MonDeThuMuoiHai-LHNam

Môn đệ thứ mười hai

Truyện ngắn của Lê Hoài Nam

 

Vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giê-su ki-tô rời thành Na-da-rét lên Giê-ru-sa-lem để hoàn măn nước Chúa. Vài ngày trước đó, Đức Giê-su nói với mười hai môn đệ:

- Chúng ta chuẩn bị lên thành Giê-ru-sa-lem, ở đó thầy sẽ bị nộp cho các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh. Họ sẽ giao thầy cho người Rô-ma. Họ sẽ nhạo cười và nhổ vào thầy, đánh đ̣n và giết chết thầy. Nhưng sau ba ngày thầy sẽ sống lại.

Giu-đa, gă môn đệ thứ mười hai, nghe thầy nói thế liền chột dạ. Y tự hỏi: thầy linh cảm thấy cái chết hay thầy đă đọc thấu ḷng dạ, tâm địa của ta? Những kẻ theo nhóm Pha-ri-sêu luôn kỳ thị, ghen ghét với thầy, bọn họ  không mấy khi được giáp mặt thầy mà thầy c̣n gọi ra ư nghĩ thầm kín u ẩn của họ, huống hồ ta luôn đi theo thầy, thầy ắt phải thấu ḷng ta hơn ai hết. Điều nữa: thầy chết rồi liệu có sống lại được như thầy nói không? Có thể lắm! Thầy đă từng ban phát sự sống cho những người tưởng như đă giă biệt  dương thế đó thôi. Hay là ta thay đổi ư đồ, quỳ xuống chân thầy xưng tội, xin được tiếp tục đi theo hầu thầy?

Không! Không thể được! Đức Giê-su có đủ tâm cao đức trọng để xá tội cho ta trong phút chốc, nhưng ấn tượng về ta, tên môn đệ đă ít nhất một lần phản thầy dù mới chỉ trong tâm thức sẽ măi măi không xóa nḥa được, nó như một vết sẹo lớn trong tâm khảm thầy. Hơn nữa, và điều này mới là quan trọng nhất: ta đă quá chán ghét cái cuộc sống khốn khó và nhàm chán này. Ta muốn nhanh chóng có sự đổi thay...

Đức Giê-su ngồi trên lưng lừa, chú lừa tơ chưa ai cưỡi bao giờ, đi về phía thành Giê-ru-sa-lem. Dân chúng đi theo người rất đông. Nhiều người  cởi áo của ḿnh trải xuống lót đường cho Đức Giê-su đi. Họ vừa đi vừa tưng bừng hô to: “Hoan hô! Kính mừng Đấng nhân danh Chúa ngự xuống trần. Mừng cho một triều đại mới đang tới, triều đại của vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta! Hoan hô Chúa từ trên các tầng trời!...”

Cũng vào dịp đó, các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nhanh chóng tụ họp. Xưa nay họ được coi như những kẻ mũ cao áo dài, đấng bậc trong bàn dân. Họ có dư thừa đức tin vào Thiên Chúa và thông thuộc Kinh Thánh hơn cả lời chào hàng ngày. Nhưng họ không thể tin Thiên Chúa lại mượn Ma-ri-a, một trinh nữ thuộc tầng lớp b́nh dân để đầu thai ra một ngôn sứ của Chúa. Họ càng không chịu nổi một kẻ trẻ măng như Giê-su lại có thể rao giảng những điều thiêng liêng của Chúa trước muôn dân. Tụ họp bàn bạc, họ mong t́m ra một cơ hội để bắt Đức Giê-su và giết đi. Họ nói với nhau: “Chuyện này không thể làm vào ngày lễ, cũng không thể vào ban ngày, kẻo đám dân mông muội đang tin Giê-su sẽ nổi dậy chống chúng ta!”.

Đúng lúc ấy, có một kẻ có cái cằm nhọn, rậm râu, mũi khoằm và cặp mắt xếch hay liếc ngang t́m đến gặp họ và nói:

- Tôi sẵn sàng nộp Giê-su cho các ông!

Các thầy thượng tế và các thầy thông thạo kinh thánh nhận ra người đàn ông này là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, họ tỏ vẻ ngờ vực. Một người trong bọn họ nói:

- Giu-đa, ngươi vốn là kẻ được tin cẩn nhất của Giê-su, nay v́ cớ ǵ đă nhạt đức tin vào thầy của ngươi?

- Tôi vẫn tin - Giu-đa đáp - Tôi vẫn tin Đức Giê-su là Em-ma-nu-en (Thiên chúa ở cùng chúng ta)!

Một vị thượng tế cười khẩy:

- Giu-đa, nhà ngươi hăy nh́n đây: c̣n ai nhiều đức tin và ḷng ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn  đám chúng ta. Có ai mà am tường, thuộc Kinh Thánh hơn cánh ta! Vậy lẽ nào Thiên Chúa không chọn một thục nữ trong giới thượng đẳng để đầu thai mà lại chọn tiện dân Ma-ri-a?

- Thiên Chúa không chọn một thục nữ trong giới thượng lưu bởi Thiên Chúa sợ thói kiêu hợm của loại người đó xa lạ với sự thần thiện của Đức chúa con. Trinh nữ Ma-ri-a tiện dân mà h́nh hài tuyệt mĩ, cốt cách cao thượng, ḷng lành vô cùng. Đức Giê-su đă được mẹ Ma-ri-a cho thừa hưởng tất cả những ǵ là tinh cốt nhất của một thiên thần hiện hữu nơi trần thế. Vẻ đẹp giản dị mà cao sang của người khiến muôn dân chiêm ngưỡng. Ḷng lành và phép mầu nhiệm của người đă cứu độ mọi sinh linh...

Một vị thông thạo Kinh Thánh ngắt lời Giu-đa Ít-ca-ri-ốt:

- Nhà ngươi ngu muội quá rồi! Nhà ngươi không lấy làm hổ thẹn khi một gă thợ mộc như Giê-su lại có thể đóng vai kẻ làm sáng danh Chúa?

Giu-đa đáp:

- Thiên Chúa ban cho người nghề thợ mộc để người biết thương bao nhiêu thợ mộc khác. Đức Giê-su từng làm thợ mộc nên mới chọn Phê-rô, một dân chài làm môn đệ của người. Cả anh em nhà Gia-cô-béc, cả cậu Gio-an tóc vàng cũng từ chốn b́nh dân; và tôi nữa, một kẻ vô danh tầm thường... đều được người cứu độ đoái thương...

Một người trong đám thượng tế nói:

 - Ta nghe bảo nhà ngươi vốn có nghề môi giới buôn bán nô lệ, đang giầu có lên nhanh, ngươi không lấy làm tiếc khi trót đi theo Giê-su chỉ để làm một môn đệ mạt hạng ư?

- Tôi môi giới buôn bán nô lệ, đă kiếm được khá tiền trên thân xác những kẻ khốn cùng, nhưng  chưa bao tôi biết nhỏ một giọt lệ khóc thương họ. Dạy tôi làm việc ấy, chính là Đức Giê-su. Lần đầu nh́n thấy tôi đang buôn người, đôi mắt Giê-su đă dạy tôi điều đó, rồi người nói: “Này Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, bỏ đi hết, theo ta!”. Thế là tôi đi theo người luôn. Phải, Đức Giê-su từng bao phen nhỏ lệ chốn b́nh dân nên người mới truyền dậy những ai có đức tin nơi người những lời thiêng liêng như thế này:

 

 “ Tất cả những ai biết ḿnh nghèo khó trước Thiên Chúa, hăy vui mừng v́ nước Trời là của họ.

Tất cả những ai không đùng bạo lực, hăy vui mừng v́ Thiên Chúa sẽ ban đất cho họ.

Tất cả những ai ao ước ư muốn của Thiên Chúa được thực hiện, hăy vui mừng v́ Thiên Chúa sẽ thực hiện ḷng ao ước của họ.

Tất cả những ai có ḷng xót thương, hăy vui mừng v́ họ sẽ được thấy Thiên Chúa.

Tất cả những ai xây dựng ḥa b́nh, hăy vui mừng v́ Thiên Chúa sẽ tiếp đón họ như con của ngài.

Tất cả những ai bị bách hại v́ giữ đúng ư muốn của Thiên Chúa, hăy vui mừng v́ nước Trời là của họ”...

- Thôi đi nào! - một vị thượng tế quát lên - tất cả những lời hay ho ấy chưa thể làm bằng chứng nói rằng Giê-su là một kẻ nhân danh Chúa.

- Th́ tôi sẽ nói tiếp để các ông nghe - Giu-đa đáp - v́ thời gian lúc này là rất quư giá đối với các ông và tôi nên tôi chỉ kể hai trong số hàng trăm sự việc mà tôi theo hầu Giê-su đă từng chứng kiến.

Sự việc thứ nhất:

Chiều hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia!”. Họ lên thuyền và chèo đi. Bỗng nhiên một trận gió lớn nổi lên. Dưới sông sóng bạc đầu. Trên trời mây đen vần vũ. Sóng dùa qua mạn thuyền, ḷng thuyền ngập nước. Trong lúc đó Đức Giê-su vẫn nằm ngủ phía khoang lái. Các môn đệ đánh thức người dậy và nói: “Chúng ta chết đến nơi rồi, thầy chẳng lo ǵ sao?”. Đức Giê-su vươn ḿnh đứng dậy. Người ngăn đe gió và truyền cho sông biển: “Im đi! lặng đi!”. Gió liền ngừng thổi và sông biển bỗng êm ả như không có chuyện ǵ vừa sẩy ra. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Tại sao các con sợ? Tại sao các con không có ḷng tin?”. Các môn đệ nh́n nhau nói: “Người là ai mà cả gió và sông biển cũng phải nghe lời?”

Sự việc thứ hai:

Đức Giê-su muốn ở một ḿnh với các môn đệ, nhưng dân chúng cứ theo người rất đông, họ muốn người nói với họ điều ǵ đó về đời sống mà Thiên Chúa ban cho. Người không chối từ. Người nói với họ toàn những  điều có khả năng băng bó những vết thương tinh thần mà trong cơi đời thống khổ nơi xứ xở Pa-le-stin cằn khô họ đă và đang nếm trải.

Trời đă gần tối, cả mười hai môn đệ đi đến bên Giê-su và nói: “Xin thầy cho dân chúng về lại làng t́m chỗ trọ và t́m thức ăn, ở đây hoang vu  không có ǵ, chỉ toàn nước là nước!”. Đức Giê-su bảo họ: “Các con hăy cho đồng bào của ḿnh ăn đi!”. Các môn đệ đáp: “Chúng con chỉ có năm cái bánh và hai con cá, trong khi số người đi theo thầy có khoảng hơn năm ngàn, cả đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ”. Đức Giê-su truyền cho các môn đệ: “Hăy nói với họ ngồi thành từng nhóm năm mươi ngươi một!”. Các môn đệ nhanh chóng làm như lời người. Đức Giê-su cầm lấy cái bánh và hai con cá. Người ngước mắt lên trời cầu nguyện, rồi người bẻ bánh và cá trao tay các môn đệ để họ phân phát cho từng người dân. Mọi người có mặt đều được ăn, không một ai bị bỏ đói.

Giu-đa kể xong hai sự việc th́ các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh phá lên cười nhạo báng. Vị đứng đầu trong đám ấy nói:

- Này Giu-đa, nhà ngươi tin yêu Giê-su nhường ấy sao nỡ mang dă tâm phản thầy?

Giu-đa đáp:

- Tôi chưa bao giờ suy giảm ḷng tin với Giê-su, nhưng tôi đă quá mệt mỏi ră rời, trước sự thống khổ của dân chúng, ngán ngẩm trước những lời rao giảng hay ho, những lời hứa hăo của các ngài chức sắc. Khi tôi bỏ lại tất cả để đi theo Giê-su là bởi tôi những tưởng nước Trời đă đă ở rất gần. Giê-su c̣n trẻ, lại có phép nhiệm mầu Thiên Chúa ban, người sẽ nhanh chóng mang lại sự phồn vinh cho xứ xở.  Đă bao lần dân chúng hô to: “Một vương quốc mới sắp đến”, nhưng Giê-su lại tỏ ra thờ ở với sự sốt mến đó, người quá bận rộn về những việc nhỏ bé. Tôi, được Giê-su giao quản lư túi tiền của mười ba thầy tṛ, nhưng sự nghèo hèn, chắt bóp đă khiến tôi nhiều lần ra chợ phải c̣ kè thêm bớt, từng phải nhịn nhục v́ đám con buôn mắng vào mặt tôi là đồ keo bẩn. Chúng tôi đi theo Giê-su, với những bước dầu dăi, nhưng chỉ luẩn quẩn nơi xứ xở khô cằn, từ Giu-đê tới Ga-li-lê, từ Khép-rôn tới Ca-phác-na-um... tới đâu cũng thấy dân chúng mông muội, đói khổ, tật bệnh. Giê-su có phép lạ chữa bệnh cho rất nhiều con chiên, nhưng đấy không phải là việc mệnh hệ có khả năng làm thay đổi một đế chế...

- Thế là đă rơ - một người trong đám thông thạo Kinh Thánh nói -  Nhà ngươi đă bắt đầu vỡ mộng?

- Không, tôi chỉ muốn đưa Giê-su vào một bước thử thách mới, có tính quyết định. Chắc các ông c̣n nhớ , cách đây chưa lâu, dân thành Na-da-ret đă bắt trói và dong Giê-su lên núi toan ném người xuống vực sâu cho tan xương nát thịt, chỉ bởi những lời sấm truyền của người đă đụng chạm nặng nề đến họ. Nhưng Giê-su đă vượt thoát qua họ mà đi. Người vượt thoát một cách nhẹ nhàng của phép mầu nhiệm. Hôm nay, nộp Giê-su cho các ông, tôi biết chắc các ông sẽ hành quyết người, nhưng nếu người vượt thoát lên được lần này nữa th́ người mới xứng danh là một vị Thánh lớn của Thiên Chúa. Đến khi ấy th́ ngay cả những người ghét Giê-su như các ông rồi cũng sẽ tin và đi theo người...

- Này Giu-đa - một vị thượng tế nói - Nhà ngươi không sợ tiếng xấu là kẻ phản bội ư?

- Nếu chịu tiếng là phản thầy để cứu vớt một sự tồn sinh của một xứ xở th́ cũng rất nên làm - Giu-đa nói - Rồi mai sau Giê-su hiển lộ là một vị Thánh lớn, ḷng lành của người rộng bao la, sẽ tha thứ cho tôi.

- Thôi đủ rồi! - kẻ đứng đầu trong đám thượng tế nói - ngươi nộp Giê-su th́ có cần sự đền đáp ǵ ở chúng ta không?

- Tôi cần cái mà Giê-su không bao giờ ban phát cho riêng tôi - Giu-đa nói - Người chỉ có thể ban phát đồng đều cho tất cả các môn đệ của người.

- Tiền?

- Phải, tiền!

- Nhà ngươi làm nghề môi giới buôn bán nô lệ - một người trong đám thông thạo Kinh Thánh nói – tiêu tiền quen rồi, đi theo Giê-su ba năm trời sống chay tịnh nên bây giờ lên cơn khát tiền, đúng không?

- Xin các ông không cần biết lư do- Giu-đa nói.

- Tiền th́ bọn ta lại không thiếu – kẻ đứng đầu trong đám nói – Nào, nhà ngươi cần bao nhiêu? Mười đồng hay hai mươi? Thôi th́ ba mươi đồng vậy! Ngươi cầm lấy và đi bắt Giê-su về nộp, mau!

Trông thấy tiền, mắt Giu-đa sáng lên man dại. Y quỳ xuống đưa hai tay ra đón lấy những đồng tiền từ tay các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh. Y nâng tiền lên miệng hôn, rồi bảo:

- Đức Giê-su đang đi đàng trước kia. Có hàng trăm người bảo vệ. Họ đang hành hương về Giê-ru-sa-lem để hoàn thiện nước Chúa. Ḿnh tôi sẽ không bắt được. Các ông hăy cùng đi theo tôi. Đức Giê-su thường ẩn ḿnh, lẫn với các môn đệ. Khi nào tôi ra ám hiệu đặc biệt với một người trong đám đông th́ các ông xông đến bắt!

Các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh liền đi theo Giu-đa. Lúc ấy chiều đă ngả hoàng hôn. Đức Giê-su ngồi cùng với các môn đệ bên bàn ăn trong căn pḥng nhà nguyện của ngôi nhà thờ cổ  ven rừng Cây Dầu. Từ đây có thể nh́n thấy bức tường thành Giê-ru-sa-lem. Giu-đa ra hiệu cho đám thượng tế và đám thông thạo Kinh Thánh đứng bên ngoài, một ḿnh y bước vào ngồi xuống bên cạnh Giê-su. Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Đột nhiên người nói: "Thật, thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp thầy”. Các môn đệ nh́n nhau, phân vân không biết người nói về ai. Trong số các môn đệ, có ông Gio-an tóc vàng, một người ít tuổi nhất nên được Đức Giê-su thương mến, che chở nhiều nhất. Ông Gio-an cũng đang dùng bữa, đầu tựa vào ḷng Đức Giê-su. Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông Gio-an và bảo: "Hỏi xem thầy muốn nói về ai?”. Ông Gio-an liền nghiêng ḿnh vào ngực Đức Giê-su và hỏi: "Thưa thầy, ai vậy? ". Đức Giê-su trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, th́ chính là kẻ ấy”. Rồi người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Giu-đa nhận bánh, có vẻ ngượng, nhưng y vừa cắn một miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y. Y hết ngượng, vẻ mặt trở nên dữ dằn, táo tợn. Đức Giê-su bảo y: "Anh làm ǵ th́ làm mau đi! ". Nhưng trong số những người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Giê-su nói với Giu-đa như thế. V́ Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su ngầm ư nói với y: "Hăy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho một đám dân nghèo nào đó.  Sau khi ăn xong miếng bánh, Giu-đa liền đi ra ngoài. Lúc đó, trời đă tối.  Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Giờ đây, con người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi người, th́ Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh người nơi chính ḿnh. Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của thầy, thầy c̣n ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ t́m kiếm thầy; nhưng như thầy đă nói với người Do-thái: "Nơi tôi đi, các người không thể đến được". Bây giờ, thầy cũng nói với anh em như vậy”. Ông Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su: "Thưa thầy, thầy đi đâu vậy?”.  Đức Giê-su trả lời: "Nơi thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo”.. Ông Phê-rô nói: "Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con v́ thầy”.  Đức Giê-su đáp: "Anh sẽ thí mạng v́ thầy ư? Thật, thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đă chối thầy ba lần”.

 Ông Phê-rô tái mặt, không nói ǵ nữa. Đức Giê-su nói tiếp: “Thầy dùng bữa tiệc Vượt Qua này trước khi nước Chúa hoàn thành”. Người làm dấu tạ ơn xong, bẻ bánh trao cho các môn đệ, nói: “ Các con cầm lấy bánh mà ăn, này là Ḿnh thầy sẽ bị nộp v́ các con”.

Vào cuối bữa ăn, người cầm lấy chén rượu, làm dấu tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống. Này là chén Máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hăy làm việc này mà nhớ đến thầy”.

Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đứng bên ngoài, y cố giữ vẻ mặt lạnh lùng mà không sao giữ được, bởi y đang rất sốt ruột. Y chưa biết phải dùng ám hiệu như thế nào để báo cho các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nhận ra Đức Giê-su.

Bữa ăn kết thúc. Đức Giê-su đứng dậy lấy chiếc khăn mặt thắt ngang lưng. Người đổ nước vào một cái chậu rồi bắt đầu rửa chân cho các môn đệ. Si-mon Phê-rô không muốn được hầu hạ như vậy, ông hỏi: “Lạy thầy, thầy muốn rửa chân cho con sao?”. Đức Giê-su đáp: “Sau này con sẽ hiểu việc thầy làm cho con ngày hôm nay”. Phê-rô lại nói: “Thưa thầy, con không muốn, hoàn toàn không muốn thầy phải rửa chân cho con”. Giê-su nói: “Phê-rô, con nghe đây, nếu thầy không rửa chân cho con th́ con sẽ không được dự phần vào việc của thầy”. Phê-rô như đă hiểu ra, liền thưa: “Lạy thầy, nếu vậy, xin thầy không những rửa chân mà c̣n rửa cả tay và đầu cho con nữa”.

Đức Giê-su trở lại bàn, nói với tất cả các môn đệ: “Các con có hiểu việc thầy mới làm không? Các con gọi ta là thầy, là Chúa, đúng thế; vậy nếu thầy đă rửa chân cho các con, th́ các con cũng hăy biết rửa chân cho nhau. Các con hăy yêu thương nhau như thầy đă yêu thương các con. Đó là dấu chỉ riêng biệt của các con. Nếu các con biết yêu thương nhau như vậy mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ của thầy. Người có t́nh yêu lớn nhất là người dám chết v́ bạn hữu ḿnh...”

Giu-đa đứng bên ngoài nḥm vào, con tim gă cũng xao động một thoáng. Gă tự hỏi: “Tại sao những gă môn đệ kia không đền đáp lại t́nh thương của người bằng một cái hôn nhỉ? Ta chưa bao giờ thấy đám họ dám hôn thầy như ta đă từng làm. Phải rồi, ta sẽ dùng cái hôn làm ám hiệu riêng của ta”.

Màn đêm đă bắt đầu buông xuống. Đức Giê-su bước ra một khu vườn dưới chân núi Cây Dầu. Các môn đệ đi theo người. Đến giữa khu vườn, Đức Giê-su dừng lại nói: “Hăy cầu nguyện để đứng vững trong cơn cám dỗ”. Rồi người quỳ xuống cầu nguyện: “Lạy cha, nếu cha muốn, cha có thể cất cho con sự đau khổ và cái chết. Nhưng xin đừng làm theo ư con mà hăy làm theo ư Cha”.

Trong nỗi buồn khổ sầu xứ, Đức giê-su đi một ḿnh về phía cuối vườn, tiếp tục cầu nguyện rất sốt sắng, đến nỗi mồ hôi người đỏ tươi như như những giọt máu nhỏ xuống đất. Sau đó người quay lại đi về phía các môn đệ. Sự mệt mỏi và nỗi lo âu đă làm các môn đệ ngủ thiếp đi. Đức Giê-su nói: “Nào các con hăy dậy đi! Dậy đi và hăy cầu nguyện chuẩn bị chống đỡ với những thử thách mới”.

Đức Giê-su vừa nói đến đó th́ các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh xuất hiện. Giu-đa Ít-ca-ri-ốt dẫn đầu. Y tiến đến trước mặt Giê-su. Y dang tay ôm lấy người mà hôn thắm thiết. Đức Giê-su hỏi: “Giu-đa, anh phản bội ta bằng cái hôn này sao?”. Lúc ấy các môn đệ hiểu rằng những người này muốn bắt và đem Đức Giê-su đi, họ hỏi: “Thưa thầy, chúng con tuốt gươm chém được không?”. Một người trong nhóm rút gươm chém đứt một bên tai một kẻ trong đám thượng tế. Đức Giê-su can: “Này con, hăy nghe ta, dừng tay!”. Rồi người cúi xuống nhặt cái tai lên ghép vào đầu người bị nạn, máu cầm, tai liền lại. Nhưng hành động nghĩa hiệp ấy của người vẫn không làm các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh chùn tay. Họ là một đám đông, có đủ sức mạnh bắt Đức Giê-su giải đi. Họ đi theo con đường ven sườn núi. Đi được một quăng, các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh nh́n thấy Giu-đa quỳ bên một gốc cây, miệng  lầm rầm cầu nguyện. Người đứng đầu trong đám nói:

- Giu-đa! Nhà ngươi đă dùng cái hôn làm ám hiệu dẫn tử thần đến với thầy của ngươi, giỏi lắm! Đáng khen!

Giu-đa không trả lời. Gă ngước nh́n lên, trong mười ba thầy tṛ chỉ c̣n ḿnh Giê-su, các môn đệ lúc này cũng tản đi mỗi người một nơi. Giu-đa sực nhớ đến lời phán của Giê-su lúc Phê-rô muốn hy sinh v́ người: “Anh muốn thí mạng v́ thầy ư? Thật, thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy anh đă chối thầy ba lần!”. C̣n đám dân, mới trước đó tưng bừng hô to Đức Giê-su là Chúa giáng thế, rồi nhận phần ăn do người ban phát, giờ đây chẳng hiểu các thầy thượng tế và các thầy thông thạo Kinh Thánh xúi dục thế nào mà họ đang phồng mang trợn mắt gào thét: “Hăy giết Giê-su! Hăy đóng đanh câu rút kẻ tà đạo lên thập ác!”. Nghe tới đó, Giu-đa giật ḿnh, quay nh́n theo cái lưng Giê-su như gẫy gập xuống bởi một cây thánh giá khổng lồ quân dữ vừa đặt lên, bắt một ḿnh người vác. Đức Giê-su sẽ bị đóng đanh câu rút lên cây thập giá kia thật sao? Kẻ nào nghĩ ra kiểu hành h́nh dă man khủng khiếp này?  Đức Giê-su có vượt thoát được cuộc hành quyết hiểm hóc  này để trở thành một vị Thánh lớn? Và khi đó người có tha thứ cho sự phản bội của ta? Người có dang tay tế độ, cứu rỗi linh hồn cho những môn đệ bạc bẽo và đám đông dân chúng dễ bị mua chuộc kia?

Giu-đa Ít-ca-ri-ốt không tự trả lời được.

Chỉ ít giờ sau đó, Đức Giê-su đă bị giải đến Phong-xi-ô Phi-la-tô, tổng trấn Rô-ma để chịu sự nhục mạ và một cái chết đau đớn, độc đáo chưa từng có trên mặt đất!

Giu-đa chứng kiến toàn bộ cảnh hành quyết Giê-su. Trong một khoảnh khắc hoảng sợ, tinh thần bấn loạn, y đă t́m được một liều thuốc độc uống tự tử. Y không thể chờ được đến cái lúc Đức Giê-su sống lại để thể tất, cứu rỗi linh hồn cho y như người đă thể tất cứu rỗi cho các môn đệ khác.

Viết:Lễ phục sinh 1995

Sửa chữa: Lễ Phục sinh 2010