Thảm nào ta thấy có gì gần gũi

Ngôn ngữ đầu nguồn ở Karl Marx

Cách đây một tháng, ông bạn Sĩ Hải gửi cho tôi bản dịch thơ của… Karl Marx !

Tôi ngạc nhiên. Tôi không biết Marx đã từng làm thơ.

Đọc sách tứ tung, không được ai hướng dẫn, không trong khuôn khổ hàn lâm, khổ vậy : biết đủ thứ linh tinh, có thể tận gốc ở một khía cạnh, nhưng không được biết toàn diện, toàn bộ, về mặt tri thức. Tôi vốn thế. Đành vậy.

Marx làm thơ ! Tôi đã tưởng là chuyện diễu dở. Nhưng đọc bản dịch của Sĩ Hải, tôi thấy có điều quen quen. Tôi vào Google tìm : dường như trong tuổi trẻ, trước khi Marx trở thành Marx, chàng đã từng làm thơ.

Có những câu, tôi cảm thấy gần gũi và hiểu. Có vài câu, tôi ngờ ngợ. Tôi hận hoàn cảnh, và chính mình, đã khiến tôi quên hết tiếng Đức và không còn khả năng cảm và hiểu tiếng Anh đủ để có thể nhận định về mấy bài thơ và bản dịch.

Tôi bèn nhờ vả Chân Phương : "cậu" hoàn toàn hiểu được những hàm ý, những liên hệ liên-bản trong những văn bản này. Nếu "cậu" hứng, điều sẽ khiến "tớ" hân hoan, hãy dịch những bài thơ này ra tiếng Việt. Hình như chúng chứa đựng một vài dự cảm của tôi khi tôi viết Tư Duy Tự Do. Tôi vốn yêu con người phàm tục hơn khái niệm trừu tượng. Vì thế, tôi yêu Marx và đã từng viết : với tôi, chàng là một nhà văn lớn ngay khi chàng viết về những vấn đề trừu tượng và khô khan như "giá trị của hàng hoá", "đấu tranh giai cấp" trong Tư Bản Luận, e tutti quanti..

Chân Phương trả lời tôi :

Tôi biết Marx có ước mơ làm poète lúc trai trẻ. Về sau, vì tấm lòng với giới vô sản lao động mà hy sinh chữ nghĩa, lo việc cứu nhân độ thế như chúng ta đã biết.

Tôi có một tập thơ Marx thời trẻ, nay thất lạc trong các hòm sách. Để tìm lại và khảo cứu.

[…]

Nói đến Marx , cũng như Nietszche, là hai tâm hồn thi nhân, làm gì cũng toát chất trữ tình!

Và đằng sau hai nhân vật này là hình bóng của Goethe, Schiller, Hoelderlin mà Marx và Nz. đều thuộc lòng.

Văn thơ và triết học Đức, cũng như Hi Lạp và Pháp sau  này, là hai đứa con song sinh.

Ý cuối củng (về Marx và Nietszche), tôi quá đồng tình, dù kiến thức của tôi trong lĩnh vực này không thể bằng Chân Phương.

Thảm nào, khi đọc bản dịch thơ của Karl Marx, do Sĩ Hải, tôi thấy có gì gần gũi ! Xuyên qua cuộc sống, tư duy của con người có thể thay đổi một cách cơ bản, hầu như trái ngược với chính mình ở thủa ban đầu. Nhưng con người ấy vẫn "là" một, chẳng thế đứt quãng, chia năm xẻ bẩy thành những mảnh vụn độc lập cô đơn, trừ phần vô-thức (Freud). Mọi người như vậy. Marx cũng vậy. Tôi tin vậy. Không như thế, "hiểu một con người" (Sartre) là chuyện hão ! Và nếu hão, ta không thèm hạ bút hành-văn. Thà nham nhở "nhậu" thôi, nhào dzô, nhào dzô, 100% em ơi, 100%, cũng đã "người" rồi. Khó gì ? Ai, kể cả ta, chẳng làm được ?

Bài này hay :

Karl Marx's Verse of 1836-1837 as a Foreshadowing of his Early Philosophy (William M. Johnston)

William M. Johnston có lý khi cho rằng có sự liên tục giữa thơ năm 1837 và triết năm 1844 của Marx.

Mấy câu thơ "nhạo báng" Kant, Fichte và Hegel[1] :

[Kant and Fichte like to whirl in the ether,

Searching for a distant land,

While I only seek to understand completely

What I found in the street.]

 

[Because I discovered the Highest and found the depths by pondering,

I am rouglhewn, like a God, I hide in darkness, like him.

Long I searched and floated over the rocking sea of thoughts.

And when I found the word, I clung fast to what I had found.][2]

 

đúng là tiền thân của :

"The philosopher, himself an abstract form of alienated man, sets himself up as the measure of the alienated world."

dịch như sau thì đúng là tư tưởng nhất quán của Marx hình thành những năm 1844-1845, phát triển trong L'idéologie allemandeMisère de la philosophie, vận dụng trong những tác phẩm khác của chàng :

Triết gia[3], tự nó là một hình thái của con người đã bị tha hoá[4], tự khẳng định mình như thước đo của một thế giới đã bị tha hoá.

Ôi, khi ở đầu quyển Tư Duy Tự Do, ta đánh giá biện chứng của Hegel là biện-chứng hình-thức[5], ta đã không tạo ra một chữ thừa, rỗng tuếch. Đáng lẽ khi bàn tới Feuerbach, ta phải tạo khái niệm duy-vật hình-thức ! Ta đã không làm được. Thế nghĩa là gì ? Nghĩa là : ta đã hiểu được một điều, có được một ý "đúng". Nhưng chưa hiểu quán triệt nên… khi vận dụng nó, ta âm thầm sợ hãi (?), non nớt, thiếu hụt, không nhất quán. Chán thật. Bút đã sa, gà đã chết, sách đã đăng. Đành vậy. Hè hè…

Phần Marx suy luận về nghệ thuật sâu sắc. Như thơ[6], nghệ thuật là một loại ngôn ngữ đầu nguồn, dễ dàng cảm nhận nhưng khó phân tích, lý giải, chí ít khi nó chào đời : không biết nhét nó vào phạm trù tư duy sẵn có nào ! Có khi chính tác giả cũng không biết nói gì về tác phẩm nghệ thuật thể hiện chính mình. Khi tác giả tùm lum giải thích tác phẩm của mình với những ý tưởng thời thượng, tác phẩm ấy có nhiều khả năng thời trang một thuở thôi : thời gian các lý lẽ ấy ăn khách. Thời gian ấy, đời nay, rất ngắn… Ê, ngắn-dài thường là những khái niệm dành cho không gian đo đếm được ngoài đời, hoặc cho thời gian cũng đo đếm được ngoài mình trong phòng thí nghiệm khoa học, thế thôi, chứ khi anh đợi em, thời gian co dãn kinh hoàng và không gian rỗng tuếch nỗi thiếu hụt… em. Không gian và Thời gian Internet "tàn nhẫn", "bất nhân" lắm đó. Nhưng nó đã trở thành không thời gian thực của ta hôm nay. Hè hè…

Thơ và những nghệ thuật phi ngôn từ khác nhau chỉ ở một điều : thơ còn lý lẽ được, bằng lời, vì nó cũng là lời, nghệ thuật phi ngôn từ thì không.

Nhưng, cơ bản, giống nhau : để hình thành, phải người, phải quật khởi, quật khởi. "Chất thơ" hay "Trữ tình" của tác phẩm ở đó, điều kiện cần thiết nhưng không đầy đủ.

Ta vẫn nghĩ Marx và Descartes đều là nhà thơ. Mà ta… yêu.

2012-02-22



[1] Karl Marx's Verse of 1836-1837 as a Foreshadowing of his Early Philosophy. Author(s): William M. Johnston. Reviewed work(s) : Source: Journal of the History of Ideas, Vol. 28, No. 2 (Apr. - Jun., 1967), pp. 259-268. Published by: University of Pennsylvania Press.

 

[2] I (ta) ở đây là Hegel do Marx "nhại"

Goethe (Faust) "đáp lại" :

là où manquent les idées

se présente à point un mot.

[Aimer-Mourir, PHĐ, trích chú thích của Marx trong Le Capital]

 

đúng lúc cạn ý

có liền một ngôn từ.

[Yêu-Chết, PHĐ]

 

[3] Triết gia : ám chỉ người tự quy giản thành một khái niệm trừu tượng !

[4] Tha hoá : khái niệm mácxít = đánh mất chính mình. Đánh đổi cái mình toàn diện, ba-chiều-kích, lấy một cái mình trừu tượng bơ vơ lơ lửng trên không.

 

[5] biện-chứng hình-thức : thuật ngữ mới do tôi bịa ra, xưa nay chưa ai đánh giá Hegel như thế.

[6] khi thành thơ.