ĐỌC LẠI:

 

                   TƯ DUY TỰ DO CỦA PHAN HUY ĐƯỜNG

 

 

Đây không phải một tác phẩm làm người ta „đột nhiên” nhớ ra và „muốn”đọc lại khi có dịp, trước hết, không thể đọc nó như đọc một tác phẩm văn học, hoặc như một loại văn bản”giải trí” nào đó dùng để „tiêu khiển” thời gian. Nhưng cũng không thể chằm chặp „nghiên cứu” nó „nghiêm trang”như chuẩn bị làm luận án chẳng hạn.

Tại sao vậy? Bởi dấu ấn tác giả quá đặc biệt làm nên cuốn sách này  không phù hợp với mọi „mục tiêu” khác nhau của tri thức. Đọc nó như một cảm nhận trải nghiệm cá nhân có lẽ đúng hơn, dễ”ngấm” hơn để sẽ có lúc, thời gian sẽ chứng minh người viết và người đọc sở dĩ gặp nhau bởi chính quá tŕnh trải nghiệm Người giống hệt nhau.

Mặc dù  Hoàn Toàn dựa vào tài sản tri thức của tiền bối để phát triển tư tưởng ḿnh, nhưng có thể nói: đây chỉ là ư kiến của một PHD duy nhất ( trên đời) tŕnh bày về nhân sinh quan triết học của ḿnh, cụ thể là về một phương pháp luận tiếp cận đời sống Người của tác giả.

Và thêm điều này nữa khiến cuốn sách càng trở nên đặc biệt: văn phong của tác giả, mà tôi (trong cơn loay hoay) thử t́m cách đặt tên: văn phong „hàng rào dây thép gai”- chữ nghĩa móc nối chặt vào nhau với lối dùng từ, đặt câu lạ lẫm.

Nhưng tại sao đọc lại?

 V́ cách đây dăm năm, tôi đă từng đọc. C̣n nhớ lúc đó tôi rất cố gắng đọc kỹ lưỡng (nói không ngoa) là đă thử ghi chép cẩn thận, như thuở sinh viên học bài để thi môn chính trị kinh tế học (mà sau rốt đứa nào trong lớp cũng được điểm 5 dù không ai hiểu tư ǵ.). Cuốn TDTD của PHD đọc lần đầu tiên cũng thế, mang lại „ảo vọng” ta đă hiểu vấn đề: về phép duy vật biện chứng chứ ǵ? Từ ông K. Marx chứ ǵ?

Ừ, xong sao nữa? Đọng lại chút dư chấn bởi những ḍng chữ, những câu văn cuồn cuộn cảm xúc ở những trang cuối khi  tác giả liên hệ, kêu gọi, như một lời tuyên ngôn hoan hỷ…về phương pháp luận này?

 Không, giờ đây tôi mới hiểu: đây là lời tuyên ngôn hoan hỷ của kẻ đă t́m ra duy nhất một cách lập luận ĐÚNG để tiếp cận với cuộc đời NÀY của ḿnh, của duy nhất một PHD. 

Vậy th́, trước hết hăy đọc lại, điểm lại, tóm tắt lại những ǵ PHD đă viết trong cuốn TDTD đă nhé:

 

Đọc lại TDTD của anh, điều đầu tiên ghi nhận: sự trung thực, cũng chính là dấu ấn cá nhân rơ nét ngay từ những ḍng đầu tiên, không trộn lẫn với ai. Tính chất”chủ quan” này mang lại cho văn bản một giá trị „khách quan”, thế mới hay chứ! giống ấn tượng khi đọc các tác phẩm của Hamvas Béla.

Tác phẩm TDTD có 3 phần lớn:

I/ Phân tích ba quan hệ cơ bản của con người với thế giới

II/ Bàn tới những nền tảng ư tưởng của con người

III/ Những tư tưởng tâm đắc nhất về nhân sinh quan, thế giới quan triết học của tác giả.

 

Phần I/  BA QUAN HỆ CƠ BẢN

A/ Suy luận biện chứng

Anh nhấn mạnh đầu tiên và nhắc đi nhắc lại từ BIỆN CHỨNG.

1/ Anh nói về 3 chiều kích của con người: như vật-thể (theo ngôn ngữ của  Hamvas Béla: trong thế giới tự nhiên?), như sinh -thể :cái này là cái ǵ vậy,  có phải thế giới giác quan của con người không? (linh hồn?), như trí-thể (tinh thần?)

2/ Anh nhắc đến Ngôn Ngữ như một cản trở nhập nhằng của con người mặc dầu anh thừa nhận vai tṛ tạo ra người của Ngôn ngữ.

3/ Anh cho rằng thực thể người chính là một quá tŕnh tự hiện thực xuyên qua ba h́nh thái vạn động (vật chất-sống-tinh thần) và quan hệ nội tại giữa chúng.

 

B/ Anh có vẻ quan tâm nhất đến các H̀NH THÁI thực hiện của mọi kiến thức.

Chẳng hạn khoa học thực hiện trong một h́nh thái ngôn ngữ toán. Anh quan tâm nhiều đến tính chất xă hội của sự hoạt động (ảnh hưởng Marx?)

Anh nói về sự thật khách quan chỉ có trong nhân giới, trong thế giới của ngôn ngữ người. Anh viết: khoa học chỉ có giá trị trong mối quan hệ giữa người và vật chất.

Anh viết về sự phân biệt duy tâm và duy vật (thế giới vật chất và thế giới tinh thần) đi từ Descartes, dẫn đến việc anh coi thế giới tinh thần là thế giới của tôn giáo, và thế giới vật chất là sự quy nạp về lượng.

Anh cho rằng: chỉ nên hiểu về vật chất như đối tượng của một chủ thể có khả năng hiểu biết (phát biểu bằng lời). (vấn đề ở chỗ: con người chưa biết bao nhiêu về chính thế giới vật chất của nó, nên Lời của nó cũng chưa đủ, cái gọi là khoa học vẫn cứ tiến lẹt đẹt  - Đọc đến đây NHN nghĩ như vậy.)

Anh viết: Khoa học đương đại buộc triết gia phải từ bỏ thế giới của thực thể để t́m hiểu thế giới của quan hệ. (Nghĩa là biện chứng là quan hệ, là tương quan? chỉ là như vậy thôi, chỉ trong quan hệ và tương quan?)

Phần nói về SỰ SỐNG của anh khá lư thú  nhất là đoạn anh coi Sự Sống là quá tŕnh vật chất vận động đo đếm được (thế giới tự nhiên?)) và là quá tŕnh tổng hợp không đo đếm được (thế giới tinh thần?)

Nhưng ngay ở QUAN HỆ trong sự sống anh cũng nhấn mạnh tính nhân bản của quan hệ người trong tương tác cùng chiều Sống với nhau của họ (ư này rất hay!)

Cái gọi là Sống của anh chính là khái niệm Đời Sống trong các văn bản của Hamvas  Béla ( theo NHN)

 

C/ Quan hệ giữa vật chất và sinh giới:

Anh nhấn mạnh: sinh vật tự vận động trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường (tính vật chất), nhưng khi thực hiện QUÁ TR̀NH này, nó tự tái tạo lại nó. Quá tŕnh này gọi là sinh vật: TỰ HIỆN THỰC HÓA bằng 2 h́nh thái vận động (vật chất và sống).

Theo Engels: sinh vật vừa là chính ḿnh vừa khác ḿnh.

Anh viết: có hai đặc thù của h́nh thái vận động của sinh vật:

1/ Có ư hướng, tự chọn lọc

2/ Trở lại, trở về ḿnh, thành cái đă là: vĩnh cửu trở về ḿnh: tự tái tạo nó qua quan hệ với môi trường

Định nghĩa về SỰ SỐNG của anh:

Sống là liên tục lựa chọn tái sinh vào sinh giới qua sự lựa chọn những quan hệ của ḿnh với thế giới.

 

 D/ TINH THẦN, quan hệ giữa người và văn hóa.

1/ Một thực thể nhờ tha nhân (nghĩa là con người có được nhờ tiền bối –theo NHN hiểu.) Có được mối quan hệ này nhờ NGÔN TỪ. Ngôn từ là h́nh thái của một quan hệ nhân tính với thế giới. H́nh thái này gọi là VĂN HÓA.

2/ Ba chân trời của tự do:

a/ H́nh thái tự do của con người trong quan hệ với vật chất (ư nghĩa sự phát triển của khoa học)

b/ H́nh thái tự do của con người với sự sống (là nội dung sống của con người?-NHN hỏi)

c/ H́nh thái tự do của con người với chính ḿnh và với tiền bối, với người khác. Ở đây anh nhấn mạnh: con người chỉ Tự Do khi thực hiện ḿnh trong quan hệ với tiền bối và người khác, và trong quan hệ với chính ḿnh

3/ Cần thời gian để nên người và thành người. (Ở đây anh muốn nhấn mạnh quá tŕnh xă hội hóa con người? -NHN.)

 

PHẦN II: NỀN TẢNG CỦA NHỮNG Ư TƯỞNG

 

DESCARTES: tách tinh thần ra khỏi vật chất. Theo anh nguyên nhân dẫn đến ngơ cụt trong tư tưởng của Descardes là hạn chế của ngôn ngữ ( thời đại) ông dùng, nhất là v́ thế giới quan Ky tô giáo lúc đó.

KANT: Tạo khái niệm Hiện Tượng  là vật thể di động giữa Linh thức không gian và Thời gian, mà theo anh đấy chính là Ngôn Ngữ.

HEGEL: đưa ra Ư niệm Tuyệt đối tự phát triển do mâu thuẫn nội tại. Theo anh đây là Biện chứng H́nh thức của Hegel, khác hẳn Biện chứng của Marx(theo lời Lenin)” phân tích cụ thể một t́nh h́nh cụ thể”.

SARTRE: theo ông thể thống nhất giữa Thực thể và Hư vô có xuyên qua cảm nhận của người. Hai sự phủ định (không là nó và phủ định chính nó) là đặc thù của ư thức. Quan hệ giữa Thực thể và ư thực là quan hệ ngoại tại, sự tự phủ định ư thức là quan hệ nội tại. Sartre gắn con người với thế giới  và năng động hóa quan hệ con người với thế giới (Vượt).

H́nh thái của vật thể: anh nhấn mạnh đến nhục cảm (cảm xúc?) người trong quan hệ người với vật thể, nghĩa là quan hệ sống của người và thế giới vật thể để xác định tính lựa chọn của hành động người. Viết về h́nh thái của thời gian: rất lư thú khi anh cho rằng thực thể sống trở thành ḿnh bằng cách trở thành khác ḿnh, nghĩa là quá khứ tương lai gắn chặt với nhau qua nghiệm sinh hiện tại.

 Điều đặc biệt nữa, khi anh cho rằng: thời gian người là phi thời gian khi duy nhất chỉ con người biết liên hệ, tái sinh, nhập vào người chết qua tư duy, tác phẩm của ḿnh, để tái tạo lại ḿnh. ( Đây là một ư tuyệt hay đặc biệt cần dành cho (cái gọi là) các szekta-giáo phái tâm linh mà thời đại nào cũng mọc lên nhiều như nấm mùa Xuân!)

Một nhân sinh quan mới: anh phân tích 11 luận đề về Feuerbach.

        Đọc lại TDTD lần này tôi đặc biệt thích chương này, trái với cảm tưởng  trước kia phần cuối cùng hay nhất, h́nh như đây mới là phần hay nhất của cuốn sách.

Cũng như đọc hết phần II. hiểu tại sao TDTD là một tác phẩm khó đọc: không phải v́ văn phong quá đặc thù của tác giả, hay v́ nội dung triết nặng nề rắc rối khó hiểu, mà chính v́ cách đặt vấn đề của anh rất MỞ, động đến nhiều lĩnh vực khác cần quan tâm, suy luận.

Vậy là tôi vừa tóm tắt những ư chính, vừa viết ra những suy nghĩ (giữa chừng) của ḿnh. Tiếp như sau:

Tác phẩm này của anh muốn nói đến điều ǵ cốt lơi?

 Phương pháp tư duy? –Tối ưu nhất trong thời đại này là phương pháp tư duy theo duy vật biện chứng? Chưa có phương pháp tư duy khác hữu hiệu hơn?

Tính chất của (cái gọi là) Duy Vật ở đây có phải là:

1/tính cụ thể (hoàn cảnh cụ thể, hành động cụ thể, phân tích cụ thể)

2/ cái mà phái Duy tâm (gọi là) trực giác, theo phái duy vật đó là cảm tính của người, chỉ con người mới có. (phải chăng v́ chỉ con người biết mơ ước, khao khát? -NHN)

3/ phải có sự thay đổi cụ thể (giữa những con người chính là thay đổi xă hội, thay đổi quan hệ), c̣n gọi là: hành động cách mạng.

Tính chất của phép biện chứng ở đây là:

1/ Quy luật lượng biến thành chất

2/ Quy luật thống nhất của các mặt đối lập

3/ Quy luật phủ định của phủ định.

Và biện chứng pháp của Marx là: quan hệ nội tại (bên trong) của ba quy luật. Nghĩa là: biện chứng pháp của Marx phải đặt trong các quan hệ xă hội của con người với nhau mới có ư nghĩa?

A, đến đây hiểu ra rồi: toàn bộ thuyết duy vật biện chứng như anh viết đều chỉ có ư nghĩa, áp dụng được trong quan hệ xă hội người với nhau mà thôi, ngoài con người ra, không có ư nghĩa nào hết.

Và v́ ở trong quan hệ người với người trong xă hội, nên nó bắt buộc phải thông qua ngôn ngữ là công cụ để hiểu nhau, để sống (như người với nhau).

Bởi vậy 3 quy luật trên áp dụng vào quan hệ con người sẽ thành:

1/ Q/l Lượng chất: là mối quan hệ người sống với người chết (truyền lại gia tài văn hóa các thế hệ, trước hết qua ngôn ngữ). Nghĩa là người ta muốn thành người trong xă hội người, trước hết phải học những ǵ của người đă chết để lại (môi trường văn hóa đầu tiên? tiếng mẹ đẻ? - NHN). Nghĩa là tự dưng không thành người mà phải Học.

2/ Q/L Thống nhất của các mặt đối lập: là quan hệ nội tại của các mâu thuẫn (nói như Hamvas Béla: đây là sự thống nhất của Đời sống nằm trong Sự sống)

3/ Q/l Phủ định: khi hiện tượng tự nhiên được con người nhận biết, tiếp nhận qua quá tŕnh Học, sẽ trở thành một quan hệ văn hóa người, không chỉ là vật chất hoặc tự nhiên thuần túy nữa, nên nó là Phủ định. Phủ định tính chất đầu tiên của chính nó.

Phủ định của phủ định: Theo anh đây là khi một giá trị của (đời sống) biến thành một giá trị xă hội chung (quá tŕnh học để thành người như một quá tŕnh xă hội hóa-c̣n gọi là quá tŕnh phủ định của phủ định? -NHN)

Hiểu rơ biện chứng pháp theo anh là hiểu rơ ba quy luật này như một quá tŕnh thống nhất của con người với tính chất vật chất, môi trường sống và với chính bản thân nó.

Ngôn ngữ-theo anh-là công cụ chỉ con người có và duy nhất để trở thành người.Từ đây dẫn đến chương III nói về Tri thức- như một hậu quả của quá tŕnh Dùng ngôn ngữ người.

 

Phần III: NHỮNG NỀN TẢNG KIẾN THỨC

 

Freud với Tiềm thức mở đường cho tâm lư học trong lĩnh vực nhân cách hóa con người.  Anh lưu ư đến tính lịch sử của con người: tính lịch sử cá biệt và tính lịch sử xă hội khi xét quá tŕnh nên người của con người (biện chứng)

Chương hay nhất trong phần này của anh: Thị trường, phương tŕnh hóa con người. Theo anh, bộ môn kinh tế học, nhất là kinh tế thị trường là phi nhân tính và phi xă hội nhất. Thị trường, trong quá tŕnh phương tŕnh hóa con người đă khiến con người đồng chất với vật thể (tiền) và là quá tŕnh phản xă hội người.

Nhưng chương đúng chất PHD nhất phải là chương tiếp theo trong phần III: Chính trị, nghệ thuật làm người.

Từ những khái niệm cơ bản: Tự do, b́nh đẳng, đồng nhất, phân tích sâu xă hội Hy lạp, anh muốn nhấn mạnh nhân tính trong sự phát triển của xă hội người, đấy chính là sự đoàn kết mang tính người, con người văn hóa. Tự do chỉ có thể có khi con người B́nh Đẳng trong nhân tính.

Chương cuối như thể chứa chất đầy „quằn quại”  đam mê sống của anh:  Văn chương, máu thịt của ngôn từ.

Trong chương này, anh trích dẫn và biện minh tư tưởng của Sartre khá nhiều, qua đó có thể thấy ảnh hưởng lớn lao của nhà văn hiện sinh Pháp này đến anh.

Anh khẳng định: nhà văn là người nhân hóa thế giới, môi trường bên ngoài của họ bằng nhân tính cá biệt của họ, và quá tŕnh này làm thay đổi ngôn ngữ, chính là thay đổi nhân loại. Và hành động này thể hiện tự do của con người trong thế giới.

Có thể trích dẫn toàn bộ một đoạn ngắn dưới đây để tóm tắt chương cuối sách của anh:

Văn chương trong tư cách nghệ thuật, đ̣i hỏi một thế giới có thực, cảm và hiểu được trong tất cả chiều kích lịch sử của nó, đ̣i hỏi một thế giới đă được nhân hóa. Nó là con người được phơi bày những cục cằn của chính ḿnh để đ̣i hỏi được toàn vẹn. Nó là kư ức vĩnh cửu của sự phù du. Nó tự hiện thực xuyên qua sự tái sinh bất tận của ngôn từ từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trong mọi ngôn từ nó là tự do. Và đoàn kết.”

 

 

Với tôi đây là một tác phẩm hết sức phong phú, gợi nhiều vấn đề MỞ mang cảm hứng để suy tư, lập luận. Tôi không coi cuốn sách này chỉ như một tác phẩm triết. Nên dành cả cho những ai không thể thờ ơ, hờ hững mà lúc nào cũng hừng hực lửa đam mê sống trong đời.

 Bởi,  tri thức trong tác phẩm này là một cảm nhận trải nghiệm đời sống không chỉ lư thú mà c̣n sâu sắc của tác giả. Đồng cảm, ḥa nhập với tư tưởng và t́nh cảm của người viết bằng chính trải nghiệm cảm nhận đời sống của chính ḿnh chắc chắn sẽ mang lại một thu hoạch tinh thần hết sức hân hoan.

Với tôi, đọc TDTD của PHD lần đầu tiên mang lại cho tôi một „hưng phấn” bất ngờ: niềm lạc quan, một thứ „xa xỉ phẩm” dường như thiếu vắng hoàn toàn đối với tôi trong thời điểm đó.

Tuy đọc lại bài ḿnh đă từng viết chia xẻ cảm hứng với tác giả TDTD thuở ấy mà không khỏi…bùi ngùi:

 

                                      SUY NGHĨ SAU MỘT CUỐN SÁCH

                                                   (Đọc Tư duy tự do của anh P.H.Đ.)

 

 Thật đáng sửng sốt, mới chỉ ba tháng trôi qua. Ta đă mất khái niệm về bản thân, như một thực thể hiện hữu. Ba tháng, ta không t́m thấy bản thân, ta như đi trong một đám sương mù, rất hẹp, xung quanh không có ai, linh hồn ḿnh, đang tṛ chuyện, với một linh hồn khác, hay đúng hơn, chỉ đôi khi....

Mối quan hệ bắt đầu từ chữ thật lạ lùng, và tất nhiên như một định mệnh : vài bức ảnh đâu đấy, chụp một chiều, nh́n ngang nh́n dọc chẳng phát hiện ǵ thêm, vô cảm, có thể nghe một giọng nói, lần thứ nhất mang lại nỗi mừng rỡ v́ âm thanh báo hiệu sự sống, những lần sau nghe lại, âm thanh chỉ c̣n mang ư nghĩa tượng trưng như quan hệ bên ngoài của con người.

 Nhưng ta vẫn bị cuốn hút vào chữ, thứ nối những linh cảm con người với nhau.

 Những ḍng thư trao đổi, dường như chỉ là những xúc cảm hốt hoảng, loạn xạ, phân vân hay ch́m ngập trong nhiều nỗi tuyệt vọng vội vă ta. Anh uốn nắn, điều chỉnh, chỉ ra những mâu thuẫn, những vô duyên trong suy nghĩ, trong cách đánh giá của ta, đúng mực, không thừa, không thiếu.

 Giữa chừng, ư tưởng, cảm xúc của ta vẫn ập đến, vẫn dâng trào, muốn giăi bày, hiến dâng, thổ lộ…

Anh bảo : ta đang muốn thổ lộ cùng bản thân.

C̣n ta, tưởng như đang bấu víu được vào một linh hồn khác, sau quá lâu rồi độc thoại, chán nản, nghi ngờ, không tin ḿnh có sứ mệnh ǵ ở đời, và muốn chần chừ đi t́m một chốn trú chân : thiên nhiên, tôn giáo, hay chỉ một ḿnh buồn bă bâng quơ ?

 Cuốn sách anh trao giống như giọt mưa đầu tiên rơi xuống mảnh đất hạn hán nứt nẻ, giống nhịp tim đầu tiên ta chợt nghe lại từ lồng ngực thoi thóp áp xuống đất ẩm hồi sinh, giống như mầm cây mảnh mai hé lên yếu ớt giữa khe đất của những bức tường bê tông cháy bỏng.

 Anh đă ch́a tay cho ta, sửng sốt.

 Để ta sống sót, hay đúng hơn, để ta nh́n thấy lư do sống sót của ḿnh.

 Ta đọc đi đọc lại sách của anh, bài vở, tác phẩm, nghe anh nói trong không gian, để hiểu rơ hơn những điều h́nh như đáng phải hiểu từ thời niên thiếu,

 để ba tháng nay ngơ ngác : ḿnh là ai, muốn ǵ, đi đâu, làm được ǵ, sẽ ra sao,

 để giá gọi được tên những khái niệm vô danh cứ lớn măi trong tâm hồn, vô thức.

 H́nh như :

 ta chỉ gọi tên, mượn khái niệm anh trao : đấy là nỗi đau được viết, nỗi đau được yêu, được làm người …

 Một cái ǵ bừng tỉnh trong ta, khi đọc sách của anh xong, thấy sự lạc quan trở lại, thấy ḿnh dấn thân ngần ây năm vào những sự kiện đời không uổng phí, khi nhân cách ḿnh không những giữ nguyên xứng đáng, mà ngày mỗi đ̣i vươn lên những chuẩn mực cao hơn. Đấy là t́nh người anh kêu gọi từ mỗi trái tim, để đêm đêm ta buốt giá v́ thấy xung quanh toàn những nỗi ích kỷ, ḷng đố kỵ, tính nhỏ nhen và thói bạc bẽo trả lời ta.

 Anh biết sự lạc quan cải tạo thế giới của anh đă làm Ai nuốt nước mắt vào trong để tin tưởng ? Tư tưởng của anh khiến ta tuyệt đối tin yêu, ít nhất như ta tin vào cuộc đời chừng ấy năm đă trải của ḿnh, như cái Đẹp trong hữu hạn, như khái niệm Yêu trong dáng vô h́nh của Chữ.

 Có vẻ như yêu tư tưởng anh, yêu sách anh là yêu một lư tưởng ? V́ đời chỉ mải miết t́m, đâu đă gặp bao nhiêu ân t́nh, nỗi âu yếm, ḷng vị tha và nỗi dâng hiến ?

Nhưng có thể không yêu một lư tưởng được chăng, khi ta t́nh nguyện đi t́m tự do tư duy toàn diện mà văn chương đ̣i hỏi.

Bởi vậy : t́nh yêu với tư tưởng anh, với lư tưởng của anh phải đồng nghĩa với định mệnh Yêu- Chết ? với t́nh yêu sách, yêu chữ, yêu hoa, yêu nhạc, yêu nhảy múa, yêu rơi nước mắt một ḿnh ?

 Ta hiểu đúng chăng ? khi thấy ḿnh chững lại, bớt bâng khuâng, buồn tha thiết hơn và…lại cô độc như xưa…

 Dường như những âm thanh dịu dàng từ gió, từ hoa, từ nắng ấm mùa xuân đang thủ thỉ : hăy đau tiếp đi em ơi ! Cho dù vẫy gọi nhau làm người là chặng đường dài đầy ngộ nhận, lầm lẫn, khổ đau, nhưng h́nh như cùng đến với hy vọng tương lai khó có con đường khác ?

 Ta ngửng đầu ngắm một trời đầy hoa orgona tím biếc, mơ màng gặp một ánh mắt xanh….

( Nguyễn Hồng Nhung. 2008.04)

 

Tại sao đọc lại bài viết về cuốn TDTD của anh lại… bùi ngùi?

 Bởi tâm trạng Người thông qua trao đổi ngôn ngữ Người mới mănh liệt làm sao, tuy dấu ấn văn bản của nó thật hạn chế.

Bùi ngùi bởi nhận ra, đối với con người xúc cảm-t́nh cảm thật quan trọng nhưng dừng lại ở đó chỉ đủ để an ủi, chỉ nhận thức trí tuệ mới giúp con người hành động để sống tiếp.

Bùi ngùi khi đọc lại, bởi chỉ ḿnh mới nh́n rơ nhất những ǵ đă trải trên con đường đi của chính ḿnh khi bắt đầu đọc, viết và dịch một cách miệt mài.

Trong quá tŕnh HÀNH ĐỘNG –SỐNG bằng ngôn ngữ, dường như tôi từ từ hiểu những trải nghiệm PHD  viết trong cuốn sách của anh, từ những trải nghiệm tư tưởng-tinh thần của chính ḿnh.

 

Tôi bắt đầu thấu hiểu sự PHÙ PHÉP, PHÉP MÀU của ngôn từ mà con người sử dụng, thứ ngôn ngữ (chưa cần phù phép) đă như một con dao rất sắc hai mặt- có thể cứu người và giết người- như nhau cùng lúc.

Lúc nào xảy ra chuyện này?

Khi nhận thức của con người mù mờ trong những mập mờ định nghĩa của những khái niệm của đời sống người.

Hay, như tác giả TDTD viết: khi mối quan hệ giữa „con người vật thể”- „con người sống”-„con người tư duy” không thống nhất, nói cách khác: mâu thuẫn lẫn nhau. Và dường như ba chiều kích này của con người chẳng bao giờ hết đụng độ, hết mâu thuẫn. Phải chăng đấy mới là đời sống Người?

Nhận thức này từng xảy ra với tôi, nên tôi đă viết:

…..

Ôi đă bao nhiêu lần rồi, giá như mọi việc chỉ dừng lại ở CHỮ- nó đă không cần TỪ BỎ- đúng thế, từ bỏ  CON NGƯỜI để…đi tiếp.

 Trong văn bản, trên câu chữ, linh hồn hiện diện như một phép màu. Linh hồn đă phù phép đời sống: nhưng chỉ trên CHỮ mà thôi.

Mỗi con người có một MÔI TRƯỜNG SỐNG và một THẾ GIỚI BÊN TRONG.

Gặp linh hồn trong MÔI TRƯỜNG SỐNG, các hạn chế, các ràng buộc, các mức độ vật chất sẽ phá tan phép màu, vặt trụi cánh  thiên thần, chặt đứt phương tiện bay của ư tưởng…Ôi chao! phũ phàng!

Linh hồn từ THẾ GIỚI BÊN TRONG của nó bước ra môi trường sống, trước tiên hoa mắt chóng mặt lảo đảo sốc bởi hiện thực trần trụi, không cách nào HIỆN THỰC HÓA nổi,  định thần, tĩnh tâm lại, nó sẽ buồn đau rớt xuống đáy, để định thần lại, sẽ…cương quyết ra đi. Từ Bỏ.

…….

Trong lúc vẫn tiếp tục dịch Hamvas Béla, t́nh cờ nó làm quen và tiếp nhận thêm một thế giới khác ( được mệnh danh là duy tâm-thần học?)qua hoạt động của một nhóm nhỏ, khá lạ lẫm so với cách nghĩ (đă thành nếp) của nó khi đang sống trong cái ư thức hệ của thời đại này, vẫn là một thời đại duy vật, dù nhận thức ra hay không.

 Đây là một điều hết sức lư thú của cái thời đại nó đang sống, dù con người trong thời đại này muốn nghĩ họ đang theo cái ǵ, các „thành quả”mang lại từ khoa học, triết học, nghệ thuật, văn hóa, vẫn cứ „đẻ” ra hậu quả của nó:  những con người hôm nay thực chất  vẫn là những con người duy vật, và không thể khác (hahahahahaha).

Tóm lại: cứ như một quá tŕnh (phát triển) vừa …vô tận, vừa…có giới hạn của Sự sống, NÓ…từ từ hiểu ra PHÉP MÀU của ngôn ngữ người sử dụng, như một công cụ hành động.

Nhưng đồng thời, nó cũng biết: chẳng mấy ai hiểu ra cái ǵ cả, v́: chỉ hiểu sau khi đă Trải! (lại duy vật nhé, có chạy đi đằng giời!-hè,hè,hè…)

Đọc- viết- suy tưởng- h́nh dung, nhưng đến khi tiếp xúc cụ thể mới nhận ra:  Lời và Hành động của cái thế giới( duy tâm-thần học) ấy không đi đôi với nhau, đúng hơn: đấy là lời của… ảo vọng người. Từ điều này, nó vỡ lẽ ra một „chân lư” muôn thuở: tôn giáo quả thật vẫn chỉ là khát vọng của nhân loại.

Tại sao tự dưng vỡ lẽ ra thế?

V́ ngấm những điều dịch từ Hamvas Béla lâu rồi: hiện thực là thứ phải được hiện thực hóa, c̣n không, chỉ là ư tưởng suông . Và: chừng nào Lời và Hành động c̣n tách ra làm hai, chừng đó tất cả  vẫn chỉ nằm trên lư thuyết, khi Lời và Hành Động là một, bắt buộc dẫn đến sự thay đổi tận gốc rễ, không thể khác.

Sau khi vỡ lẽ, chợt Tỉnh: Ơ! té ra Hamvas Béla có cái nh́n (không duy vật) th́ cũng biện chứng, giống như tác giả của TDTD? hahahahahaha…

Chợt THẤU HIỂU những ǵ nó đă dịch! hà,hà,hà…Cực kỳ!

Điều hay ho nhất: chợt nh́n thấy rất rơ sự mù mịt của bản thân nó từ trước tới nay, điển h́nh của một kẻ sống trong thời đại(có thể) hiểu hoàn toàn về duy vật biện chứng, duy tâm chủ nghĩa, thần học, tôn giáo…nhưng lại  không hiểu ǵ cả bởi  đă tự đánh mất ḿnh trong mớ kiến thức hỗn loạn của nhân loại, chỉ v́ chưa: ĐỘC LẬP suy nghĩ.

Cần phải đọc TƯ DUY TỰ DO lại lần nữa!- ư nghĩ này nhen nhóm.

Tuy nhiên: nếu thiếu cái đống” tri thức hỗn loạn” có lẽ Nó cũng chẳng hiểu cái ǵ ra cái ǵ, nó đă nghiến ngấu tất cả mớ đấy trong những cơn ưu phiền, tuyệt vọng, buồn bă, bấu víu, đi t́m lối thoát cho những  vô nghĩa…

Tóm lại: ai cũng sẽ hiểu ra thôi-khi cơn NHẬP ĐỊNH đến-hè,hè,hè…

…..

Sự nhập nhằng (tất yếu) của ngôn từ -như sự xen kẽ muôn vàn yếu tố khác biệt trộn lẫn nhau của đời sống người sẽ làm yếu bóng vía cái Trí của ta, khi ta cố gắng đào sâu suy nghĩ, hướng tư duy đến những điều cao cả hơn trong cuộc sống để hành động  như một giải thoát?

Làm thế nào để HIỂU đúng đây? v́ mù mờ nhận thức sẽ chập chờn hành động.

Và thế nào là TỰ DO? Tư duy đúng đă đủ cho tự do của con người hay chưa?

 

Đọc lại TDTD của PHD trong lúc đang miệt mài đọc và dịch Hamvas Béla quả là một điều lư thú. Tha hồ có cái để suy ngẫm.

Tôi cố gắng đọc kỹ Hamvas Béla, cố gắng hiểu sâu, hiểu hết những khái niệm cơ bản như Truyền Thống, Nhập Định trong tác phẩm của ông để hiểu tại sao người ta vẫn cứ tranh căi nhau không ngừng về tư tưởng của ông, về những tác phẩm vô cùng kỳ lạ bởi các chất liệu (được gọi là) duy tâm lẫn duy vật xen kẽ nhau một cách huyền bí  như cuộc đời nhà „Thần học” đặc biệt, độc nhất vô nhị  xứ Hungary.

 

Hamvas Béla từng viết: Đời sống không có mục đích; nhưng đời sống có ư nghĩa. Con người cần tạo dựng tác phẩm từ bản thân ḿnh, để trở thành vĩnh cửu. Quá Tŕnh Thành Người chính là quá tŕnh xây dựng nên những tác phẩm cuộc đời.

Hamvas Béla đă tự chứng minh được điều đó.

 Phan Huy Đường cũng nhắc đi nhắc lại một tư tưởng cốt lơi trong cuốn sách của anh: con người phải Học Làm Người mới nên Người.

Trong ư nghĩa ấy TƯ DUY TỰ DO đă góp phần làm nên tác phẩm cuộc đời xứng đáng cho Phan Huy Đường.

                                                                 ( Kỷ niệm Ngày Sinh.- 2013.09.28)

                                                                          Nguyễn Hồng Nhung.