ChanDungVanHocNguyenDuy

Nam Dao giới thiệu:

một chân dung của nhà thơ Nguyễn Duy nắm bắt tinh tế qua cái nh́n của Chu Văn Sơn.  Nhưng đây chỉ là một chân dung, trong những  chân dung khác. C̣n Nguyễn Duy của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, của Đánh Thức Tiềm Lực,  C̣n Nguyễn Duy ‘’ phản chiến’’, Và nhất là Nguyễn Duy của Vợ ơi…

 

http://www.toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/images/linexam.jpg

Nguyễn Duy, thi sĩ thảo dân

Chu Văn Sơn

(Toquoc)- Nguyễn Duy là ai ? Tác giả của hàng loạt thi phẩm sáng giá như: Tre Việt Nam, Đ̣ Lèn, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Tuổi thơ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Lời ru đồng đội, Mưa trong nắng nắng trong mưa, Sông Thao, Ông già Nam Bộ, Xẩm ngọng v.v... là ai ?

1. T́m tên

http://toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/images/News/20070811AWRH054.jpg

Nhà thơ Nguyễn Duy

Gần đây, cứ thấy giữa đô thị bỗng mọc lên những nhà gianh, nhà sàn, nhà rông với tranh tre, nứa lá, gỗ lạt thô mộc. Người ta bỗng thích của đồng rừng, đồng băi. Những thứ như lươn cua ốc ếch, ḱ đà ḱ nhông, rau bí rau lang... thành đặc sản tuốt. Đến nỗi người quê có thể kiêu hănh mà định nghĩa: những thứ nhà quê chán ăn, ra phố lập tức thành đặc sản. Cái tầm tầm quê kiểng bỗng lên ngôi, bỗng thời thượng. Đă đến thời chân quê được chấn hưng chăng? đô thị đă ngả mũ trước gốc rễ của nó chăng ? Tôi giàu trí tưởng bở. Chẳng qua là làm hàng, là một cái mốt lạ thời kinh tế thị trường thôi. Bởi thế, bước vào triển lăm thơ Nguyễn Duy, tại 29 Hàng Bài, thấy bày những xó bếp với cột kèo, đống rấm con cúi, nồi đất đen thui, thúng mủng, nong nia, rành mẹt, rổ rá, giần sàng, chum vại, thửng hũ, cóng ang... trên đó la liệt những câu thơ, trang thơ, tập thơ, tôi có thoáng nghĩ: lại một mốt lạ, một lối chơi ngông. Nhưng không phải. Vào đây tôi gặp ḿnh. Bao nhiêu thứ tưởng có thể quay lưng đang bày biện cả ra kia! Cái nền văn hoá đă đào luyện nên ḿnh mà ḿnh cứ ḥng quên đấy! Cũng là con đẻ của xó bếp, của rơm rạ, của tre pheo và đất thó, chẳng nhẽ Duy lấy những cái đó chỉ để làm chơi? Không. Vừa là một cuộc chơi, lại vừa có cái ǵ thiêng liêng trang trọng lắm. Không thế, làm sao Duy có đủ xác tín để mang tất cả những thứ đơn sơ đến nôm na, quê kiểng đến quê mùa kia sang trưng bày một cách kiêu hănh ở Singapore hay ở những cường quốc như Mĩ, Đức tựa như một sứ giả của nền văn hoá này được! Hay Duy đang tôn vinh xó vườn, xó bếp? đang giả ơn cái rổ cái xề? trả nghĩa cái chum cái chĩnh? Cũng không. Việc như thế một kiếp thi sĩ làm sao kham nổi ! Không mặc cảm, không đùa bỡn, không kiêu bạc. Chỉ đơn giản là Duy đang tŕnh bày ḿnh, đang phơi trải ḿnh, đang trưng bày cái tông tích ḿnh, cái cội rễ thơ ḿnh đó thôi. Và đó là cuộc trưng bày xưa nay chưa từng có. Cuộc chơi thế này anh có thể làm lúc c̣n trẻ không? Sao có thể làm được, phải vào cái tuổi tri thiên mệnh trở đi, người ta mới dần trở lại với tuổi thơ. Chỉ có trẻ thơ và kẻ trải tất rồi mới hiểu được Chơi là việc Nghiêm túc (c̣n khối việc nghiêm túc lắm khi lại là chơi).

Vậy, Nguyễn Duy là ai ? Tác giả của hàng loạt thi phẩm sáng giá như: Tre Việt Nam, Đ̣ Lèn, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Tuổi thơ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Lời ru đồng đội, Mưa trong nắng nắng trong mưa, Sông Thao, Ông già Nam Bộ, Xẩm ngọng v.v... là ai ? Dù xuất thân như thế, tôi vẫn không nghĩ anh là thi sĩ thôn dân. Duy c̣n là một thị dân, c̣n là lính. Hay gọi là Thi sĩ chiến sĩ ? Nghệ sĩ chân chính nào chẳng là chiến sĩ. Thi sĩ công dân ?- Vẽ, ở ta ai chẳng công dân. Thi sĩ b́nh dân ? - th́ cả thi sĩ quan lại quí tộc có ai không nhận là b́nh dân đâu. Thi sĩ phó thường dân? E rằng sẽ khó được coi là cụm từ nghiêm túc. Thế c̣n nhà thơ dân đen ? Nghe nó mặc cảm thế nào... Thôi, trong khi đợi phong là thi sĩ nhân dân, tôi cứ gọi Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân. Có người sẽ bảo: như manh dân, lê dân... chữ thảo dân cũng đầy mặc cảm chứ hơn ǵ. Phải, nó nói cái phận hèn, cái kiếp vô nghĩa, cái đời mong manh. Nhưng đấy là xưa. Tôi thích chữ ấy v́ nó xưa. Và quan trọng hơn, v́ cái từ xưa này đang được làm mới, với những sắc thái thú vị của th́ hiện tại, bởi một phong cách ngôn ngữ mà Duy đương phải ḷng - ngôn ngữ "cơm bụi". Đă đành, cánh làm thơ xứ ta đa phần là thảo dân. Nhưng thi sĩ thảo dân lại là chuyện khác.

 

2. Từ những chiếc kim la bàn...      

Ấy là một kiểu nhà thơ. Có thể thấy Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân ngay từ trong quan niệm nhân sinh và nghệ thuật. Thói thường, có được một quan niệm riêng đúng đắn, xem như có một hoa tiêu tin cậy cho hành tŕnh sáng tạo rồi. Quan niệm của một kẻ viết, cố nhiên, không phải nhất thành bất biến. Chả hiếm ǵ những tâm niệm cuối đời muốn đính chính những ngộ nhận đầu đời. Song ở Duy, cái quan niệm buổi chập chững đă là một kim la bàn khá chuẩn. Càng về cuối chỉ càng sắc nét hơn. Nghĩ cũng vui, theo cái định nghĩa vĩ đại của Đêcac, đă có bao cái khác nảy sinh. Hồi đánh Mĩ, cả Chế Lan Viên cùng Việt Phương đều nhất quyết: Ta đánh Mĩ vậy ta tồn tại. Trong t́nh yêu th́ Lưu Quang Vũ cũng ngất ngây: Anh yêu em vậy anh tồn tại. Lời kia sắm vai triết gia của kháng chiến, lời này diễn vai triết nhân của ái t́nh. C̣n Duy không thế. Duy nói lên cái triết lí thảo dân: Ta là dân vậy th́ ta tồn tại. Thực t́nh, phải đến sau này, 1989, anh mới đúc thành châm ngôn tổng quát như vậy. Nhưng cái tư tưởng trọng dân th́ vốn đă sẵn trong căn cốt rồi. Không thế, làm sao hồi 68-70, cậu lính non choẹt bấy giờ đă thấy ra và ghi ḷng tạc dạ: "Một đời không thể nào quên/ ḷng dân - chiếc mộc vững bền che ta"? C̣n đến 1993, sau hơn 30 năm, tính từ bài thơ đầu đời, th́ nó đă thành hẳn một tuyên ngôn bướng bỉnh: "Cứ ch́m nổi với đám đông / riêng ta xác định ta không là ǵ(...) Cứ là rượu của chúng sinh / cho ai nhắm nháp cho ḿnh say sưa"... Ch́m nổi cùng chúng sinh, làm rượu của chúng sinh, thế mới là chân thảo dân. Và đáng nói nữa, theo Duy, phải thế mới xứng là đấng tài t́nh: "lẫn trong thập loại chúng sinh / người như thế mới tài t́nh làm sao". Duy ngộ ra điều ấy đúng cái lúc tảo mộ Nguyễn Du, hay Duy đang thầm lặng đưa ra quan niệm riêng để đánh giá tầm vóc Nguyễn Tiên Điền? Thật khó mà tách bạch. Chỉ biết cái lơi của nó chính là một chuẩn mực ngỡ như khiêm nhường, ḱ thực lại cực khe khắt về người nghệ sĩ : sống chết cùng thập loại chúng sinh, nói về họ, rồi thuộc về họ, mới là tột bậc tài t́nh. Hoá ra thế, thuộc về vô danh mới là vô giá. Mới là siêu danh. Đó chẳng phải thước đo cao nhất dành cho mẫu thi sĩ thảo dân hay sao?

Không có quan niệm đẻ ra tài năng. Chỉ có tài năng đẻ ra quan niệm. V́ quan niệm chân chính bao giờ cũng là sự lên tiếng của một đời văn. Nó phải được đời văn ấy bảo hành, bảo hiểm. Thực mà nói, hiểu ra sự bền vững muôn đời của dân, chả có ǵ mới. Dĩ dân vi bản, rồi th́ quan nhất thời dân vạn đại là những tư tưởng đă xưa lắm rồi. Điều khó là anh, chính anh, có thể trở thành một định nghĩa sống hay không. Khối người có ư muốn cận dân, thân dân, muốn thành kẻ hát rong trong chúng sinh. Nhưng vẫn chỉ suông thôi. Để thành thi sĩ thảo dân xịn đâu có dễ. Ch́m nổi cùng thập loại chúng sinh đă không dễ ǵ, làm được rượu của chúng sinh lại càng không dễ.

*

Quan niệm về nghề, dầu sao, mới chỉ là những định hướng bên ngoài. Nó nghiêng về phần ư thức xă hội của nghệ sĩ. Nó chọn mẫu nghệ sĩ và chọn hướng đi cho một cuộc dấn thân, chứ chưa hẳn là ư thức thẩm mĩ của anh ta. Nhưng ở Nguyễn Duy, nó cũng trở thành một phần của ư thức thẩm mĩ, khi được chuyển hoá vào h́nh tượng cái Tôi thi sĩ.

Tập thơ đầu tay "Cát trắng" in năm 73, tập thơ cuối cùng (lúc tuyên bố bỏ thơ) in năm 97 có tên là "Bụi". Tuyển tập sắp in sẽ có bốn phần như một mạch tuần hoàn: Đường làng, Đường nước, Đường xaĐường về. Đó là hành tŕnh thơ Nguyễn Duy. Hành tŕnh từ Xó bếp ra Thế giới. Từ hạt Cát đến hạt Bụi. Hành tŕnh của "giọt nước ĺa nguồn ra biển", của "gịng nước trôi đi giọt nước lại rơi về". Trên những chặng đường dài dặc ấy, Nguyễn Duy đă tŕnh ra trọn vẹn cái tôi của ḿnh. Là hạt nhân của một kiến trúc nghệ thuật, cái tôi trữ t́nh thường được h́nh dung như một h́nh tượng sống, với nhân dạng, với tư thế và tâm thế trữ t́nh đặc thù. Nó nảy nở từ con người thực của tác giả, nhưng đă được điển h́nh hoá để trở thành một h́nh tượng nghệ thuật toàn vẹn: h́nh tượng Cái Tôi. Ở Duy ? ấy là cái tôi thảo dân. Này xem, những ẩn dụ tự hoạ mới cỏ giả làm sao! Duy thường ví ḿnh như hạt bụi bay trong cơi người, như hạt cát dạt trôi trong ḷng sông Mạ, như "giọt nước nhỏ biệt tăm ngoài biển cả"... và thiết tha nhất là như cỏ dại vô danh mà hữu ích: "những mong có ích cho người / dẫu làm thân cỏ dập vùi... sá chi". Chẳng phải đó là thảo dân theo nghĩa đen của chữ hay sao!

Tôi vẫn cho rằng h́nh tượng sống động luôn là nhất thể toàn vẹn, nó toàn vẹn bởi sự hoà hợp của các đối cực. Tôi tin vào sự hoà hợp này. Đó là cấu trúc phổ biến của vẻ đẹp. Cái tôi Nguyễn Duy cũng thế. Các đối cực ngỡ đầy nghịch lí đă hài hoà trong một nhất thể. Một mặt, nó cực bụi: "ta nhớ ta / bụi bặm quê nhà", mặt khác, nó cực nghiêm: "xin nghe anh nói cực nghiêm / linh hồn cát bụi ở miền trong veo". H́nh hài th́ cát bụi, linh hồn th́ trong veo. Vừa là "gă hát rong không xin tiền" vừa sẵn sàng viết "những câu thơ tuẫn tiết". Cỏ giả thôi mà Nghĩa khí đấy. Nghĩa khí đấy mà Cỏ giả thôi. Nếu thiếu sự hoà hợp của các đối cực như thế, làm sao có thể coi là một cái tôi thảo dân chân chính được ?

Tuy nhiên, trong thế giới h́nh tượng, cái bản nguyên này vẫn thường hiện ra với hai bản tướng: thảo dân khoác áo lính và thi nhân trong kiếp thảo dân.

Là lính, th́ chàng lính này vào chiến trường sẵn sàng xả hết ḿnh v́ nước gặp tai ương, chứ cóc phải v́ ham súng đạn, mơ chiến tích, hay màng huân chương. Không máu mê đánh chác, không ngất ngây trước đụng độ máu lửa. Mà ngay cả lúc bị cuốn đi giữa "sục sôi bom lửa chiến trường", th́ "tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng". Chủ yếu là những tâm tư ở bề sâu của cuộc chiến. Không hẳn là cái nh́n sử thi, cũng không hẳn là cái nh́n đời tư. Anh lính ngay lúc trẻ đă già này nh́n chiến tranh bằng cái nh́n của một thảo dân. Một thảo dân đích thực bao giờ cũng vừa thiết tha với số phận đất nước, vừa lo âu cho thân phận chúng sinh. Trong cái nh́n ấy, phần trăn trở nhất của chiến tranh vẫn là thân phận người, thân phận lương dân. Những lẽ Hơn - Thiệt, Được - Thua, Thắng - Bại, Vinh - Nhục, Sang - Hèn, C̣n - Mất... nhất nhất phải lấy sự an nguy của dân lành làm trọng. Cái nh́n ấy khiến anh soi thấy "Cát trắng ánh lên màu đỏ". Thấy bom dội th́ "nhà bà tôi bay mất / đền Ṣng bay, bay tuốt cả chùa chiền / Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết / bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn". Thấy lính tráng suốt đời chỉ biết gối lên tay ḿnh mà ngủ th́ cất lên lời ru đồng đội. Đuổi theo thằng lính địch th́ chỉ muốn bắt, không muốn bắn - không ham giết một kẻ thù, chỉ mong cứu một đời người - nghĩa là v́ một chiến thắng cao hơn. Thấy "AQ túm tóc Chí Phèo / để hai bác lính nhà nghèo cùng thua". Thấy một tân binh th́, cái tôi đă vào sinh ra tử với nhiều lần chết hụt ấy có lời "chúc chú mày cứ đẹp như cây cảnh / và, lạy trời / không bao giờ phải ra trận". Thấy chiến tranh kết thúc th́ vừa nhận ra những mảnh đời tan tác lưu lạc trên hai nửa đất đai đang sum họp, vừa thấy người bạn vĩnh viễn nằm lại bên kia cầu xa lộ vào cái giây chót cùng của cuộc chiến. Thấy "mỗi phút thanh b́nh thật đắt giá / Những giọt máu nặng như chùm quả"... Và bao trùm hết thảy là nghiệm sinh này: "nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / phe nào thắng th́ nhân dân đều bại". Một cái tôi như thế chẳng phải là một thảo dân mặc áo lính hay sao ?

http://toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/images/News/20070811PWAE14.jpgC̣n là thi nhân, th́ chân ướt chân ráo vào nghề đă tuyên ngôn dứt khoát "là ta ta hát những lời của ta", đă đau đáu một nguyện ước cất lên "những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh". Vào những năm 70, thời "minh họa" và "phải đạo" c̣n ngự trị, tâm nguyện thế này chẳng phải như một thứ tiên phong cho thức tỉnh và đổi mới sau này hay sao? Mà thơ Duy là thế, lúc nào cũng là “những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh!” Điều rất đáng nói nữa là: cái tôi thi nhân kia thực là kẻ có đạo. Ấy là Đạo Chân Thành - "dù có sao cũng phải chân thành". Cả trong thơ lẫn trong đời, Duy đều coi chân thành là cứu cánh và cứu tinh của ḿnh. Không chân thành làm sao dám nói lên những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh? làm sao có thể sẵn sàng tuẫn tiết viết những lời thơ đánh thức lương tri? sẵn sàng làm những bài thơ "hạng nặng"(1) như "Nh́n từ xa... Tổ quốc", "Đánh thức tiềm lực", "Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ" để nói thật, nói thẳng, không hề tránh né những vấn đề bức xúc của th́ hiện tại được? Rồi nữa: cái tôi thi nhân kia lúc cần tự họa ḿnh th́ cũng cứ chân thành đến đáy, chẳng hề làm dáng làm duyên, chẳng nề hà những nhếch nhác, bụi bặm. Là "một thằng dớ dẩn / ngồi làm thơ rưng rưng". "thi nhân hoá phăm phăm ngựa thồ". Là kẻ mắc bệnh thơ- "Con ơi cha mắc bệnh thơ / ú a ú ớ ù ờ thâm niên / lềnh phềnh thân phận chúng sinh / lênh phênh hồn xứ thần linh tít mù". Là "gă hát rong chẳng xin tiền. Là xẩm ngọng, mà ngạo nghễ khúc đồng dao nhăng cuội"... Nghĩa là không phải cái tôi cao đạo, khoác áo tao nhân mặc khách. Không phải cái tôi triết nhân khệnh khạng táo bón. Không phải cái tôi quyền uy rao giảng phán truyền... Đừng nghĩ cái tôi này làm ra thế là muốn dị ứng với những cái tôi đó. Hoặc kị giơ với quí tộc, trí thức, thị dân, chính khách. Chẳng dại ǵ, mà cũng chẳng hơi đâu. Cũng đừng vội chụp mũ rằng thế là cái tôi phi chính trị. Một con người tự đáy ḷng đă khắc cốt ghi tâm "dù ở đâu cũng Tổ quốc trong ḷng / cột biên giới đóng từ thương đến nhớ", làm sao lại thờ ơ hay quay lưng với chính trị được? Nghe thêm Duy nói đây này, trực tiếp bằng chính luận chứ không phải gián tiếp qua thơ phú ǵ ǵ đâu: “Là một nghệ sĩ mà anh đă đứng về phe Nhân Dân, Dân Tộc th́ trong bất ḱ thời đại nào anh phải có thái độ chính trị của ḿnh... Nhà văn có thái độ chính trị nhưng nhà văn không phải là cái đuôi của chính trị" (2). Vâng, cái tôi đây chỉ muốn là chính nó - một thi sĩ thảo dân, một thảo dân thi sĩ. Thế thôi. Đây, hăy xem bộ dạng tự hoạ (không hẳn là tự trào!) của Duy thế này: "Ta dù lếch thếch lôi thôi / mong thơ sinh hạ cho đôi ba ḍng... Cứ bèo bọt bước thiên di / đưa chân lục bát mà đi loằng ngoằng... Cứ là rượu của chúng sinh / cho ai nhắm nháp cho ḿnh say sưa / Cứ như hoa cỏ bốn mùa / giọt sương giọt nắng giọt mưa vơi đầy", chẳng phải là một thảo dân xịn sao? Cái chân-dung-tổng-quát nh́n lệch, hay là nh́n loằng ngoằng này, xem thế mà nét đáo để !

*

Lơi cốt của quan niệm thẩm mĩ vẫn là quan niệm về cái đẹp. Tôi cho rằng, về căn bản, nhân văn là thái độ trước cái Đẹp, c̣n nhân đạo là thái độ trước cái Khổ. Hạt nhân của thái độ nhân văn là t́nh yêu, c̣n hạt nhân của thái độ nhân đạo là t́nh thương. Tuỳ tạng người mà nặng về từng phía. Có lẽ không chỉ ở xứ ta, vấn đề dằn vặt dân đen nhất vẫn là cái Khổ. Khổ v́ đói, nghèo, v́ thiên tai, địch họa, v́ áp bức xách nhiễu... Do Khổ là một thực tại quá phổ biến và dai dẳng, mà thơ ca dân gian than Khổ có phần đậm hơn mê Đẹp. Đến nỗi hễ ai mải mê t́m kiếm cái đẹp đơn thuần, ít nói đến khổ, th́ dễ bị coi là kẻ nhởn nhơ, vô t́nh. Oan mà khó căi. Đành rằng, thi sĩ phải là kẻ đồng cảm trước hết với cái khổ. Nhưng ngoài cái khổ thảo dân, c̣n có cái đẹp thảo dân. Không lập được một mĩ học phù hợp, đừng ḥng trở thành rượu của chúng sinh.

May thay, ngay từ trong "cơ địa", Duy đă sẵn mang một mĩ học như thế. Duy nhạy cảm với cái Khổ. Anh tâm sự: "Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo / quen cái thói hay nói về gian khổ / dễ chạnh ḷng trước cảnh thương tâm". Cũng sinh ra ở xứ Thanh, tôi hiểu những bộc bạch thành thực kia có cội rễ từ đất nào. Nhưng anh không nỉ non than nghèo kể khổ. Chẳng mới ǵ, mà cũng chẳng ích chi. Hướng của Duy là t́m cái Đẹp trong cái Khổ. Cũng theo hướng này, có khối người đă thơ mộng hoá cái Khổ. Chấp nhận khổ và ráng chịu khổ từng được xem như cái Đẹp một thời. Cái Đẹp thế đồng nghĩa với chữ Nhẫn. Coi Nhẫn một bề là Đẹp, làm sao c̣n biết ngẩng lên! Giờ Duy cũng thi vị hoá một bề sao? Duy không vô tâm, tàn nhẫn thế. Chỉ ai muốn lừa ḿnh, mị người mới thế. Cũng t́m cái Đẹp ngay trong cái Khổ, nhưng quan niệm của Duy khác: khắc chế cái Khổ và vượt lên cái Khổ đó chính là cái Đẹp. Một tư tưởng mĩ học như vậy thật khoẻ khoắn và thực tế. Đó chỉ có thể là mĩ học thảo dân. Hướng tới cái đẹp đó, thái độ nhân đạo và nhân văn của nghệ sĩ đă t́m thấy được tiếng nói chung để hoà giọng, hoà điệu. Duy đọc ra di chúc của người xưa giấu trong bức tranh "Lí ngư vọng nguyệt": "bùn nước rong rêu đắm ch́m lặn lội / cứ lững lờ nhắm nháp một vầng trăng". Nhọc nhằn lam lũ không hề loại trừ lăng mạn thăng hoa. Đọc vào tre Việt Nam, Duy thấy cái lẽ sống của tre là vươn ḿnh, vượt khổ: "Vươn ḿnh trong gió tre đu / cây kham khổ vẫn hát ru lá cành". Kham khổ đắng cay nhưng đâu thiếu ngọt ngào đằm thắm... Duy nhận ra cái đẹp của hoa chắt chiu (Tôi ngờ, nguyên nó là hoa chạc ch́u?): "Đồi cằn hoa cũng chắt chiu / Chắt chiu hoa muốn nói điều chi đây / Dạ thưa một chút hương này / Mồ hôi hoa đấy tháng ngày chắt chiu". Nhận ra cái đẹp của Tre Việt Nam: "Rễ siêng không ngại đất nghèo / Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù"... Khổ mà vẫn Đẹp, Đẹp bởi vượt lên Khổ, là thế. Không có quan điểm kia, làm sao Duy có thể trân trọng, chắt chiu được những vẻ đẹp này?

Tôi vẫn cho rằng niềm trăn trở nhất trong suy cảm trữ t́nh của một nghệ sĩ chân chính là chuyện C̣n - Mất của những ǵ ḿnh coi là quí giá thiêng liêng. Nghĩa là niềm canh cánh về Giá trị và Phản giá trị. Tư duy nghệ sĩ sẽ phân lập toàn bộ thực tại thành dăy tương ứng: đẹp - xấu, tốt - xấu, hay - dở, sang - hèn, thanh - phàm, thiêng - tục, thật - rởm, lành - dữ, nghiêm - chơi, hữu ích - phù phiếm, cao quí - xoàng xĩnh, cao cả - thấp hèn, vĩnh cửu - chốc lát, trường tồn - thoáng qua, bất diệt - băng hoại, vững chăi - mong manh, bền thắm - phai tàn.v.v... Cái thế giới nghệ thuật sống động của nghệ sĩ, trong chiều sâu của nó, sẽ là sự tương tranh không ngừng mà đầy biến hoá giữa các đối cực ấy. Một bản lĩnh nghệ thuật phải bộc lộ thành xác tín về sự vĩnh viễn của những ǵ ḿnh coi là giá trị. Duy cũng thế. Nhiều lúc ngẩn ngơ nhận thấy: "có ǵ lạ quá đi thôi / khi gần th́ mất... xa xôi lại c̣n". Và vẫn hằng tin: "Sẽ c̣n măi những ǵ không thể mất". Vậy, giá trị nào, cái đẹp cụ thể nào đă trở thành đức tin của thi sĩ thảo dân này ? Nh́n tổng thể có thể thấy: đơn sơ mà ḱ diệu chính là diện mạo bao trùm của cái đẹp Nguyễn Duy. Đơn sơ chứa đựng ḱ diệu, ḱ diệu ngay trong đơn sơ. Cái đẹp ấy sẽ chi phối ng̣i bút của anh trong việc sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của ḿnh, từ nội dung đến h́nh thức, từ cảnh vật tới nhân vật... Duy sẽ đi vào cái vô danh để mang về cái vô giá. Đi vào "những cọng rơm xơ xác gầy g̣" để chắt chiu thứ "hơi ấm hơn rất nhiều chăn đệm". Đi vào cái tối để mang về ánh sáng: "th́nh ĺnh đèn điện tắt / pḥng buyn đinh tối om / vội bật tung cửa sổ / đột ngột vầng trăng tṛn". Đi vào cái lặng im mang về những cái giật ḿnh sâu thẳm: "trăng cứ tṛn vành vạnh / kể chi người vô t́nh / ánh trăng im phăng phắc / đủ cho ta giật ḿnh". Đi vào cái nhỏ nhoi, mang về cái cao quí, đi tới chốn mong manh để đem về cái bất diệt: Lắng nghe câu hát đảo đèn để nhận ra trong câu hát có cái ǵ bất diệt, ngắm nh́n hạt cát long đong ch́m nổi trôi dạt trên những ngọn triều của cuộc đời thấy hạt cát có cái ǵ bất diệt, đi vào cái mất để đem về cái không thể mất: "Bao triều vua phế đi rồi / người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ", "dẫu cho ḍng thời cuộc cứ trôi đi / dẫu em sẽ già như bà vũ sư kia / th́ c̣n lại muôn đời là điệu múa / Cái đẹp giương cao ngọn cờ bất diệt"," Tuổi thơ tôi cứ ngỡ mất đi rồi / năm tháng trôi qua không bao giờ chảy lại / cái năm tháng mong manh mà vững chăi / con dấu đất đai tươi rói măi đây này"... Quan điểm ấy đă giúp Nguyễn Duy vững vàng đi suốt con đường nghệ thuật của ḿnh.

Cố nhiên, không phải ngay từ đầu mọi chuyện đă hoàn chỉnh đến thế. Có thể thấy tư tưởng của anh ngày càng định h́nh cùng hai bước ngoặt lớn. Lần thứ nhất: đối mặt với thực tại chiến tranh. Trước khi vào lính, cũng như bao người khác, Duy c̣n "trong suốt giữa hai bờ hư thực", nghĩa là cả tin và ngây thơ giữa cơi thực và cơi hư, mà hư lại nhiều hơn thực. Thực tại tàn khốc của chiến tranh với "bom Mĩ dội nhà bà tôi bay mất / đền Ṣng bay bay tuốt cả chùa chiền / Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết / bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn", đă thẳng tay ném Duy về hiện thực. Cái hiện thực của kiếp thảo dân: "Khi tôi biết thương bà th́ đă muộn / bà chỉ c̣n là một nấm cỏ thôi". Và lần thứ hai, đối mặt với thực tại sau chiến tranh khi thấy "tầng ôzôn có vấn đề ǵ đó". Một lần nữa, anh lại thấy "Bụi thần thánh nhấp nhánh rơi", và nhất quyết đem “trả cho sao một chút trời xa xăm", c̣n riêng phần ḿnh th́ hoàn toàn "b́nh tâm làm hạt bụi người mà bay". Nghĩa là anh mới thấu suốt cái vạn đại của thảo dân, cái vĩ đại của rạ rơm, cái trong veo của cát bụi: "xin nghe anh nói cực nghiêm / linh hồn cát bụi ở miền trong veo". Đơn sơ mà ḱ diệu, bấy giờ, không chỉ là một chân lí của nghệ thuật, mà đă trở thành xác tín của nhà nghệ sĩ. Bấy giờ, ch́m nổi với thập loại chúng sinh, suốt đời làm rượu của chúng sinh, thực sự thành lẽ sống của Duy.

 

3. ... đến thập loại chúng sinh

Xây dựng thế giới nhân vật không phải là công việc nhất thiết của một thi sĩ trữ t́nh. Điều căn bản là bộc lộ cái tôi của ḿnh. Tuy nhiên, cái tôi ấy chỉ thực sự được phơi trải khi gặp đối tượng của nó. Cho nên nhân vật trong thơ trữ t́nh vừa là đối tượng khách thể vừa như những đối ảnh, những hoá thân, hiện thân khác nhau của cái tôi thi sĩ. Cái thế giới mà Nguyễn Duy dựng lên suốt cả nghiệp thơ của ḿnh, hoàn toàn có thể coi là cơi chúng sinh th́ hiện tại: binh lửa và bụi bặm, bùn nước và gió trăng, nghèo đói và tiềm năng, tàn phá và gây dựng, xơ xác và nhen nhóm, bần bách và phù hoa... mà đâu đâu cũng là mồ hôi và nước mắt. Có ngẫu nhiên đâu, khi ở đó, nhân loại nhân vật của thi sĩ này hầu hết là thảo dân! Họ là thập loại chúng sinh th́ hiện tại. Trong đó, ta cũng thấy bóng dáng những ông vua. Nhưng hoặc là ông vua v́ chúng sinh mà phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người (vua Duy Tân), hoặc là đă trải hết nỗi đời một thảo dân, trăm sự đều v́ đời sống lương dân (Pie đại đế), chứ không phải loại vua coi dân là lương thảo. C̣n th́ tất cả thuần là thứ dân. Họ là những bà và mẹ - "Bà và mẹ hoá cánh c̣ cánh vạc", là ông và cha - "ông và cha man mác kiếp trâu cày", là bà mẹ đồng chiêm - "bà mẹ đón tôi trong gió đêm / nhà mẹ chật nhưng c̣n mê chỗ ngủ / mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ / rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm", là ông già sông Hậu - "Trôi dạt theo sông về đây cày cấy mướn / sống giang hồ trên đồng ruộng bao la". Họ là những Thị Nở, Thị Đốp, Thị Kính, Thị Màu, những AQ với Chí Phèo. Họ là ông già Chàm gù lưng, là lăo bị gậy khóc khàn trên sân ga, là bà bới rác nằm co ro gầm cầu, là một em điếm ế đón giao thừa gốc cây, là chú bé đi bụi khoèo mái hiên lắng nghe pháo tết, là một người nạng gỗ ngồi bên sông nhớ nhà, "những sinh linh đầu đường sinh linh cuối chợ / tết đến đùng đùng ai đi đâu về đâu".v.v... Họ đều "Lóc cóc kiếp đá cuội, kiếp bùn nước", kiếp "con c̣ lặn lội bên bờ đại dương", "ngán ngẩm những con đường mệt lử", suốt đời "th́nh thịch những bước chân toẽ ngón", "những bàn chân Giao Chỉ"... Nhưng, họ không chỉ mang nỗi khổ thảo dân mà c̣n mang cái đẹp thảo dân. Họ sống với những lẽ phải muôn đời, giản dị đến nôm na mà lớn lao đến khôn lường, thâm trầm khiến ngơ ngác: "Ai nghèo thiếu qua chia cơm xẻ áo / bụng người sôi cũng sôi giống bụng ta / ki cóp một thân làm chi cho cực / giàu ở ḷng c̣n đẹp ở thịt da / dư ít nuôi làng dư nhiều nuôi nước / thành tích đéo ǵ mà phải nêu tên", "Cha tôi đó dân làng tôi vậy đó / xả hết ḿnh khi nước gặp tai ương / rồi thanh thản trở về với ruộng / sống lặng yên như cây cỏ trong vườn". Chẳng phải họ là thảo dân theo nghĩa đen của chữ đó ư ? Cái đạo lí muôn đời của thảo dân vẫn vậy. Có ǵ b́nh dị mà vĩ đại hơn thế ? có ǵ đơn sơ mà ḱ diệu hơn thế ? Duy viết về họ bằng niềm cảm thương, bằng nỗi đau đời day dứt, nhưng hơn hết là bằng một niềm kính trọng.

Trong cuộc sống cũng như trong thi ca, người ta yêu thương cả nhân loại thật dễ, c̣n yêu thương được những người cụ thể thật khó. Cái lẽ của thường dân vốn cho rằng: khó có thể tin vào t́nh thương dành cho nhân loại của ai đó, nếu như kẻ ấy không biết thương ngay những người quanh ḿnh, những người thân của ḿnh. Ḷng thương với những người máu mủ ruột rà bao giờ cũng là thước đo tin cậy nhất cho ḷng nhân ái của một con người. Ta hiểu v́ sao, dù phiêu dạt đường nước, dù phiêu du đường xa xứ người, với bao nhiêu là mời gọi quyến rũ, Nguyễn Duy vẫn đau đáu một niềm cố hương, vẫn thiết tha đến thế với "cỏ và lúa và hoa hoang quả dại - vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải - bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua..., thuỷ chung đến thế với tre pheo, rơm rạ, xó bếp, góc vườn, cái chum, cái chĩnh, cái rổ, cái xề, nặng t́nh đến thế với bạn bè đồng đội... Ta cũng hiểu v́ sao trong nhân loại nhân vật của thi sĩ này, h́nh ảnh và thân phận những người máu mủ ruột rà của anh lại động ḷng người đến vậy: bà- "bà ṃ cua xúc tép ở đồng Quan / bà đi gánh chè xanh Ba Trại / Quán Cháo Đồng Giao thập thững những đêm hàn", mẹ - "Mẹ ta không có yếm đào / nón mê thay nón quai thao đội đầu", cha - "ai thấy nữa ông già đầu bạc xoá / đẩy xe thồ ngang dọc lũng Tà Cơn"... và vợ. Duy dành cho vợ hẳn một tập thơ - tập "Vợ ơi" (1995). Việc này ở ta xem ra là độc nhất vô nhị. Cảm hứng về người yêu th́ vô tận, cảm hứng về vợ lại dễ... cùng tận. Người ta vẫn kháo nhau rằng thơ cho vợ chỉ có độc một loại thôi: ấy là "thơ...vẹo". Nghĩa là "theo vợ" ấy mà! Nhưng Duy không thế. Thơ về vợ của Duy gợi ta nhớ đến Tú Xương. Cũng thương rát ḷng, cũng đau thắt ruột, cũng cười ra nước mắt. Bà tú xưa chênh chao ở mom sông, bà tú nay cḥng chành giữa phố: "áo mưa vợ giăng cánh buồm giữa phố / Chồng với con mấp mé một thuyền đầy / năm tháng băo giông sang sông lũ đổ / một tay em chèo chống ngày ngày ngày". Có điều, ông tú đời nay không thể chỉ thương với hận suông. Mỗi khi bà tú đời mới lăn ra ốm, ông tú Duy (thực ra là ông cử) lập tức hoá thành ngựa thồ để lo đủ "việc thiên việc địa việc nhà / một ḿnh anh văi cả ba linh hồn". Gặp tai ương ập xuống làm cho sất bất sang bang, v́ cuộc sống của thân nhân, anh đành phải cắt ḷng bán bớt đi một ít vàng ṛng để cứu khổ cứu nạn. Rồi th́ vợ chồng cứ lầm lụi, chia sẻ nhau cái phận người của ḿnh, với cái khổ thảo dâncái đẹp thảo dân.

*

http://toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/images/News/20070811EODS119.jpgVào thơ Duy mà chỉ nói chuyện tư tưởng, quan điểm mĩ học với lại hành tŕnh sáng tạo cùng thế giới h́nh tượng vầy vậy không thôi, khác nào chỉ sắm được mỗi vai "triết gia quàu quạu". Nói chuyện t́nh nghĩa mà quên chuyện t́nh tang, th́ e rằng khối t́nh kia hăy c̣n thiêu thiếu. Đơn giản v́ cái tôi mà Duy sáng tạo ra quả là một thảo dân chánh hiệu, nghĩa là: cực nghiêm mà cực bụi (bụi dân sinh ấy bụi người đấy em), cực t́nh nghĩa mà cũng cực t́nh... tang. Trong bất cứ thi sĩ nào cũng có một gă t́nh nhân. Mỗi gă yêu theo một tạng. Thơ yêu của Nguyễn Duy thuộc tạng nào đây? Th́ c̣n tạng nào ngoài tạng... t́nh tang. "Ai sinh ra thói t́nh tang / để ai hoá gió lang bang quê nhà. Ai làm ra lúng liếng sông / để đưa tu hú sổ chồng sang ngang". Dường như, trong hồn gă thảo dân này vẫn có một ngọn gió lang bang như thế, vẫn có một con tu hú như thế. Trách chi, Duy đă làm cả một "Bài ca phiêu lưu", dành một nhiệt hứng "hơi bị" trong lành để "lập thuyết" cho chuyện t́nh tang: "Xin em đừng nản ḷng yêu / t́nh tang là cuộc phiêu lưu tuyệt vời". T́nh tang đây có vẻ gần với lối phong t́nh dân gian, "lối huê t́nh" của người Quan họ. Suy cho cùng đó là những cảm xúc nhân văn, là nhu cầu thăng hoa, là những khoảnh khắc quên đi kiếp rong rêu bùn nước để lững lờ ngắm một vầng trăng, là "thêm chút sang bớt chút hèn / Nh́n em thôi đủ yêu em rất nhiều". Duy có cả một lí sự thảo dân cho cái đẹp và cho "tính hợp pháp" của việc thưởng ngoạn những cái đẹp trời cho: "h́nh và nét cũng có th́ / cất làm chi giấu làm chi của trời / không em đời vẫn đẹp thôi / có thêm em nữa th́ đời đẹp thêm". Vậy nên, ngẫm cho kĩ thấy Duy chủ yếu t́nh tang bằng mắt: "Yêu bằng mắt cũng là yêu / cơi đời đẹp đủ liêu xiêu cơi ḿnh". Dường như cái đẹp luôn giữ ta trong một khoảng cách. Khoảng cách của nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy, vẻ đẹp được bảo tồn nguyên vẹn. Đành ḷng, cầm ḷng đôi khi lại là một ứng xử cao cả đối với cái đẹp vậy. Khi ấy, khát vọng thăng hoa thành cái nh́n bao luyến. Những nồng nàn luyến ái như muốn bao bọc đối tượng trong một bầu khí quyển ỡm ờ và mơn trớn: "Người con gái chợt qua đường / áo em mong mỏng màn sương núi đồi / Chợt rơi lại một nụ cười / và... sương rười rượi một trời phía sau / Đem nhan sắc tặng cho nhau / em giăng cái đẹp ngang cầu ban mai / chả riêng ta... chả riêng ai / để heo hút gíó thở dài trên cây". Thăng hoa thành cái nh́n lơ đăng vờ: "tôi lơ đăng nh́n em nh́n lơ đăng / siêu nước pha trà vừa ấp úng sôi". Có phải "nguy tai" nhất là cái nh́n ṿng vẹo: "Em e ấp nấp ḿnh sau đá / để cái nh́n thành ṿng vẹo quanh co" ? Chưa đâu, "giết người" nhất, phải là cái nh́n không nói này cơ: "Sông Thao thêm một lần tôi tắm / thêm một lần tôi đến để rồi đi / gió cứ thổi trống không ngoài băi vắng / tôi nh́n em để không nói năng ǵ"... Đúng là đàn ông yêu bằng mắt. Ánh mắt phát sóng và phủ sóng. Mắt dù có tham lam táo bạo đến mấy cũng vẫn cứ là kênh giao cảm an toàn nhất, ít gây "xicăngđan" nhất. Ngay cả khi "đối phương" cảm thấy "nh́n ngắm c̣n tệ hơn sờ mó", nó vẫn dễ yên bề hơn cả. Bởi thế thơ yêu của Duy không thiếu nhục cảm, nhưng đều là nhục cảm từ thị giác thăng hoa thôi: "ối giời ơi... nơn nà chưa / bột trinh bạch đấy trời vừa rây xong / h́nh như g̣ trắng phập phồng / bao nhiêu con gái ngủ trong tuyết dày"... Cũng bởi thế, trong thơ Duy, t́nh tang mà vẫn t́nh nồng, giây lát mà thiên thu. Những thoáng qua ngỡ trôi đi mà vẫn rơi về: "Yêu mến ạ xin đừng buồn em nhé / gịng nước trôi đi giọt nước lại rơi về"... Th́ gốc của t́nh tang đây cũng vẫn là chuyện c̣n - mất cả thôi.

Từ đó, bèn có thơ rằng: thăng hoa... nào chỉ thăng hoa / t́nh tang thế mới gọi là... t́nh tang.

 

4. Đùa ghẹo mà minh triết

Đọc Nguyễn Duy, theo liên tưởng ngang, ai cũng nghĩ đến vài tay bút nổi nhất của thế hệ thơ chống Mĩ. C̣n theo chiều dọc, tôi lại thích liên tưởng đến Nguyễn Bính. Tất nhiên, chả phải nhằm tạo ra một cặp bài trùng: đằng ấy - "gă chân quê tiền chiến", đằng này - "gă chân quê đời mới". Cùng gốc quê đấy, nhưng khí xa nhau. Song, cứ đối sánh đôi chút, cũng có sao đâu! Bính là cái tôi lỡ làng- sinh bất phùng thời, Duy là cái tôi thảo dân - thời nào cũng sống. Bính đoái thương các thân phận lỡ dở, Duy nổi ch́m với thập loại chúng sinh. Bính là con chim ĺa đàn, Duy là hạt cát lang thang. Bính kiêu bạc mà sầu tủi, Duy cỏ giả mà kiêu sang. Bính lang bạt t́m kiếm ḿnh, Duy lang bang phơi trải ḿnh. Bính muốn giữ nguyên quê mùa, Duy thèm quê mùa thay đổi. Bính ái ngại đổi thay, Duy thiết tha đổi mới. Bính dị ứng thị thành, Duy hoà đồng thành thị. Bính chỉ hồn quê, Duy thêm hồn phố. Bính hoài cổ, Duy canh tân. Bính nâu sồng, Duy bụi bặm. Bính bi, Duy lạc... Chỉ riêng điều tôi sắp nói đây thôi mỗi vị cũng thuộc một kênh khác nhau ấy là giọng điệu.

Nói cho công bằng cả Nguyễn Bính và Nguyễn Duy đều đi ra từ nguồn dân gian. Giọng điệu dân gian như một con sông lớn với hai luồng chính là điệu than và điệu ghẹo. Có lúc chúng nhập vào, nhưng thường khi là tách ra thành hai chi lưu. Than th́ tràn ngập trong hát than thân. Ghẹo lại tràn trề trong hát giao duyên. Than ưa kể lể lâm li, tủi hờn mùi mẫn. C̣n ghẹo lại thích trêu tṛng đùa nhả, cười cợt ỡm ờ. Đằng th́ thán, đằng th́ tán. Do cái tạng của ḿnh thế nào đó mà gă chân quê tiền chiến ưa triền miên trong nước mắt của điệu than. Thỉnh thoảng cũng có ghẹo ỡm ghẹo ờ, nhưng thưa hơn, mờ hơn. C̣n gă thảo dân đời mới này ngay lúc cực mủi ḷng cũng chả thích than lâu. Trái lại, cái tạng của gă có vẻ khoái ghẹo hơn. Không chỉ ghẹo trong t́nh tang, gă ghẹo cả trong t́nh đời. Lối ghẹo dân gian vốn chỉ bóng gió ṿng vo, đến gă đă đa dạng, đa thanh và đầy sinh khí hiện đại. Gă trêu hoa ghẹo nguyệt rơ khéo, mà nhạo thế bỡn đời c̣n điệu nghệ hơn. Giọng ghẹo được pha thêm chút bụi nữa đă tải được rất ngon lành những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh thảo dân của gă. Bởi thế, cùng với những lời rất tươi sống, lối ghẹo của Duy quả là rất đời. Rất nhiều lối nói ngỡ chỉ trong quán xá vỉa hè, lúc lai rai, khi cà trớn thế mà vào tay Duy đă lập tức được hoán cốt, thoát xác. Người ta thấy cái hướng lớn của thơ hiện đại là đi gần tới cấu trúc của lời nói thường, là sáp măi vào lời và tiếng đang từng giờ từng phút sinh nở trên cái gịng đời phồn tạp. Th́ thơ Duy cập nhật rất nhạy những hơi thở hôi hổi của ngôn từ. Trước, lời thảo dân chỉ được hiểu là lời quê. Nay, lời thơ Duy bén duyên với cả lời quê, lời phố, lời bụi hơi bị ngon lành. Đôi khi có cảm giác đang được hưởng thứ gío tươi trên đồng đất, chứ không phải thứ gió lọc qua máy điều hoà, được chén thứ thực phẩm tươi sống trên sông hồ, chứ không phải bảo quản trong tủ lạnh. Trong lối ghẹo của Duy, có thể thấy lắm khía cạnh thú vị đến quái quỉ của tiếng Việt đă được đánh thức và truy nhập vào ngôn từ thơ: "sọ dừa gặp vấn đề tŕ trệ / tri thức nhồi vào tri thức cứ pḥi ra / mắt vấn đề toét tai vấn đề ù / bất an vấn đề giấc ngủ / sâu rầy đang vấn đề cánh đồng / rừng cây vấn đề cháy và trụi / trẻ lang thang vấn đề bụi đời", "Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi / người cười nói xúc phạm người ngậm tăm / siêng làm xúc phạm phàm ăn / kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng / đàn kêu tưng tửng từng tưng / con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu / đàn kêu tinh tỉnh t́nh tinh / cái tâm xúc phạm cái h́nh vô tâm / ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi / người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau", "Chân mây hơi bị cuối trời / em hơi bị đẹp anh hơi bị nhàu"... Xài được lối ghẹo này quả không dễ. Nó khác nào đang xúc phạm những thị hiếu hàn lâm, xúc phạm thứ ngôn từ đóng hộp trong những qui chuẩn xơ cứng. Kẻ bị xúc phạm hẳn đă mỉa: tưởng ǵ, đó là cái thứ vỉa hè bụi đời. Duy không chấp, chỉ nhắc nhẹ một chân lí giản dị mà thâm thuư này thôi: "đừng chê anh khoái bụi đời / bụi dân sinh ấy bụi người đấy em". Làm sao lại né tránh bụi, khi bụi vốn thuộc về cuộc đời này, khi bụi thuộc về đời nhọc nhằn bùn đất của thảo dân. Và con người là ǵ, nếu không phải là hạt bụi mang tư tưởng! Những ǵ thuộc về con người đều không xa lạ với một nghệ sĩ. Là một thi sĩ thảo dân, t́m được thứ ngôn từ dính bụi mà lấp lánh chất phônklore thế, khác nào như thợ đào dưới hầm t́m thấy được đá đỏ. Có phải ai cũng thấy được rubi trong đất bụi đâu. Có phải ai đăi cát cũng t́m được vàng đâu. Trái lại, khối người cầm vàng mà cứ ngỡ thau, rồi đem thử lửa khiến đau ḷng vàng. Th́ cứ việc thử đi, thử lại mà xem, ngay trong mỗi tiếng ghẹo đời kia có phải đều ẩn giấu một giọt lệ se ḷng, một hạt muối xót ḷng không ? Tiếng cười ghẹo đời lắm khi chỉ là phía thấy được của giọt lệ đau đời đó thôi. Nó là cái cực nghiêm ẩn sâu trong những lời đùa, lời bụi vậy. Song, nói đi cũng cần nói lại, không phải không có những lúc thơ Duy bụi mù quá ngứa cả mắt, rụi mắt nh́n măi mà vàng và rubi cứ... trốn biệt tăm.

Trước kia, Nguyễn Duy sính lối chính luận nghiêm nghị khắc khổ. Các triết lí lúc bấy không phải không sâu sắc. Nhưng nghe cứ thế nào. Có lẽ v́ thế mà sau này Duy đă tự cáu về sự lẩm cẩm của ḿnh: "Ta quàu quạu học đ̣i triết gia táo bón / những câu thơ nhăn nhó nhọc nhằn". Duy muốn cạch lối ấy. Tất nhiên, Duy chả dại ǵ mà từ bỏ cái ham mê chiêm nghiệm triết lí của ḿnh. Mà cũng không bỏ được, v́ hoạt động sáng tạo chân chính nào rồi cũng đi đến triết học, cũng lắng thành triết lí. Có điều, Duy đă xài thứ ngôn từ hồn nhiên, cùng lối ghẹo hơ hớ chất phônklore của đời, nên triết lí giờ đây đời hơn, thảo dân hơn. Nghĩa là nó nôm na mà sâu sắc, sâu sắc mà thật nôm na, chả cần vẻ ǵ là lên giọng lí sự. Mà lại chạm đến những điều cốt lơi của cơi nhân sinh: "H́nh và nét cũng có th́ / Cất làm chi giấu làm chi của trời", "Có ǵ lạ quá đi thôi / khi gần th́ mất xa xôi lại c̣n", "Ta đi trọn kiếp con người / cũng không đi hết mấy lời mẹ ru", " Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội / Có một miền quê trong đi đứng nóí cười", "Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ", "Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh / phe nào thắng th́ nhân dân đều bại", "Bao nhiêu là bóng siêu nhân / khuất trong bóng cỏ giữa trần gian thôi", "Hiểu cho nhau sống đă là phiêu lưu", "Em như gạo điệu múa kia là rượu"... Kết tinh từ những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh, có thể coi đó như những minh triết thảo dân vậy.

 

5. Cây đàn hương hoả

Tôi dành phần cuối cho cây đàn bầu của gă thi sĩ thảo dân này. Cây đàn cũ xưa nhưng là thứ hương hoả của ông bà tổ tiên bao đời để lại. Nó dễ gần mà chẳng dễ chơi. Nói thế, là tôi đă mượn h́nh ảnh "xẩm ngọng" của Duy để nói về thể lục bát. Th́ Lục bát cũng là một thứ đàn bầu chứ sao! Trôi nổi mấy ngh́n năm trên đồng ruộng sông hồ làng quê xứ sở, lại qua tay những Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu v.v... có lúc cây đàn này đă bị coi là cũ kĩ c̣m cơi, khó mà tải được nhưng tâm t́nh của người hiện đại. Khối người đă bỏ nó. Nhưng Duy đă nhặt lấy mang về ôm ấp, chăm nuôi. Tựa như gă Alađanh nhặt cây đèn về từ đống đồ cũ nát. Có điều, anh chàng xứ Batđa chỉ vô t́nh. C̣n gă "làm nghề mộng du" xứ Thanh này th́ cố t́nh. Đă là thi sĩ thảo dân ai nỡ hững hờ với lục bát cho đặng. Và không chơi lục bát sao có thể gọi là thi sĩ thảo dân. Duy không hững hờ. Duy phải ḷng lục bát. Duy thấy giữa ḿnh và lục bát biết bao nhiêu nghĩa cũ càng: "Câu thơ sáu nổi tám ch́m / đụng thời xa lộ thông tin kẹt đường / vương th́ tội bỏ th́ thương / đành lê thê nốt đoạn trường mộng du". V́ thế, Duy bền ḷng chung thuỷ: "cứ bèo bọt bước thiên di / đưa chân lục bát mà đi loằng ngoằng". Thực th́, lục bát vẫn được coi là hơi thở của thảo dân (câu sáu hít vào câu tám thở ra chăng?). Trong tay Duy chẳng những nó được làm mới mà c̣n lẩy lên được cả những tâm t́nh ở đằng sau tâm t́nh. Và rồi, cũng hảo tâm như thần đèn, thần đàn đă luôn đền bù cho Duy một cách hào phóng. Cây đàn này của Duy chơi điệu mới, nhịp mới, hồn mới. Giai điệu lục bát của Duy có cổ điển, có dân gian. Nhưng phần chịu chơi nhất vẫn là phi cổ điển. Giai điệu vốn nghiêng về êm đềm như ru của lục bát được nhiều thế hệ ra tay cải biên để nó xích lại gần hơn với lời nói thường. Ở thời của ḿnh, Duy cũng tỏ ra rất sành chơi. Vừa mở ra một thế giới "cơm bụi" cho thơ, Duy vừa "cơm bụi hoá" lục bát. Nghĩa là đưa lục bát về gần với cuộc sống trần ai vốn đầy bụi dân sinh của thảo dân th́ hiện tại. Duy mạnh tay đốc quân, đưa những lời nói, lối nói đời mới xâm nhập vào cấu trúc lục bát, khiến nó phải nới ḿnh ra, dàn xếp lại, t́m đến những dạng hài hoà cũng theo lối mới. Điểm ngắt nhịp trong lục bát giờ đây không nhất thiết cứ phải là nơi gặp gỡ của cả hai yếu tố: điểm dừng cú pháp và điểm dừng ngữ lưu. Mà có thể tách nhau. Khiến cho hơi lục bát có thể tràn lướt qua mỗi điểm, đặng cất lên những nét nhạc mới, ngay lúc c̣n lạ tai đă thấy khoái tai, khi đă quen tai rồi th́ rơ là thú vị: "Thắng rồi - trận đánh thọc sâu / Lại về với mái tăng - bầu trời vuông", "Làng ta lại lóp ngóp làng / Ḷng ta lại ếch nhái hoang cả ḷng"... Vật liệu thuận nhất với nhịp chẵn của lục bát thường là từ đơn và từ đôi. Tuân theo thế th́ an toàn. Nhưng an toàn th́ sao có thể cách tân. Với tạng phiêu lưu của một tay bút dám chơi, Duy rất khoái dùng chùm ba, chùm bốn, đặc biệt là những từ láy kềnh càng. Thế mà anh vẫn dàn xếp ngon ơ: "ở đây có những người con / mang theo cái nơn ṇn non lên ngàn", "đến đây gió cũng đi ṿng / ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng", "ngứa nga ngứa ngáy cỏ may trong ḷng", "yêu lăn yêu lóc la đà đă chưa", "đủ phờ phạc đất đủ lao đao trời", "Thấp tha thấp thoáng tháng ngày mong manh"... Ḱ nhất là, nhiều lúc, ngữ âm của các chùm ba chùm bốn ấy cứ láng cháng lanh canh, va cụng nhau như đùa nhả, như trêu cợt mà gợi ra được cả những cảm giác, những tâm tư như cái bóng cứ chờn chợ ngoài ngôn ngữ. Đây là cái cảm giác Boston: "Bia lon thỗn thện người lon / ễnh ềnh ệch hơn ḥn hon thùi lùi / Trắng vàng đen láng coóng đùi / Ngo ngoe ngứa nỗi buồn vui không màu"... Bằng cách chơi chữ lai rai, chọi chữ dài dài, Duy cũng đem lại cho âm điệu và nhất là h́nh thức tiểu đối quen thuộc của lục bát một kiểu dáng đời mới, bảo rằng cân xứng mà tinh nghịch cũng phải, hay bảo rằng tung tẩy mà trang nghiêm lại c̣n phải hơn: "vô tư như thực như mơ như ǵ", "không ngây không dại không đành phải không","làng như làng mạc thuỷ tề / em như em giữa bốn bề thuỷ tinh", "mùi hoang dại cỏ gợi hoang vu người","nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi / người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau", "Em bây giờ có c̣n như bấy giờ", "thôi ta về với ḿnh thôi / chân trời đành để chim trời nó bay", "trông người xưa ngẫm người nay"... Không mượt mà ngân nga, cũng không dồn toa trúc trắc. Mà như nói, như không. Ngẫu hứng mà gia công, gia công mà ngẫu hứng, ấy mới thực là thứ lục bát giàu sinh lực: "Tự dưng nhớ thật nhớ thà / nhớ con đường chả đi qua bao giờ... tự dưnghttp://toquoc.gov.vn/chuyenmuc/vanhocquenha/images/News/20070811OCHX10.jpg nhớ nước chưa mưa / thật thà lúc lắc đong đưa thật thà", "Em đi bỏ lửng cánh đồng / xơ gan hạt lúa nát ḷng củ khoai / rạ rơm bạc phếch tóc dài / hai mà một một mà hai một ḿnh"... Có lẽ bản lĩnh của lục bát Nguyễn Duy là ở đấy, cứ như vũ nữ trên dây, lắm lúc tưởng bước chân nhón đi trong vũ điệu thơ sắp khuỵu xuống hoá thành vè đến nơi rồi, thế mà vẫn không, vẫn cứ lúc lắc đong đưa thế, vẫn cứ thơ thế. Duy đă thổi hồn của thế hệ ḿnh vào đó, đă đưa được hơi thở chúng sinh th́ hiện tại vào đó. Nó không chỉ có hồn cổ, hồn quê, mà c̣n cả hồn phố. V́ thế, nó khỏe khoắn, nồng đượm, tân ḱ. Nó là rượu chúng sinh đựng bằng lục bát. Nó là Duy. Nghĩa là, dù Duy vẫn dùng cả những thể khác, nhưng chỉ ở lục bát, thân thủ của anh mới phô hết những cao cường, chỉ ở lục bát, hồn vía Nguyễn Duy mới dậy men nổi gió làm “trời lao đao đất lao đao lừ đừ" đến thế. Vậy nên, hiện Duy có tuyên bố ngừng thơ, th́ chỉ nên hiểu là ngừng làm thơ, chứ không ngừng sống thơ. Với Duy, ngừng thơ ắt là ngừng thở. Một ngày kia nếu gă thi sĩ thảo dân này cho ra bài thơ mới, tôi dám cược một ăn mười rằng bài ấy tất phải là lục bát.

 


Văn chỉ, đầu hè Nhâm Ngọ

 

 


----------------------------

(1) Chữ của Nguyễn Duy trong bài trả lời phỏng vấn Phạm Hoàng và Đỗ Quyên : "Tôi nặng duyên nợ với thơ...", Beclin tháng 7-2001.

(2) Lời Nguyễn Duy- Tài liệu đă dẫn.