Nam Dao giới thiệu
Ác Mộng
của Hoàng Hưng
... để nhớ cơn oan nghiệt đổ xuống đời dăm người, tội danh là thơ, yêu và làm, mặc cho sống hay bắt chết. Và có tù trong hoặc tù ngoài thì vẫn cứ giữ một nhân cách, là những nhà thơ đích thực
ND
Ác mộng, Lời ngỏ của Hoàng Hưng :
“ Thấm thoắt đã hai mươi năm kể từ cái ngày tôi ngơ ngác xách gói (...) khấp khởi bước ra khỏi cổng trại Thanh Cẩm mà lòng còn chưa tin hẳn đó là sự thật. Cho đến khi, theo lời dặn của người quản giáo tốt bụng, rẽ vào nhà anh để ăn bữa cơm tự do đầu tiên sau 39 tháng cơm tù. Và được anh chỉ lối ra bến xe khách về ga Thanh Hoá. (...).
“ Đêm đợi tàu ở ga Thanh Hoá để về đoàn tụ với đại gia đình ở Hà Nội, giữa đám trẻ bụi đời mà tôi tự nhiên sáp vào theo một lựa chọn bản năng cho sự an toàn của mình, sự lựa chọn không thể giải thích bằng lý trí, có lẽ là đêm đầu tiên tôi không ác mộng. Có thể nói hơn một nghìn đêm sống trong các chỗ giam cầm khác nhau, từ trại tạm giam Hoả Lò, đến Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia ở ngoại thành Hà Nội, sau cùng là trại cải tạo Thanh Cẩm ở miền núi Thanh Hoá, hầu như không đêm nào tôi không gặp ít hay nhiều ác mộng, những ác mộng ngắn hoặc dài, là những mảnh vụn hay cả một câu chuyện. Phần lớn những ác mộng ấy, nếu không là lạc vào những cảnh giới hãi hùng thì cũng bao gồm cảnh mình bị rượt đuổi, bị bắt, hay bị giam cầm, hoặc vượt ngục mà không thoát... Có điều tôi có thể khẳng định là tôi chưa bao giờ mơ thấy mình bị đánh đập hay bị tra tấn !
“ Đêm tự do đầu tiên hình như tôi ngủ rất sâu, và tỉnh dậy không nhớ là mình có mơ thấy gì trong lúc ngủ hay không. Nhưng rồi về sau, cứ lâu lâu, tôi lại có những ác mộng, mà phần lớn cũng lại vẫn là những cảnh như thế. Tình trạng cứ kéo dài cho đến tận bây giờ. Tôi hằng mong chúng đừng trở lại, đừng làm tôi thảng thốt tỉnh dậy giữa đêm, đừng ám ảnh những ngày tôi đang mong muốn tĩnh tâm để hoà nhập lại với xã hội và tự tu chỉnh con người mình. Nhưng vô ích. Chúng cứ trở lại, lúc thưa lúc mau, không bao giờ báo trước. Trong lúc tôi ở tù, vợ tôi có lần đi xem bói, một cô bói rất trẻ và xinh ở gầm cầu Trương Minh Giảng (Sài Gòn). Không cần khai cô ấy cũng biết là “ chồng của chị đang bị tù. Rồi sẽ được ra, nhưng nếu ông ấy không biết tu thì rất có thể sẽ vào tù lần nữa ”. Khi tôi về thì cô bói đã đi đâu không tìm lại được nữa, nhiều khả năng cô đã vượt biên, và đã hoặc bỏ xác trên biển cả hoặc thành một Việt kiều ở đâu đó.
“ Vợ tôi rất lo cho tôi, luôn khuyên tôi phải tu. Tu có nghĩa là phải kiềm chế dục vọng, phải kiềm chế “ cái tôi ”, và phải nhẫn nhịn, đừng chấp trước, đừng oán hờn. Than ôi thằng làm văn nghệ thường rất khó tu, nhất là tu hai cái đầu tiên, nhưng cái sau cùng thì tôi tự xét mình phần nào tu được. Chứng cớ là tôi chẳng bao giờ oán hận những người đã tham gia bắt bớ giam cầm mình, làm cho vợ con mình khổ cực suốt mấy năm trời mà những di chứng đến bây giờ chưa hết. Vì thực tâm tôi hiểu họ không thù ghét gì tôi cả, thậm chí có thể có người trong số họ lúc ấy tin rằng tôi có tội, đáng phải cải tạo.
“ Cố gắng “ tu ” theo lời vợ khuyên, liệu tôi có thoát khỏi tù đầy lần nữa hay không chưa biết, nhưng những cơn ác mộng thì vẫn không buông tha cho tôi.
“ Đọc sách phân tâm học, tôi được thuyết phục rằng muốn chữa bệnh tâm lý thì phải tự gợi lại những chấn thương từ thuở xa xưa mình đã gặp phải. Nhớ lại được rõ ràng thì sẽ có cơ may khỏi bệnh. Kinh nghiệm thông thường cũng cho rằng những nỗi thương đau một khi kể ra được thì sẽ vơi đi. Vậy thì, muốn tự giải thoát khỏi những cơn ác mộng, một lần cho xong, tôi thấy mình phải kêu lên một tiếng, kêu thật to, cho tỉnh hẳn.
“ Đó là lý do năm 2002, vào dịp kỷ niệm 60 năm chào đời, 40 năm chào thi đàn, cũng là dịp 20 năm đời mình có một bước ngoặt lớn là sa chân vào ngục tù, tôi quyết định đưa 30 bài thơ họp thành phần Ác mộng vào trong Tuyển Thơ 40 năm của mình.
“ Đây là những bài thơ tôi làm trong và sau khi ra tù. Có những bài “ vụt hiện ” trong óc, tôi cố nhớ và sau khi ra tù thì ghi lại, chỉ sửa đôi từ hoặc không sửa ; có những bài hình thành một phần trong tù, hoặc một đoạn, hoặc cái tứ, hoặc một câu chủ, sau này tôi dựa vào đấy mà hoàn thành; có những bài, trong những lúc bị ám ảnh kéo dài của ác mộng, tôi lại như sống trở lại cảnh sống trong tù trước đây, và bài thơ hiện ra.(...)
“ Vì lợi ích của bản thân là tự giải thoát khỏi những ác mộng dai dẳng, không thể chờ đợi lâu hơn, hôm nay tôi quyết định công bố ba mươi trong số các ác mộng ấy. Để tống tiễn chúng như tống tiễn các vong hồn, để quên chúng đi mãi mãi, cho chúng đừng đè nặng hai vai mình trên con đường tương lai...”
Ác mộng
(Nhật ký - Thơ, 30 bài thơ 1982-1992)
Ta nung nấu nghìn đêm ác
mộng
Đánh chìa vàng mở lối về em
VÀO
Vào
Cánh cửa sắt đen
kịt
Đóng sầm sau lưng tôi
Bỗng ào ào náo loạn
Như một bể dầu sôi.
Những cái đầu trọc lốc
Vươn theo từng bước đi
Những bộ xương đen đúa
Bốc lên mùi tử thi.
A! Địa ngục là đây
Ta bắt đầu kiếp quỉ
Sao dễ dàng quá nhỉ
Chỉ một bước một giây
Bước qua cánh cửa này
Kiếp người đã xa lắc.
Giật mình nghe tiếng quát:
- Cởi hết áo quần ra!
17/8/1982
YẾU LÒNG
Bữa cơm đầu tiên
Nhai miếng cơm khô
giữa nắng
Trệu trạo trong mồm nuốt khó trôi
Bạn giục ăn nhanh không người mắng
Bỗng nghẹn lưng chừng nước mắt rơi
Thôi thế từ nay đoạ kiếp rồi
Tin dữ bây giờ chắc tới nơi
Nhà ta đau đớn chừng nào nhỉ
Tối sầm trước mặt bát cơm rơi
Chiều
Một dãy tường cao
bóng đổ dài
Chú chim ngơ ngác gọi tìm ai
Chiều tù như muốn dài vô tận
Vòi nước ngoài kia cứ chảy hoài
Mơ lạc mất con
Nửa đêm mơ lạc
mất con
Tiếng kêu thảng thốt lệ tuôn áo tù
Bàng hoàng biết thực hay mơ
Bừng con mắt dậy nát nhừ ruột gan.
Nửa đời sự nghiệp tan hoang
Con là còn lại với ngàn năm sau.
Trời ơi xin chớ hại nhau
Cha xin gánh hết thương đau kiếp này
Xin trời đừng cướp trên tay
Cho tôi sống nốt những ngày chờ trông
Bao giờ
Thạch thùng tặc
lưỡi trên cao
Phòng giam lạnh lẽo chìm vào cõi đêm
Nhà ta giờ đã lên đèn
Bữa cơm giờ chắc đã quen thiếu
người
Ta nghe tiếng mắng tiếng cười
Thằng cu nghịch xới cả nồi cơm tung.
Trời ơi sao nhớ quá chừng
Bao giờ tới bữa ngồi trông con đùa
Ngồi đây biết đến bao giờ
Trùm chăn ta đợi cơn mơ đưa về
Sáng mồng Một Tết
Đang vui tíu tít hàn huyên
Tỉnh ra trơ trọi giữa nền xi măng
Trời mồng Một đã vào song
Đã ho hắng cả mấy phòng gần xa.
Cách tường có cậu cười qua:
Được một bữa thịt đêm ra đầy
quần!
Tiếng cười cả xóm rân rân
Như quên hết cả một năm đoạ
đầy
Gần đất xa trời
Đêm em về trắng toát
thời thơ ấu
Đêm mẹ về chẳng nói lại đi
Ở đây gần đất xa trời
Ngủ là sum họp với người cõi âm
Tỉnh ra là chết âm thầm
Xi măng lạnh, mấy chứng nhân thạch thùng
Giã biệt
Tôi lại quay trở
lại
Thế giới bốn thước vuông
Có ăn ngủ ỉa đái
Có giận hờn ghen tuông.
Xa lạ quá mất rồi
Phố xá như trong mộng
Người trên đường như nộm
Cứ trân trân nhìn tôi.
Cả em nữa em ơi
Như thuộc về cõi khác
Hụt hẫng phút hàn huyên
Anh ôm em ngơ ngác.
Và xin em chớ giận
Khi nhìn thấy gói quà
Anh muốn ngay lập tức
Quay lại chỗ vừa ra
Để run run mở gói
Hau háu mắt bạn tù
Đêm nay là đêm hội
Cơm muối trắng như mơ.
Thôi em về đi nhé
May em không khóc oà
Quay lưng con bỗng thét
Giờ mới nhận ra cha.
Anh cúi đầu bước vội
Thầm nói em đừng chờ
Tôi lại quay trở lại
Thế giới của tôi đây
Em chỉ là giấc mộng
Bên trên khối mộ dầy
PHẢN THẾ GIỚI
Đêm trắng
Đứa giết
người mắt trắng dã
Ca một khúc vọng cổ não nề
Lão làm thuốc tây giả
Run run nhặt từng hạt cơm thiu
Thằng nhóc “cắt bom” ga Hàng Cỏ
Sằng sặc bóp cổ tên hiếp trẻ con
Ba thằng buôn cơm đen
Ngồi nhìn ông cựu bí thư nhảy múa
Vào mà xem
Trong nhà “mét”[1]
Đám cưới thằng khoèo lấy thằng thọt.
Lại mà xem
Hai thằng ăn cướp
Bắt chấy cho nhau
Đêm hãi hùng
Ta ở đâu đây
Đêm không chợp mắt chờ sáng
Sàn xi măng vảy ghẻ rụng đầy
Gọi
Tôi gọi giữa đêm. Gọi tiếng xe ngoài đường gọi gió gọi mùi hương gọi ba la bông lông sải cánh con chim dài hai thước gió đánh nhằng nhịt tái tê bầu trời lụn bại. Tôi gọi giữa đêm. Xác xơ chân tóc căng ấn đường tôi gọi. A ha! Nhảy nhót, nghiến răng, xóc lọ. Thổi tắt phụt ngọn đèn trăm nến. Nhắm mắt và mơ đi. Mảnh sân hẹp, tiếng đàn bà xối nước, một củ hành tươi. Có thế thôi. Không không không tôi chán lắm rồi. Chán “điểm”[2], chán bắt rận, chán đọc rõ số giam. Nửa đêm tôi gọi mộ huyệt âm vang. Tự do! Mi ở đâu?
Những mảnh mộng
Chạy cuồng chân
đồng đất đỏ ngầu, lửa sắt
toé tung, mưa máu. Thằng bé xoè tay xin chó đá. Mài
đầu rên xiết. Hồn kinh.
Chim đen bậu kín mặt nhà thờ. Pháp sư rán bánh. Róc
rách suối hoa vàng nở. Mắt cá trừng trừng trong
lưới mông mênh.
Em ơi mộng mị trần truồng góc tối. Vút
đài cao ngăn ngắt trăng xa. Bãi biển oằn oài
vũ nữ quay tít. Em không nói khoá trái nhà hoang dắt tay nhau
về vô tận. Ngày nhật thực bảy mặt
trời vần vụ. Gió dậy đồng không nơi ẩn
náu.
Không đề
1.
Thần trí vùng lên đáy huyệt rùng rùng. Tắt lịm, u
mơ, nhoà toả. Lấp loá vàng son vỗ nhịp. Đìu
hiu.
2.
Thân thể nát như tương. Kiệt quệ lời ca
khật khùng râu tóc. Co quắp nằm chịu trận.
Sắt xầm, ngực nghẹn, u âm.
3.
Xóm xà lim mìn mịt mặt người, ú ớ gọi kêu
cào vách đêm thăm thẳm. Thông thống vào lòng nhân
loại tối đen. Quì khóc mắt ráo hoảnh.
Buổi trưa
Sau một cơn
động đất xa
Chói chang ngực rộng mây bay về khát khát
Cây đá đổ vách trần xiêu lao đao bốn mặt
Ai gọi rất xa
Chờ ta!
Chờ ta bùng nổ!
Chiếc lá bàng
Những đôi mắt âm
thầm
Rõi qua khe cửa
Bao giờ rụng chiếc lá bàng cuối cùng?
Sẽ rụng đêm nay
Khi gió bấc nổi
Không. Nó sẽ còn đeo đẳng mãi trên cây
Dai như kiếp sống đoạ đầy
Trong giấc ngủ màu máu
Chiếc lá bàng mênh mông
Thức dậy không còn lá
Bầu trời tím thâm
Bỗng rùng mình kiệt quệ
Như vừa ra đi giọt máu cuối cùng
Cái chết
Những con rận đã
bỏ anh đi hết
Anh chết
Trong đêm
Miệng trắng thuốc đánh răng
Đã bảo mãi anh rằng
Đói đến mấy cũng đừng ăn thuốc
đánh răng
Tấm thân thước bảy
Còn tấm giẻ hôi
Cũng là xong nhỉ
Ân oán một đời
Những con ruồi bay đến
Chán nản
Như chỉ còn một
ấm ức
Phân tích mùi hành lang mốc meo thăm thẳm
Như chỉ còn một mạo hiểm
Nhìn vói qua mái nhà chằng chịt thép gai
Như chỉ còn một thú vui
Ôn lại những giấc mơ dị kỳ chắp vá
Như chỉ còn một ao ước
Thấy mặt người cách tường trò chuyện
Như chỉ còn một lời nguyện
Kiếp sau đừng biết cuộc đời tự do
Chiều cuối năm
Chạng vạng hồn ta u âm mộ huyệt răng thép răng đá ngả ngả xiêu xiêu. A! Trần nặng tường dày. Còn gì nữa? Con rệp đốt con muỗi bay con tắc kè thè lưỡi, lưới thép gai chim trời không xuống đậu để mình ta vòi vọi dõi tầng không. Đập đầu cửa sắt chân lún xi măng ăn đái ỉa nằm ngồi hàng thế kỷ, ằng ặc chiều đông cắt tiết bầu trời. A! Nát nhừ số mệnh bàn tay!
Thạch thùng
Đôi thạch thùng trên
trần xà lim, trắng hồng, trong trong, bên ngọn đèn
ấm áp. Chúng làm sao biết chốn này tù ngục. Chúng
đâu thèm quan tâm một người suốt ngày đêm
nằm ngửa nhìn chúng khoả thân yêu nhau. Chúng đâu
biết đêm nay đêm đông cắt da cắt thịt.
Trắng hồng, trong trong, chúng lặng lẽ yêu nhau bên
ngọn đèn toả hơi xuân. Ngọn đèn tù ngục.
Nếu con người khoả thân không hổ thẹn.
Nếu con người yêu nhau hồn nhiên dưới
mặt trời. Như thạch thùng. Thì có lẽ không có tù
ngục. Phải không nhỉ thạch thùng
- Thạch. Thùng.
Cách bảy lần tường
Cách bảy lần
tường
Có con mương nhỏ
Mùi bùn chiều mưa
Có con đường làng
Ngây ngây xoan tím
Cách bảy lần tường
Tiếng cười vụt qua
Một trưa rất ròn
Sau bảy lần tường
Có người đêm đêm
Mắt mở trừng
Nghe sấm chạy
Một hôm
Có cánh hoa xoan
Vào thăm người ấy
Bàng hoàng người ấy
Nhặt cánh hoa xoan
Chuyện chỉ có vậy
Sau bảy lần tường
Nửa đêm
Cứ nửa đêm choàng
dậy
Vì giọng hát ồ ồ
Bao giờ cũng một câu thôi:
Trời hãy cứu giúp tôi!
Lòng đất vọt ra?
Lưng trời rót xuống?
Xuyên bảy lần tường
Cõi nào vọng lại?
Tất cả choàng dậy nghe
Rồi lục tục nằm lại
Người ngáy tiếp
Người trằn trọc
Người rấm rứt
Ta cứ ngồi bó gối
Câu hát dội từ ngực xuống chân
Từ chân lên đầu
Âm âm trong tóc.
Chỉ một câu thôi:
Trời hãy cứu giúp tôi!
Chỉ một câu thôi
Vào lúc nửa đêm
Trái đất trở mình giữa bầu trời tối
đen
Một ngày
Nhớ đôi bạn tù trẻ tuổi ở T. L.
Buổi sáng lanh canh
Em ca cốc rộn ràng
Lại bắt đầu một ngày bên nhau
Chào em cô hàng xóm vô hình
Rồi mở cửa
Thay bô
Đóng cửa
Rồi mở cửa
Đi cung
Giữa hỏi đáp
Ú tim
Mèo chuột
Vẫn lởn vởn một bóng dáng vô hình.
Rồi về phòng
Mở cửa
Đóng cửa.
Rồi mở cửa
Cơm
Đóng cửa
Mời nhau bằng lanh canh bát đũa
Ta cùng ăn qua vách bữa cơm tù
Sau tiếng nước rửa bát phút im lặng thiêng liêng
trước giờ em tắm.
Rồi róc rách dè dặt em kỳ cọ cố nhẹ nhàng
như xấu hổ anh hết nóng bừng lại lạnh
toát trong ngừng thở
Em phơi áo vù con chim bay lên
Rồi mở cửa
Tự khai
Sa mạc giấy
Lạc đà chữ
Chỉ vẩn vơ một bóng dáng vô hình.
Rồi về phòng
Mở cửa
Đóng cửa
Rồi mở cửa
Cơm
Đóng cửa
Mời nhau bằng lanh canh bát đũa
Ta lại cùng ăn qua vách bữa cơm tù
Rồi nôn nao chờ bóng tối
Giờ của thông linh giờ của chúng mình.
Anh gõ trước nhé cạch cạch cạch em cạch
cạch cạch anh cạch cạch/ cạch cạch
cạch em cạch cạch/ cạch cạch cạch rồi
anh xoa xạt xạt em xạt xạt anh xạt xạt
xạt em xạt xạt xạt những tín hiệu không
lời ríu rít dồn dập xoắn xuýt cuống quít.
Bức tường bốc cháy
Đêm bốc cháy
Những mảnh đêm rơi
Lả tả
Rã rời
Tiếng khóc nửa đêm
Là nhận dạng của em
Cô em mới đến
Em ở đâu vào?
Em từ dãy nào qua?
Em tội gì?
Em ở đây đã bao lâu?
Không có tiếng trả lời
Lát sau em hát
Bài hát tiếng Tàu
Tiếng Tàu ta đã quên từ lâu
Có cô quản giáo
Chuyện trò với em
Bảo hạt đậu của em đã mọc thành giá
Dặn em chải chấy
Mỗi ngày
Lát sau em bắt đầu
Hỏi gióng lên trời những câu vớ vẩn
Rồi tự trả lời
Rồi em lại nghêu ngao
Bài hát tiếng Tàu
Nhà ta xa xôi lắm
Nhà em còn xa hơn
Đường về hai đứa cùng mù mịt
Thôi thì cùng hát lên
Tiếng Tàu ta quên
Nhưng bài hát Tàu ta nhớ
Hát đến mệt nhoài thì đi ngủ
Nửa đêm chợt tỉnh
Nghe tiếng khóc tỉ tê
Ta ngồi như chết
Tường cao bốn bề
Chạy
Chạy một mình
Trong bóng tối
Chạy co đầu gối
Chạy vã cô đơn
Chạy quên sợ hãi
Mồ hôi mặn
Rít qua kẽ răng.
Chạy một mình
Ảo tưởng sống
Nghe tiếng chân mình
Âm âm xi măng.
Chạy một mình
Run đầu gối
Chạy từ đói
Đến hết muối.
Chạy một mình
Lê không nổi
Chạy đỉnh núi
Toạc bàn chân
Chạy trong bùn
Chân bị trói
Chạy một mình
Trong bóng tối
Bỏ quên tôi
Cả thế giới.
Trái đất ngủ
Một mình tôi
Chạy tại chỗ
Thình thình thình
Tim tôi gõ
Ai nghe ai nghe
Ai vào cắn cổ
Ai đá lăn chiêng
Mắt nhắm nghiền
Tôi cứ co
Đầu gối
GIẢI MỘNG
Cầu vồng
1.
Sững sờ lặng ngắt
Anh nắm chặt tay em.
Không anh không chui qua đâu
Sợ bước chân đi
Cấm kỳ trở lại
2.
Cầu vồng chắn cơn mưa
Cầu vồng chắn cơn mơ
Cầu vồng mở
Vùng trời mù mờ
3.
Cầu vồng mống cụt
Anh trèo chơi vơi
Đến lưng chừng trời
Thì ngã
4.
“Muốn giữ đầu lên cầu mà đứng
Đi đến gần thì bưng lấy đầu”[3]
E đến khi mình chết
Chưa giải được lời mơ
Hỏi toà nhà đá
Nuốt bao nhiêu tiếng khóc
tiếng rên la
Sao mày lặng câm thế?
Hút bao nhiêu hơi thở hổn hển
Sao mày lạnh lẽo thế?
Giam hãm biết bao nhiêu cuộc đời
Sao mày cứng rắn thế?
Ủ bao nhiêu hy vọng
Sao mày u tối thế?
Con nhân sư thế kỷ hai mươi
Không bao giờ trả lời
Chớp mắt
Một vuông tường
một thế giới
Một giấc ngủ một đời người
Đêm vượt đèo
Nhắm mắt cho
đầy bóng tối
Tiếng xe gằn giọng vượt đèo
Tiếng mõ kinh mùi nhang khói
Chiếc quan tài đi cheo leo.
Trời ơi sương mù mất lối
Chẳng biết hồn lạc về đâu
Chỉ còn ánh đèn vòi vọi
Đêm đêm em thắp nguyện cầu
Những ác mộng của em
Con đường này em
đã đi
Bên vực thẳm bên tường cao chất ngất
Mỏm núi này em đã đứng
Bó tay nhìn ngựa trắng cùng đường
Em đã bay kiệt sức
Không kịp lấy bùa cứu anh
Sợ quá những giấc mơ cứ thành sự thật
Đêm không dám ngủ mắt như đèn
Bất hạnh cần gì biết trước
Hay Trời cho đau khổ dần quen?
Bao giờ thì em hết ác mộng?
Bao giờ ác mộng sẽ tan theo bóng đêm?
Bao giờ ác mộng chỉ là ác mộng
Của anh và của em?
Người về
Người về từ
cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình một cái vỗ vai
Mùi mưa hay bài thơ của M.
Tất cả nước
mắt loài người bao vây nhà ta
Nằm bên anh em kể câu chuyện buồn
Chôn sâu trong lòng giờ mới nói ra
Gợi ý của trận mưa chưa từng thấy
Đã một nghìn đêm mưa trắng đêm
Điên cuồng nhớ mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân
rác
Anh đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ
Chỉ còn mưa mùi nước mắt đêm
Em còn yêu anh không yêu đến đâu giận ghét đến
đâu
Mười lăm năm lòng mình chưa hiểu hết
Mưa mưa ngập tầng trệt
Đưa nhau lên gác xép nằm nghe mưa sập mái tôn
Ước nằm nghe mưa rồi chết
Đêm 25/6/1992
[1]Tiếng
lóng thông dụng trong các nhà tù miền Bắc Việt Nam,
chỉ nhà vệ sinh
[2]Điểm
danh mỗi buổi sáng, một thủ tục của nhà tù
[3]Đây
là nguyên văn hai câu mà tôi được nghe một
người mặc áo lam bạc màu của sư nữ
đọc như khuyên bảo trong một giấc mơ
ở xà lim Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia; sau khi ra tù tôi
sửng sốt khi được biết nơi mình bị
giam nguyên là ngôi chùa của làng Thanh Liệt, huyện Thanh
Trì, Hà Nội. Liệu đây có phải chỉ là sự
trùng hợp ngẫu nhiên hay không? (Tôi từng có dăm
bảy giấc mơ trong đó thấy mình ở trong chùa
hoặc đi chơi với các nhà sư nam, nữ; có khi
mơ thấy được một sư ông dạy
nhảy nhót vọt lên rất cao, lên được cả
sà thiền đường, nhưng vẫn không ra
được khỏi chùa; lại có khi mơ thấy mình
được Phật Bà cho một chiếc chiếu, tôi
cưỡi chiếu bay qua bức tường nhà tù ra ngoài,
bay đi khá xa, rồi lại… quay vào.)