thảo trước.
Anh Thi nói ngay:
- Anh em hiểu cho nỗi khổ tâm của tôi, nhưng xin các anh hăy chiều theo ḷng mong muốn của tác giả. Lần sửa chữa vừa rồi anh Lành rất tán thành.
Một biên tập viên khác lại nói:
- Đồng chí Tố Hữu không phải là người quyết định những chương tŕnh và chủ trương của nhà xuất bản, trừ phi đồng chí ấy cho chúng ta một cái "lệnh" bằng văn bản hẳn hoi.
Anh Thi cố gắng bảo vệ cho cái bản thảo sau của ḿnh:
- Tôi nghĩ nhà xuất bản cứ cho in theo bản thảo mới này. Bởi v́ xét đến cùng th́ tác giả nào cũng chịu trách nhiệm về tác phẩm của ḿnh trước công chúng và lịch sử.
Đến lúc ấy, mọi người đều im lặng v́ h́nh như mấy lời vừa rồi của anh Thi nghe có vẻ có lư. Tôi đành phải lên tiếng:
- Anh Thi ạ, tác giả chịu trách nhiệm của ḿnh trước lịch sử và công chúng th́ đúng quá rồi. Nhưng c̣n nhà xuất bản th́ sao? Một nhà xuất bản mà cho ra đời những cuốn sách dở, chắc chắn hàng vạn hàng triệu công chúng sẽ phê phán, chê trách, và lịch sử cũng sẽ đánh giá thấp cả nhà xuất bản nữa chứ?
Anh Thi hé ra một cái cười hiền lành, nhưng ư kiến biên tập viên và ư kiến tác giả cứ kéo co măi, dằng dai đến hơn nửa giờ nữa. Sau cùng tôi đành phải quyết định:
- Tôi đề nghị chấm dứt cuộc tranh luận ở đây, xin được kết luận như thế này, nghe xong, xin mới các đồng chí giải tán và không ai nói ǵ thêm nữa, v́ nói măi cũng chỉ có vậy. Một là nếu anh Thi đồng ư cho nhà xuất bản chúng tôi ấn hành tập thơ Người chiến sĩ nguyên tác của anh th́ chúng tôi hoan nghênh và có thể tiến hành ngay việc in ấn. C̣n nếu anh cứ khăng khăng đ̣i in theo cái bản thảo mà anh đă sửa chữa th́ nhà xuất bản kiên quyết không in. Dẫu in hay không, bất luận hậu quả thế nào, tôi xin chịu trách nhiệm trước cấp trên, trước pháp luật và trước công chúng.

Anh Thi có vẻ không được hài ḷng, mặt biến sắc, anh cầm lại tập bản thảo mới sửa sang, rồi bỏ ra về không bắt tay tạm biệt anh em nào cả.


Đoạn kết

Có lẽ do việc không xuất bản tập thơ Người chiến sĩ mà từ đó khoảng cách giữa tôi và anh ngày càng xa thêm, rất xa. Rồi trong thực tế, một thời gian không lâu sau cái ngày thứ bảy giằng co quyết liệt ấy, số phận lại xui khiến thế nào mà tôi mắc vào "Vụ án văn học Nhân văn giai phẩm" khiến tôi bị kỷ luật đằng đẵng 30 năm, từ năm tôi mới 37 tuổi, đến khi đầu đă bạc hết, răng đă rụng hết, Hội Nhà văn mới tổ chức để một số anh em tham gia phong trào "Nhân văn" trước kia trở lại Hội (1988) sinh hoạt và làm việc có phần tự do và khoáng đăng hơn trước nhưng khốn nỗi, già yếu cả mất rồi!

Riêng với anh Thi, tôi vẫn cứ tiếc và bâng khuâng mà luôn nghĩ đến mối quan hệ giữa người với người trong một cộng đồng, có lẽ đúng như điều mà Đức Thích Ca Mầu Ni đă đúc kết thành một sáng tạo diệu kỳ về triết học quanh số phận con người: Duyên và Số. Ví dụ như chuyện vợ chồng là do duyên số, nói cụ thể hơn theo ư Phật là duyên nợ:

Mỗi người một nợ cầm tay
đời trước nợ vợ, đời nay nợ chồng.


Thế th́ bạn hữu, bạn trai, bạn gái cũng là do duyên số. Trong cơi đời chúng ta từ Tây sang Đông thiếu ǵ những đôi bạn trai nổi tiếng: thi sĩ Rimbaud và Verlaine ở Pháp thế kỷ XIX rồi Mallarmé với Musset, VictoR Hugo với Lanson. Ở Trung Quốc có Bá Nha- Tử Kỳ, ở Việt nam xưa có Lưu B́nh-Dương Lễ. Anh Thi với tôi, gần suốt thế kỷ XX h́nh như vào cái thuở ban đầu, hai người cùng rất trẻ, cùng chung niềm đam mê sống và sáng tạo, qua nhiều lần gặp gỡ thân t́nh đều muốn thành bạn tri kỷ mà rồi cuối cùng vẫn là hai con số không to tướng đứng bên cạnh nhau. Là mệnh trời hay do tính cách? Tôi chỉ muốn nhớ lại tính cách anh, như trên đă nói, trong con người anh có đến hai ba bản chất trái ngược nhau hoà thành một. Anh sinh ra, rồi trưởng thành với nhiều ước vọng. Trước tiên, từ Hội nghị Tân Trào, đó là con người chính trị ngự trị trong tâm hồn anh. Cách mạng tháng Tám thành công, có thêm con người quan chức. C̣n khi mới là cậu tú, anh sinh viên trường luật, anh đă là con người học giả. Đến khi toàn dân ta phải chiến đấu chống xâm lược, con người yêu nước nồng nàn trong anh đă biến thành con người của nghệ thuật. Cả trong lĩnh vực văn hóa anh cũng đă phân thân. Anh chưa thỏa măn trong thơ, anh nhảy sang tiểu thuyết với tham vọng viết những roman fleuve (trường giang tiểu thuyết) tưởng chừng có thể làm chấn động dư luận từ Bắc chí Nam. Chưa thỏa măn với tiểu thuyết, anh quay sang làm một kịch tác gia, viết liền bốn năm vở. Nhưng rồi anh vẫn không vừa ư, anh lại trở về với thơ, lại có lúc muốn làm một nhà phê b́nh văn học uyên bác. Lại không vừa ư, anh cứ loay hoay măi với con đường quyền chức chính trị. Cũng không đi đến cái đích mà anh mơ ước th́ tuổi già xồng xộc đến ngay trước mắt. Anh lại quay về với thơ, loanh quanh măi, hẳn anh nhiều lần tự hỏi ta đi về đâu? Ta đă đến đâu! Ai trả lại cho anh câu hỏi lớn ấy ngoài anh ra?

Tôi biết, vào những ngày tháng cuối cùng trên cái cơi mang mang thế sự đầy bí hiểm này, anh Thi có những thời khắc suy tư đầy bi kịch. Anh vốn là một nghệ sĩ nhưng ít khi sống hết ḿnh v́ nghệ thuật. Về nhạc, anh đă sáng tác khúc ca Người Hà nội rất quyến rũ, rất t́nh tứ mà cũng rất hùng tráng. Đáng lẽ ra anh nên dừng ở đó mà đào sâu vào cái vỉa quặng rất phong phú là âm nhạc th́ tham vọng lại dẫn anh đi vào một thế giới mà anh tưởng có thể ôm chặt lấy được là thế giới văn xuôi, thế giới đến thường tưởng rất ngon ăn mà sao tiểu thuyết Vỡ bờ gần ngh́n trang của anh lại h́nh như thưa thớt tiếng vang? Mấy cuốn truyện của anh nữa: Xung kích, Vào lửa, Mặt trận trên cao liệu c̣n dư vang ǵ trong ḷng người đọc? Anh cứ loay hoay như thế suốt hơn 60 năm cầm bút để rồi đi đến đâu!

Ở anh có hai con người luôn giằng xé nhau bất phân thắng bại. Đó là con người nghệ sĩ và con người quyền chức. Không lúc nào anh thanh thản, không lúc nào anh được an nhiên tự tại cũng chỉ v́ xung đột quyết liệt một mất một c̣n giữa hai con người đó. V́ thế mà anh sống trong một bi kịch thường trực, nó ṿ xé, cắn rứt lẫn nhau, không lúc nào ngưng nghỉ (trừ đôi lúc anh để tâm hồn trôi theo nhan sắc, nhưng ngay cả nhan sắc, hay nói rộng ra là t́nh yêu nam nữ, đôi khi cũng tưởng chừng muốn phát điên lên v́ anh luôn thay đổi).

Tuy anh cũng có một gia đ́nh tưởng như đầm ấm nhưng tôi biết cuộc sống gia đ́nh anh cũng chả mấy niềm vui. Ngay từ đầu đời, thơ là một trong mấy cái đích lớn mà anh say sưa hướng tới th́ càng về cuối đời, thơ anh chỉ c̣n lẻ tẻ những bài văn xuôi ngắn ngủi, kể lể một vài điều băn khoăn, rời ră trong tâm thế thất bại pha chút cay đắng gượng gạo làm vui. Rồi tan đi tất cả, anh lại trở về gậm nhấm cô đơn, tâm hồn anh nhiều năm đă trở thành băi chiến trường ác liệt. Mà con người của thi ca nghệ thuật đă chịu thua. Dẫu anh cố vẫy vùng th́ con người của quyền chức cũng chẳng đi tới chỗ mà anh mong ước.

Vài ba năm trước khi anh qua đời, tôi thường bắt gặp nơi anh nỗi buồn bất đắc chí ấy, v́ chỉ thấy anh buồn, ngay cả lúc anh nhận huân chương độc lập hạng nhất, tôi chạy lại bắt tay anh, mừng anh bằng một tấm ḷng chân thành, anh cũng lại cúi đầu nói nhỏ "Có ǵ đâu!", nét mặt vẫn buồn ră rợi. Anh vội vàng lảng tránh, tôi càng thêm ái ngại cái nỗi riêng anh trong bấy nhiêu năm lận đận với những hào quang phụ, với những hư ảnh dối lừa, những hư vinh vô ích.

Tôi hiểu rơ anh lắm, thậm chí rất quư anh, nhưng khốn nỗi, không hiểu v́ đâu mà tôi với anh lại như mặt trăng với mặt trời, như nước với lửa, như thuốc kư ninh với vi trùng sốt rét. Có lẽ từ chuyện tôi từ chối không in tập thơ Người chiến sĩ, nên hồi tôi vướng án Nhân văn, anh đă ghép thêm cho tôi cái tội là "lũng đoạn" nhà xuất bản.

Ngoài bài ca Người Hà nội mà tôi cho là một kiệt tác của anh, có lẽ sẽ sống lâu hơn cả thơ, văn, tiểu thuyết, kịch và các tiểu luận văn học mà anh đă bỏ ra nhiều công sức xây dựng, th́ anh c̣n ǵ? Hạnh phúc lớn nhất cho một con người, đặc biệt là con người nghệ sĩ, lúc về già c̣n t́nh yêu trong trái tim không tuổi.

Về cuối đời, riêng tôi cũng lắm lúc tự buông thả ḿnh vào đám bụi phố hè, ngồi say sưa với nhiều bạn trẻ, nhiều anh em thương tôi lắm nên tôi không thấy cô đơn nữa. C̣n anh, tôi biết cũng cô đơn trống trải, nhưng con người quyền chức từ lâu đă không cho phép anh được chơi với tôi, và về già, được rong chơi như tôi, rong chơi hết ḿnh với các "chú em thi sĩ", với cả nhiều "cô em thi sĩ", như tôi. Thế th́, Thi ơi, trước khi vĩnh biệt thế gian này, anh có buồn chăng, có vui chăng? Anh sẽ "ra đi" thanh thoát hay c̣n vướng mắc?

Thực t́nh, cho đến hôm nay, hai phần ba thế kỷ đă trôi hững, chảy hờ trên quan hệ giữa anh và tôi, vâng, thật thế, khi tôi viết những trang tâm sự này tôi rất thương anh và thật tiếc cho anh. Bởi lẽ, vào những ngày cuối cùng trên thế gian này, trong cơi người này, chắc hẳn anh đă tự biết rằng anh không đạt được ước vọng lớn lao của ḿnh đâu bất kỳ ước vọng ấy nhằm về hướng nào trong tâm thức sâu kín của một con người.

Tháng 5. 2003
H.C.

© 2003 talawas


[1]Thơ Tản Đà:
"Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương"
[2]Câu thơ trong bài Qua vườn ổi (tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm)
[3]Dạo ấy B. D. đă 23 tuổi, cũng trẻ đẹp nhưng tính cách và lối sống già dặn hơn cô Th. L. rất nhiều.

[4]Từ năm 1947 đến năm 1950, trong các đơn vị công tác văn nghệ ở một số chiến khu và binh đoàn, kể cả ở Bộ Tổng tư lệnh, chưa có tên gọi văn công. Sau chiến tranh thế giới, ta mượn tên "Văn công" (Công tác đoàn của Trung quốc gọi lắt là văn công để gọi các đơn vị bộ dội chuyên biểu diễn văn nghệ trong toàn quân.

[5]Chiến sĩ tự vệ thành thường đính trên mũ ca lô đội lệch ngôi sao vàng trong vuông đỏ, trông hiên ngang mà rất tài tử.