Vụ án “Về Kinh Bắc”, một sự kiện “Hậu Nhân văn” [1]
Đăng bởi bvnpost on 19/09/2010
Gặp gỡ ở nhà HH (SG) sau Đổi mới: từ trái sang:
vợ chồng HH, nhà điêu khắc Trương Đ́nh Quế (?),
vợ chồng Văn Cao, Hoàng Cầm, nhà điêu khắc Nguyễn Hải.
Gần đây trên mạng xuất hiện một số tư liệu mới về phong trào Nhân văn – Giai phẩm. Tiểu luận mang tên “Vụ Nhân văn – Giai phẩm từ góc nh́n một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành” của nhà văn Lê Hoài Nguyên, nguyên Đại tá Cục An ninh tư tưởng văn hóa Bộ Công an (A25), là một tư liệu quan trọng góp vào lịch sử đấu tranh dân chủ của nước Việt Nam hiện đại. Trong tiểu luận trên, tác giả xếp vụ án “Về Kinh Bắc” 1982 [2] vào mục “Hậu Nhân văn”. Chính điều này đă gợi hứng cho tôi quyết định viết về vụ “Về Kinh Bắc” với tư cách người trong cuộc, mong góp thêm phần hoàn chỉnh tư liệu về phong trào lịch sử này.
Vụ án “Về Kinh Bắc” chắc đă được khởi động từ quăng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, TS Kinh tế, GS đại học ở Canada, cũng là nhà văn VN hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về Kinh Bắc (VKB) để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền VN coi là “Việt kiều yêu nước”, đă đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi c̣n là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đă nhiều lần về nước, có tham gia tư vấn cho Chính phủ về kinh tế. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn – Giai Phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.
Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay VKB chẳng có ǵ cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lư Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”, và không ít “đặc t́nh” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của CA), “cá ch́m” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), th́ có ǵ liên quan đến ông Hoàng “thơ chui” này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu v́ sao có vụ án Về Kinh Bắc, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo VKB bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài Cây tam cúc, Lá diêu bông, Quả vườn ổi (thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng v́ chúng được x́ xầm diễn giải như lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đă lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng… Theo Hoàng Cầm kể, th́ năm 1974, CA Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”, VKB lại có thêm độc giả ở miền Nam, và đến 1979, sự giao lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đă có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “bộ ba cây-lá-quả” vẫn đứng đầu bảng. Hoàng Cầm có kể đích danh một nữ Bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đă xin ông gửi cho một số bài thơ, sau này bà cho biết bà là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan CA cho biết: VKB bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính là v́ mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời b́nh mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm th́ CA có đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Đất Mẹ (Quê Mẹ?).
Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên án VKB đă được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bơ ghét. Theo Hoàng Cầm th́ khả năng thứ hai là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, v́ căm ghét Hoàng Cầm đă dám chê thơ ông ta (vụ phê b́nh tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đă “dám nổi tiếng” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu đă sử dụng một số “CA riêng” của ḿnh.
Thế là trong lúc một cái lưới đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lư Quốc Sư, th́ tôi ở SG ra, vô t́nh chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để CA cất vó!
Hoàng Hưng trước ngày bị bắt 1982
V́ sao định mệnh lại chọn tôi làm con cá oan nghiệt kia? Suốt mấy năm trời trong trại giam tôi vẫn tự hỏi, v́ xét theo logique, tôi chẳng thể nào h́nh dung ḿnh có ngày “ách giữa đàng đâm quàng vào cổ” như thế.
Bởi lẽ thứ nhất: từ khi Hoàng Cầm hoàn thành VKB (mùa xuân 1960) cho đến tháng 8 năm 1982, đă có hàng trăm bản chép tay của nó được lưu truyền, mà không thấy ai làm sao, cũng không ai phổ biến lệnh cấm dù chỉ là lệnh miệng. Lư lẽ này tôi lặp đi lặp lại trong các buổi hỏi cung, tôi c̣n vặn lại người cán bộ xét hỏi: “Để một tài liệu ‘phản động’ tự do lưu truyền trong 20 năm như thế th́ trách nhiệm của cơ quan an ninh ra sao?”. Tất nhiên họ không trả lời được. Và hậu quả của sự “cứng đầu” cộng với ngây ngô của một anh nhà-giáo-nhà thơ-đi-làm-báo tưởng rằng trên đời có thứ gọi là công lư, là tôi phải nhận đến 39 tháng tù trong khi “đầu vụ” chỉ có 16 tháng!
Lẽ thứ hai là quan hệ của tôi với tác giả VKB vốn không có ǵ mật thiết. Là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật của “thế hệ chống Mỹ”, nhưng v́ “trót” đọc được tiếng Pháp, tôi sớm giác ngộ về “CNXH với bộ mặt người” qua những sách báo tiếng Pháp ở ngay trong Thư viện Quốc gia (Nhà nước cho rằng rất ít người biết tiếng Pháp nên không kiểm duyệt bỏ những ấn phẩm tiếng Pháp “nhạy cảm” được nhập vào đó theo con đường viện trợ, trao đổi). Đó là thuyết “chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” của Roger Garaudy, một nhà lănh đạo ĐCS Pháp, những tư tưởng “xét lại” của George Lukacs, nhà lănh đạo cộng sản Hungary, tiểu thuyết “Docteur Jivago” của B. Pasternak, các tài liệu về Đại hội ĐCS LX lần thứ XX, về những biến động ở Hungary, Tiệp Khắc… Những sách vở ấy cộng với thực tế nhiều phũ phàng mà tôi va chạm trong mấy năm dạy học và “đi thực tế sáng tác” ở vùng công nghiệp Hải Pḥng, Quảng Ninh, cộng với sự đổ vỡ niềm tin chiến thắng sau Tết Mậu Thân và cái chết của “Bác”, khiến tôi ngày càng hoài nghi sự đúng đắn của chế độ. Tất nhiên tôi cũng nh́n lại phong trào Nhân văn – Giai phẩm bằng con mắt hoàn toàn khác những ǵ Đảng dạy. V́ thế, cuối năm 1969, khi đă viết một số bài thơ “ngoài luồng” không thể công bố, tôi t́m đến làm quen với anh Văn Cao qua dịch giả Dương Tường. Chính Văn Cao là người đã khuyến khích tôi tiếp tục lối thơ “bàng thống” mà tôi đang bước vào. Anh trở nên thân thiết với tôi, và đă đứng chủ tŕ buổi tiếp bạn bè văn nghệ trong ngày cưới tôi đầu năm 1975. Với Hoàng Cầm th́ khác. Không chỉ “có vấn đề” về tư tưởng, ông c̣n tai tiếng là con nghiện (thuốc phiện) và chủ quán rượu chui. Tôi – một nhà thơ trẻ đang được ưu ái, lại là nhà giáo và nhà báo của ngành giáo dục (Báo Người giáo viên nhân dân) – cũng thấy ngại dây dưa! Măi sau khi đă chuyển vào SG công tác, tư tưởng ngày càng “diễn biến ḥa b́nh” do tác động của cuộc sống và sách vở tàn dư của chế độ SG, trong một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1970 hay đầu 1980, tôi mới t́m đến Hoàng Cầm, cũng do Dương Tường đưa dắt. Chính lần ấy, tôi được nhà thơ khoe một bản thảo VKB do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đă bán cho ông Lâm chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các họa sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng? Nhân dịp, tôi đă xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá - Quả đem về SG khoe vài người bạn văn nghệ “chui” vốn là dân SG cũ (trong đó có anh Phương Kiến Khánh, sau trở thành nhà thơ Chân Phương ở Mỹ).
Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982, định mệnh xui khiến tôi lại đến với Hoàng Cầm ngoài chủ ư. Một bữa tôi gặp Dương Tường trên phố, anh sốt sắng bảo tôi đến an ủi Hoàng Cầm v́ nhà thơ vừa trải qua một bi kịch: con gái yêu của ông là nữ diễn viên kịch Hoàng Yến chết đột ngột – nghe đâu là tự tử. Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo VKB mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn CA đă lấy đi làm hồ sơ cho vụ án VKB đang chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, v́ khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế. Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay. (Chỗ này, nhân thể nói bài nghiên cứu của tác giả người Đức
Một trang bản thảo Về Kinh Bắc do Hoàng Cầm tự tay viết theo yêu cầu của Hoàng Hưng 1982.
Heinz Schutte công bố trên talawas 31/7/2010 có chỗ lầm: ông cựu Giám đốc NXB Minh Đức sau khi ra tù không bị chỉ định cư trú ở Nam Định cho đến chết, ông đă được về lại HN từ lúc nào đấy, và vào năm 1982, ông đang chuẩn bị mở quán ăn để sinh sống tại số 5 (?) Bát Đàn. Thế là việc chép tay VKB tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác họa làm b́a tập thơ VKB, và xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức họa mấy cái lá bay (chắc là “lá diêu bông”) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân. Có một chi tiết mà những ngày đó tôi đă bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với tôi ở Hải Pḥng, nhưng đă chuyển về HN, nghe đâu làm ở Bộ CA, v́ anh là cháu ruột ông tướng CA nổi tiếng Nguyễn Công Tài. Thấy tôi, anh cất giọng lè nhè như của người say rượu bảo: “Cái ông Hưng này đến là rách việc”. Tôi hồn nhiên không để ư, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn đồng nghiệp cũ có ḷng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề ǵ mà phải đề pḥng!
B́a tập thơ Về Kinh Bắc do Thiếu Bảo vẽ 1982.
Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép VKB, tôi muốn nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để chia tay lên đường vào lại SG. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án “gián điệp phản động NV-GP” năm 1960. Trong bữa ăn vui vẻ t́nh cảm dạt dào giữa những người cùng tâm sự (có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy vong niên nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng), ông Bảo khoe mọi người hai cái “b́a” cho tập VKB và tập thơ của tôi mà ông tŕnh bày theo lối siêu thực. (Trước đó ít lâu, tôi có khoe một tập bản thảo thơ “chui” của ḿnh cho một số bạn văn nghệ ở HN, trong đó có Nguyễn Thuỵ Kha, tập thơ gây ấn tượng khá mạnh v́ sự phá cách của nó. Ông Bảo xin mượn ít hôm). Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập VKB vừa mới hoàn thành.
Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi (là nơi tôi ở nhờ trong thời gian lưu lại HN) thúc giục tôi tới lấy! (Sau mới ngă ngửa ra là Trần Thiếu Bảo bị CA khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ VKB này. Nếu v́ lư do ǵ đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, th́ vụ án bị hẫng to!)
Hóa ra họ đă sắp xếp rất chu đáo để “cất vó” VKB mà tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh CA quen thân với gia đ́nh anh cả tôi c̣n cho biết họ đă bí mật theo dơi, quay phim tôi suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ư!
B́a tập thơ Hoàng Hưng do Thiếu Bảo vẽ 1982.
Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lư để đi chuyến tàu tối xuống HP và sáng hôm sau đi tàu biển vào SG, tôi đến nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại hai tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “cung” mới biết đó là ông Khổng Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “nhà thơ”, và anh Thuận, trợ lư của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục Chống bạo loạn. Tôi cứ hồn nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại, bảo: “Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp”. Tôi kinh ngạc, v́ tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang căi qua căi lại, th́ một công an mặc sắc phục ở đâu tiến tới, nói: “Các anh lộn xộn ǵ thế, mời về đồn giải quyết”. Đồn CA gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh CA xưng là Đồn trưởng, yêu cầu tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi: “Cái ǵ thế này? Thơ à? Thơ của ai đây?”. Tôi đáp: “Của Hoàng Cầm.” “Hoàng Cầm là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ư kiến cấp trên”. Tôi ngu đến mức vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.
Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh Đồn trưởng bước vào, bảo: “Đây là ư kiến cấp trên”. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: “Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp” v́ tội “lưu truyền văn hóa phẩm phản động”. Thế là nhanh như cắt, hai anh thanh niên “mất xe đạp” lúc năy hiện nguyên h́nh là CA, áp giải tôi lên xe bịt bùng, đưa về… Hoả Ḷ!
Ngày 20/8/1982 th́ đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. C̣n Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở SG chuẩn bị bay về Canada. May được Dương Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo VKB cho Cao Xuân Hạo giữ, ra sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lư của tôi, CA thu được một bức thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào SG, thư dán kín nên tôi không biết nói ǵ trong đó). Hùng bị cấm cửa về VN trong suốt 20 năm. Chuyến anh trở lại VN sau 20 năm ấy, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau.
Sau khi tôi và Hoàng Cầm bị bắt, tin đồn lung tung, có cả tin tôi bị bắt v́ mang thuốc phiện lậu! Theo nhà báo Trần Đức Chính, TBT tờ báo của Hội Nhà báo VN, th́ có tờ báo hồi ấy đăng tải cả một chuyện vụ án mang tên “ Vụ án hai ông Hoàng” với nhiều t́nh tiết ly kỳ! Gần đây, một số sách báo ở nước ngoài và trên mạng vẫn viết là Hoàng Hưng bị bắt v́ âm mưu chuyển tập thơ VKB vào Sứ quán Pháp! Mới biết trí tưởng tượng của người ta phong phú thật!
Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy tháng bị giam th́ kiệt sức v́ bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xă hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.
Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Ḷ. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận VKB là “phản động”, CA để tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi “làm việc”. Người CA đưa tôi vào một pḥng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi ṭ ṃ giở ra, th́… trời ơi, đó là bản tự khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang v́ ông nhận tuốt tuột các ư tưởng chống Đảng, đả kích chế độ… trong tập thơ. Để cho tôi một ḿnh đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại pḥng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như t́nh cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ (giữa khu trại giam và khu “làm việc” có một cái cổng lớn, sau khi “làm việc” xong phạm nhân ngồi đó chờ “quản giáo” ra nhận để đưa vào buồng giam). Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: “Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế?” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói ǵ, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, ḷng tôi vẫn c̣n đau. Với tôi, tự buộc ḿnh phải hèn để có thể tồn tại là điều không ǵ đau hơn cho một kẻ sĩ.
Nhưng trong lúc Hoàng Cầm ngong ngóng CA thực hiện lời hứa (?) cho về vào dịp Tết, th́ một số trí thức Pháp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh vận động đă gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông “bạn thơ” quư hóa phán một câu xanh rờn: “Nước ngoài can thiệp hả? Thế th́ giam thêm một năm nữa cho biết!” (theo lời Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi, đăng trên talawas mở đầu tập VKB 5/4/2007). Thế là Hoàng Cầm bị giam tổng cộng 16 tháng (20/8/1982 – trước Noel 1983).
C̣n bản thân tôi, chỉ v́ tội bướng, mà bị CA lục tung nhà trong SG suốt một ngày trời. Họ t́m ra một số trang nhật kư bằng văn vần làm từ đầu thập kỷ 1970 mà CA nhận định là “phản động gấp 100 lần thơ Hoàng Cầm” (lời ông Khổng Minh Dụ)[3]. Sau gần ba năm điều tra rất công phu mà không t́m thấy ǵ chứng tỏ tôi nằm trong đường dây liên lạc với bọn “văn nghệ sĩ phản động hải ngoại”, cuối cùng, nhờ là “cán bộ nhà nước phạm tội lần đầu”, tôi được đặc ân “chỉ xử lư hành chính nội bộ chứ không bị truy tố ra ṭa” (lời viên CA khi công bố lệnh “tập trung cải tạo” dành cho tôi). Măi đến cuối năm 1985, nhờ không khí chính trị có phần nới lỏng trước Đổi mới, và nhờ người anh ruột là Bác sĩ phục vụ các cán bộ cao cấp đứng ra bảo lănh, tôi mới được về sau 39 tháng tù, với cái lệnh tha mang tội danh được cải thành “lưu truyền văn hóa phẩm đồi trụy” (!). Không hiểu sao lại có sự cải đổi từ “văn hóa phẩm phản động” sang “đồi trụy” như thế? Chắc là CA không muốn có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có tội danh “phản động” trong luật pháp VN, cũng như họ không bao giờ thừa nhận có “tù chính trị” vậy. (Những người bạn vong niên của tôi bị tù đày trong vụ án “xét lại” khi ra tù không ai được cầm lệnh tha hay giấy ra trại!).
Một điều an ủi lớn cho tôi: bị Nhà nước bỏ tù, nhưng tôi được đồng nghiệp bạn bè cảm thông. Thời gian tôi bị bắt, có chuyện được coi là hy hữu: Báo NGVND, cơ quan tôi, hết sức bênh vực tôi. Báo c̣n trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi, bất chấp CA phàn nàn; phải hai năm sau, khi CA công bố lệnh tập trung cải tạo với tôi, báo mới đành ngưng việc ấy và Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng Hưng thôi việc v́ vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Người có vai tṛ lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang, Bí thư Chi bộ Đảng, Thư kư Ṭa soạn báo NGVND. Ở SG, gia đ́nh tôi lâm vào cảnh “vợ dại con thơ” cực kỳ khốn đốn, có những bữa phải ăn chuối trừ bữa, nhưng bù lại đă nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của các thầy cô giáo dạy cháu Hoàng Ly.
Sau khi ra tù, Hoàng Cầm mất hằng năm trời sống trong trạng thái thường trực hoảng loạn, hậu quả của thời gian tù ngục. Nhờ sự động viên của bạn bè văn nghệ ông mới dần dần hồi phục. Sau Đổi mới, thơ Hoàng Cầm bắt đầu tái xuất, nhưng riêng VKB c̣n bị CA ngăn trở dài dài cho đến tận năm 1994 mới ra mắt được. Hoàng Cầm trở thành gương mặt của truyền thông không thua ǵ các “sao”, cuối cùng ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học (2007). Tuy nhiên, cho đến khi ông qua đời (tháng 5/2010), chính quyền không hề có một lời minh oan hay xin lỗi, đừng nói ǵ đến bồi thường cho những năm tù đày oan ức của ông.
C̣n tôi, ngay sau khi tôi ra tù, GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, thầy dạy cũ của tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm, ngỏ ư sẵn sàng nhận tôi làm việc ở cơ quan Bộ. Nhưng tôi chọn tiếp tục nghề báo, và năm 1988, tập Ngựa biển bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị CA tịch thu năm 1982, là tập thơ “ngoài luồng” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau Đổi mới, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Từ đó tôi in thơ b́nh thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đày th́ đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong đó đă được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn hóa – Thông tin, rồi sau đó bài Người về được đưa vào những tuyển thơ quan trọng nhất; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng. Riêng có chuyện xuất cảnh th́ tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ. Măi đến năm 2000, do một đồng nghiệp bảo lănh trực tiếp với ông Tổng cục trưởng An ninh, tôi mới được ông đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào.
Có hai chuyện thú vị về “hậu vụ án VKB”:
Năm 2002, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do khiếu nại của tôi, báo Lao động và Tổng LĐLĐVN đă kiến nghị Bộ Lao động TBXH trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt (quy định phi lư phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đă áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn). Lư do được nêu rơ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam v́ cầm tập thơ VKB của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xă hội đă có nh́n nhận khác, quyền lợi của ông HH phải được trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, Đại biểu Quốc hội, bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, thế là Bộ này quay 180 độ, đổi ngay quyết định, phá lệ!
Năm 2005, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội, t́nh cờ tôi ngồi ngay bên cạnh một viên CA trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ VKB. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đă từng khá căng thẳng với nhau. Nay ông giữ một chức vụ quan trọng trong ngành an ninh. Ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, rồi bỗng bảo tôi thế này: “Tập thơ VKB hay thật! Anh phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi!”
Lạy trời! So với bao nhiêu người chịu oan khiên cho đến lúc chết mà chẳng ai biết đến, như ông Lê Nguyên Chí trong vụ NV-GP chẳng hạn, th́ Hoàng Cầm và tôi thế là c̣n có phúc lắm! Nhớ lại lời ông CA họ Khổng phán khi tôi căi rằng nhật kư của tôi để trong nhà, có lưu truyền đâu mà các ông bắt tội? Ông nói ngay: “May cho anh đấy! Anh mà lưu truyền th́ đi tù không có ngày về”.
Kỷ niệm 25 năm ngày ra tù (30/10/1985 – 2010)
H. H.
[1]<http://boxitvn.wordpress.com/2010/09/19/v%e1%bb%a5-n-v%e1%bb%81-kinh-b%e1%ba%afc-m%e1%bb%99t-s%e1%bb%b1-ki%e1%bb%87n-h%e1%ba%adu-nhn-van/>
[2] Tác giả gửi trực tiếp cho BVN Lê Hoài Nguyên nhớ nhầm là năm 1983.
[3] Tôi chỉ c̣n nhớ vài đoạn, đại khái như sau:
…Các anh bảo chúng tôi
Đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp
Chúng tôi đi
V́ không sợ chết
Chúng tôi chết
V́ sợ sống hèn
Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?
…Chúng tôi đấy
Đều ngoan ngoăn cả
Anh vừa ḷng chứ ạ?
Vâng, chúng tôi cứ khoanh tay ngoan ngoăn ngồi nh́n
Sự nặng nề ngu độn của các anh
Cứ chầm chậm d́m con tàu xuống biển