Chiều xuân lạnh đọc thơ Diễm Châu

 

Chiều xuân lạnh đọc thơ Diễm Châu

 

Xuân nhất định không chịu nghe tháng Ba dỗ dành quay trở lại: gió vẫn buốt, chân trời xanh nhợt nhạt, những hạt băng nhỏ xíu chui vào da thịt rét căm căm…

 

Làm ǵ với cảm giác tê dại này?

Thơ thẩn giở thơ văn Ăn Mày Văn Chương  t́m hơi thở ấm…

 

T́m ra Chân Phương thân thuộc - lăng tử giới thiệu một bài thơ của Diễm Châu tặng chàng giữa thập niên 80 xáo trộn dải đất S.

Tôi đọc. Buốt giá. Bởi cảm giác cay đắng và đau đớn.

Chết rồi- Lăng tử ơi! sao  xúc cảm này quen thuộc quá?

 

 

Tôi lặng lẽ mở dần từng bài thơ của Diễm Châu. Đọc chậm răi.

Cảm giác tức ngực, nghẹn thở, không nghe thấy tiếng động ǵ bên tai, không chú ư đến bất kỳ cái ǵ xung quanh nữa.

Chỉ trở lại với chính ḿnh- cảm giác chính ḿnh duy nhất. Và những cảnh tượng hiện thực hiển hiện trong liên tưởng suy tư…

 

Thi sĩ ơi! Diễm Châu! anh đă làm ǵ với những chữ cái tiếng Việt? Sao chữ lại có trọng lượng nặng đến thế, miêu tả sửng sốt ngày hôm qua của đất Việt, một giai đoạn sống hăi hùng chưa thể xếp vào ngôi quá khứ đă được nhận thức đầy đủ.

 

Đây là giấc ác mộng chiến tranh,

nơi, con người là những vành khăn tang trắng đẫm nước mắt, rớt bên huyệt và th́ thào cùng gió:

 VN, ta thù ghét mi nhưng vẫn không quên những con đường của mi

trong buổi chiều nắng tàn lúc hàng dừa xơa tóc

VN, trong bước lưu đày ta nhớ hàng phượng rợp bóng

ta nhớ sân trường tiếng ve kêu ran và cơn mưa ngă phiêu phiêu

cơn mưa bay à à trên đường đẩy xuống ḷng cống rănh

những mảnh đời dang dở những mối t́nh vô vọng những ước mơ mọn hèn

VN, ta thù ghét mi khi mi thả lũ con rừng rú xuống đồng bằng  

ta thù ghét mi khi mi xua đuổi những nạn nhân hiền ḥa ra biển

VN, sao mi đẩy ra xa những xác người giạt về quanh quẩn bên mi?

VN, mi có nghe tiếng thét kinh hoàng đêm đêm?

VN, ta đă gặp lại người ta yêu trong một đêm giông băo

trên con thuyền không người, người ta yêu tóc rũ

người ta yêu quỳ xuống ôm lấy ta, vuốt tóc

người ta yêu giọt nước mắt long lanh

người ta yêu đôi cánh tay gầy guộc

người ta yêu trần truồng như một loài thú

VN, chính người ta yêu đă khép mắt cho ta chứ không phải mi

 

Trong phút chốc những cuốn phim thế giới cứ thuyết minh đi thuyết minh lại về chiến tranh Vietnam bỗng hiện về trong óc: những con đường quốc lộ hoảng loạn ḍng người rách rưới , những súng, đạn, xe nhớn nhác tháo chạy…

quê hương, quê hương -  những chiều,  những sáng, những  đêm đă từng có thật.

những sự thật không được báo trước trong  giấc mộng chuyển dời của đất nước con rồng cháu tiên:

 

VN, những ngày ở thành phố HCM ta là một con chó

ta chạy trên những đường rày cong queo bên những toa tàu đổ

ta làm kế hoạch lớn cho mi bằng cách lượm nước mắt khô và gói ghém những nỗi niềm thương nhớ

VN, bạn bè ta thất tán tứ phương

đứa bị thủ tiêu trên đường Cửa Thuận

đứa bặt tin từ Vĩnh Phú, Sơn La

đứa ngồi giảng đạo ở Hỏa Ḷ Hà Nội

đứa tuốt tranh ngoài Phú Giáo – Đồng Xoài

đứa ngược Buôn Hồ đứa xuôi Thái Mỹ

đứa tiếp tục đạp xe vào thành phố buổi sáng

đứa chơi vơi một cơi mù sương..

VN, ta đă cơng một đảng viên già bị phản bội sau khi đánh ngă y bằng đế G̣ Đen

Ta tiếc thương cho một kẻ khùng điên suốt ngày mơ ước một anh Đặng Tiểu B́nh

VN, ta c̣n ở Rạch Giá xác một người bạn khác

VN, mẹ cha ta không c̣n mồ mả

lũ anh em ta bây giờ xất bất xang bang

lũ cháu ta lúc này đạp xích-lô ghiền ma túy và chết cho Heng Xomrin

VN, hơn 100 tên đồ tể của mi ngồi căi lộn với nhau về chế độ bao cấp

Trong lúc người ta yêu bỏ xác ngoài biển khơi

VN, mi thật là khốn nạn khi sinh ra ta đồng thời với bọn người ngựa

những tên bán Chúa phản thầy hạng cú diều độc địa

VN, ta không c̣n ai để thở than những buổi tối buồn

VN, những ngày cúp điện những đêm xét hộ khẩu mi ở đâu?

mi c̣n nhớ ḍng sông với những con đ̣ buôn người chi chit như lá tre?

mi c̣n nhớ khu vườn khoảng khoát sau vương cung thánh đường Sài-g̣n nơi những thằng hề phương bắc công khai làm t́nh với gái đĩ miền nam?

VN, mi c̣n chiếu phim con heo cho thủy thủ Liên Sô ở kho 5?

bọn lính tàu bay nước ngoài ở khách sạn Độc Lập Tự Do của mi mỗi ngày dội nước dơ mấy lần xuống đám học tṛ trẻ nít?

VN, mỗi ngày mi nướng bao nhiêu mạng người?

VN, mi làm cách mạng sao dám nói dối?

VN, mồ cha những thằng công an khu vực của mi

VN, mỗi ngày mi tra tấn bao nhiêu người vô tội ở Phan Đăng Lưu, Đại Lợi?

VN, chừng nào mi mở khách sạn Hilton để bỏ tù thế giới?

sao mi đào thêm măi những con kinh nước mắt làm cạn nguồn sống của nông dân?

VN, mi đă cướp của ta 8 năm trời đẹp nhất

mi đă cắm vào sọ ta cái chùa Một Cột của mi với bọn lănh đạo ngồi trên

VN, ta xuất huyết từng giờ và mi vẫn thản nhiên ngồi vỗ béo lũ rệp

mi phủ báo Nhân Dân lên những mưu mô thâm hiểm của mi

mi phất cờ Giải Phóng trên mỗi đồng tiền công trái

những đồng tiền thắt họng những đồng tiền siết máu

mi giết những cụ già ám hại trẻ thơ và chia rẽ những người t́nh trong trắng

(Việt nam, Tổ quốc và Em)

 

 

Tôi trân trân nhớ tới những trang sách viết về châu Âu sau chiến tranh thế giới: có kư ức nào dám bịa đặt và bịa đặt nổi những nỗi đau?

không phải nỗi đau tàn phá của bom đạn mà là nỗi kinh hoàng trước những khoảnh khắc  nhân tính bị hủy diệt. Bằng những hiện thực trơ trụi và điên đảo không thể nào tin nổi, chỉ để người đời sau rút ra những bài học  tiêu hủy chất người đẫm máu của lịch sử mà thôi, bởi trong thực tế, con người bất lực trước cái ác.

Ôi con người! từ bao giờ những khát máu bản năng thuần chuyển thành phút buông tay bất lực trước nhân tính suy đồi? 

Thêm bao nhiêu giọt nước mắt và những vành tang cho loạn lạc chiến tranh? Để những âm thầm thế hệ gạt nước mắt đau xót mai ngày, khi đọc lại trang sử ấu thơ của ḿnh…

Tôi nhớ đến những trang sách châu Âu viết về những xă hội người thời hậu chiến : khuôn mặt giăy giụa ác độc cuối cùng của chiến tranh ở quốc gia nào cũng thế, hậu quả sau cùng của chiến tranh người dân ở đất nước nào cũng lănh đủ như thế. Đấy là ḷng hận, sự trả thù, nỗi cuồng tín mê muội và hân hoan của bạo lực khi không đồng hóa nổi thế giới con người với những lực lượng đen tối nhất luôn lẩn quất trong chính tâm linh con người.

Ai hiểu ra điều này, người đó buồn và đau đớn.

Đấy là khi thi sĩ đào huyệt chôn nỗi đau riêng tư bằng ngọn bút.

Đọc thơ Diễm Châu, ta muốn khóc:

 

 

Em yêu dấu

 

mỗi ngày anh viết một tờ thư

những lá thư chồng chất

không người nhận

mỗi ngày anh vẽ một con tem

mang h́nh một người bạn

những người bạn không c̣n nữa

mỗi ngày anh trút hơi thở lên trang giấy

hơi thở đóng băng

mỗi ngày anh nắn nót từng ḍng chữ

ḍng chữ hóa đá

 

anh đằm ḿnh trong bụm cỏ

gặm nhấm ngày qua như một cọng rác

anh lau mặt bằng t́nh thương ṃn mỏi

gạt những sợi tóc bạc dần..

 

mỗi ngày

tia nắng đầu tiên nhỏ một giọt lệ

anh lại viết một tờ thư.

 

9. 1984( Mỗi ngày)

 

 

 

muốn khóc không v́ nỗi bất lực hay sự tủi thân nào mà bởi lư do cực kỳ đơn giản:  ta quá buồn! đời quá buồn!

 

Chân Phương đă  vượt lên nỗi buồn này bằng giọng cười ngạo nghễ. Tôi tưởng nh́n thấy lăng tử mến yêu của tôi đốt thuốc lập ḷe bên Diễm Châu trầm ngâm lặng lẽ. Thời gian đau đă biến những thi sĩ của thời đại thành  chứng nhân lịch sử bắt buộc:

 

hăy cám ơn người họa sĩ thiên tài đă bôi đen giấc mơ anh

          hăy cám ơn người đàn bà có đuôi mắt h́nh mũi tên đă biến anh thành thi sĩ

          từng ngày từng ngày những giọt cường toan

                                                khắc lên ḿnh chúng ta những h́nh thù quái dị

          khi cuộc t́nh bùng cháy giữa b́nh minh

                    (GỬI  PHƯƠNG  SINH- Diễm Châu)

 

Nếu Chân Phương đă biến thành khói thuốc len lỏi qua các vách ngục tù của bóng tối bay lên trời xanh, th́ Diễm Châu không thể rời bỏ được trần gian ngạt ngột, bởi Diễm Châu đă biến thành những giọt mồ hôi chua chát rỏ thấm xuống đất đen.

 

 Thơ Diễm Châu là sự quánh đọng của những khoảnh khắc trầm ngâm nh́n thấu suốt sự vật. Bởi vậy ngôn từ thơ Diễm Châu nặng trĩu- như chất liệu đă tinh ṛng thành vàng của thời gian sống được thử thách trong một đời người- bởi vậy hồn vía ta bị thu hút mặc nhiên, khi đọc những bài thơ rứt gan ruột của Diễm Châu.

 

 Diễm Châu  rỏ máu  tim khi  rung chuyển cơn khóc  đau câm nín:

 

TỰ DO

 

                   — nhớ Thế Nguyên

 

Khi người nghệ sĩ bản địa múa ballet trên chiếc xe cọc cạch

kẻ thiên tài từ paris về giương ống kính

thâu h́nh một bóng ma

 

ôi tự do

mi đă cho anh trương chi đỏ những đồng francs yêu nước

mi đoàn kết những chuyến bay việt kiều đầy ắp

những món hàng thâu lợi gấp trăm

mi đă cho bạn bè ta mùi vị mật ong

ảo tưởng thiên đường hé mở

buổi chiều carnaval mi đeo mặt nạ

cột vào lưng ta chiếc pháo thăng thiên

từ chin tầng trời cao ngất

ta ngó nghiêng như cánh diều ác độc

nh́n quê hương quay theo ṿng bánh xe

người nghệ sĩ múa ballet đầu cúi

xuống trái tim – nấm mộ

 

ôi tự do

mi cười như một con rối.

 

Tiếng Việt của Diễm Châu như kẻ vật lộn với nỗi đau và vẻ đẹp của những điệp khúc thời gian bị thử thách - thứ tiếng Việt lộn nhào trong từng tế bào tinh tế thưởng thức những niềm vui đang mất đi:

 

NGƯỜI LÀM VƯỜN VÀ BÔNG HOA

 

Tôi, người làm vườn và bông hoa

Không đơn chiếc trong nhà tù thế giới...

                             O. E. MANDELSTAM

 

Khi chuyến xe buưt uể oải cuốn đi sợi cuối cùng của gió

ta chỉ c̣n một không gian thủy tinh

ở đấy nắng chảy xuống thành luồng như đổ lửa

và lá cỏ vươn dài như những lưỡi gươm xanh

 

buổi sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ

ta bước ra vườn em c̣n mặc áo già lam

trưa về ta ngồi sau song cửa

ai đă thay màu rực rỡ cho em?

 

ở chốn địa đàng ta không phải người tù duy nhất

trót đưa chân nên quanh quẩn với người

ta lục t́m trái tim với nỗi sầu chất ngất

kết cho đời một tràng chuỗi tinh khôi..

 

những lá cỏ cao dần theo con nắng

những lá cỏ phủ kín ḿnh hoa

ta chỉ c̣n một vạt màu của biển

và kỷ niệm một khoảnh khắc t́nh ta.

 

11. 7. 1984

 

 

Sao lại có một bài thơ đẹp đến đớn đau như thế:

 

 

  buổi sáng đàn quạ kêu vang như lệnh vỡ

ta bước ra vườn em c̣n mặc áo già lam

trưa về ta ngồi sau song cửa

ai đă thay màu rực rỡ cho em?

 

Chỉ một kẻ tuyệt vọng yêu cuộc đời này mới có thể hiểu vực thẳm của chia ly:

những lá cỏ cao dần theo con nắng

những lá cỏ phủ kín ḿnh hoa

ta chỉ c̣n một vạt màu của biển

và kỷ niệm một khoảnh khắc t́nh ta.

 

Buồn quá, Diễm Châu ơi, kẻ xa quê day dứt!

 

Nhiều khi tôi trầm ngâm suy nghĩ, đọc rất nhiều thơ văn, cảm nhận rất nhiều cung bậc cảm xúc mà vẫn  không thể nào tự đặt ḿnh vào tâm sự của những người Việt xứ Nam. Bởi tôi là dân Bắc- và cuộc chiến của tôi là cuộc chiến của dân Bắc.

 

Đấy cũng là một thao thức đau không chia xẻ nổi với nhau của quê hương tôi trong thời đại này. Con người chỉ c̣n đọng lại sự tỉnh táo, niềm xúc cảm sâu thẳm cùng sự bất lực chấp nhận- những ǵ đă diễn ra trong biển nước mắt chịu đựng giữa những kẻ cùng giống ṇi.

 

Dường như tiếng thở dài của các thi sĩ phương Nam trên đất Việt đậm đặc màu sắc và phong phú tâm trạng hơn các thi sĩ Bắc? hay chỉ là cảm tính đánh giá của tôi khi đọc thơ Diễm Châu và Chân Phương?

nhưng rơ ràng tôi yêu mến những vần thơ đầy màu sắc – như thể chân trời chỉ đẹp khác lạ khi cầu vồng bảy sắc hiện ra như thế:

 

 

CHO TÔI UỐNG

 

Hăy cho tôi uống, tôi không khát

                 ÁLVARO DE CAMPOS

 

Dưới đáy chiếc ly có một ṿng tṛn

ṿng đáy của chiếc ly

ṿng vàng

óng ánh

bên trên là những mùa giông băo

những bắp thịt của sóng

ḍng cuồng lưu

bên trên nữa là những cành rong

môi san hô

nắng mới pha màu hổ phách

chiếc giường lông chim ảo ảnh

khát vọng sủi tăm

bên trên nữa là mặt hồ thầm lặng

những vườn nho soi bóng êm đềm

mắt biếc nằm trên tay

ôi ṿng mắt chim khuyên

chiếc nhẫn của con gi sừng..

 

hăy cho tôi uống...

 

Có một nét ǵ đó mênh mang trong những màu sắc suy tư kiểu phương Nam này- có lẽ đấy là dấu ấn pha tạp các nền văn hóa của những con người quen tự do?

 

Tôi cho rằng ḿnh đọc thơ Diễm Châu quá ít, chưa đủ để khám phá  sắc màu thi sĩ  toàn diện của anh. Thậm chí tôi c̣n chưa có điều kiện đọc mảng thơ dịch đồ sộ của Diễm Châu, trong đó chắc chắn chứa những mảnh thiên tài lấp lánh của một người dịch biết sáng tác.

 

Nhưng từ  những ǵ đă đọc được của  Diễm Châu trên trang web Ăn Mày Văn Chương  đủ để ta tự nhủ:

 

 Diễm Châu là một trong những nhà thơ Việt đặc biệt, rất cần đọc ngày hôm nay.

 

Nguyễn Hồng Nhung

(2010.03.09)