HAMVAS BÉLA
CÁC BẾN ĐỖ CỦA SỰ SỐNG CON NGƯỜI
(Trích tiểu luận triết học: Scientia sacra)
1.
Sau những phân tích về các hěnh ảnh cổ, thật lŕ sai lầm không thể tha thứ nếu vẫn tiếp tục nhầm lẫn những giáo huấn về con người cổ trong truyền thống, với thuyết nhân học. Truyền thống, trước tięn vŕ tręn hết nhěn thấy trong con người hěnh ảnh cổ của nó, trí tuệ thượng đế của nó. Cňn trong từng cá nhân, truyền thống chỉ ra bản chất đă đánh dấu của con người bằng dấu ấn của thượng đế, của các sức mạnh, các Quyền lực của trí tuệ thượng đế, con người đứng ở vị trí giới hạn của sự sống.
Như vậy con người bị gim chặt từ ba góc độ: trước tięn trong bản chất vĩnh cửu của nó lŕ linh hồn bất tử, thứ hai con người như một thể loại, vŕ thứ ba, con người như một tính cách.
Viễn tưởng ấu trĩ về tư duy truyền thống của con người lịch sử, nhất lŕ người châu Âu đều thể hiện rất rő ở điều nŕy. Những hěnh ảnh khác nhau về con người cổ không phải (cái gọi lŕ) những ẩn dụ thi ca, những motip cổ tích hay các kết luận cần phải hiện thực hóa. Tại sao? đơn giản vě: con người ở mức độ cổ xưa có khả năng gọi tęn các sự vật một cách chính xác, nhưng khả năng nŕy đă bị vật chất hóa, vŕ từ đó đến nay ngôn ngữ chỉ gọi tęn sự vật một cách tượng trưng hoặc chỉ theo nghĩa bóng mŕ thôi.
Chính vě con người đă đánh mất khả năng đặt tęn một cách chính xác vŕ trực tiếp sự vật sự việc nęn nó đánh mất luôn cả khả năng sáng tạo ngôn ngữ, vŕ đánh mất cả khả năng vâng theo ngôn ngữ của các sức mạnh vŕ các Quyền lực thế giới. Vŕ như vậy ngôn ngữ người chỉ trở thŕnh sự tượng trưng.
Lấy một ví dụ: quan niệm của người hiện đại về từ tái sinh. Đây lŕ một hiểu lầm lớn nhất của con người hiện đại với thời cổ. Hěnh ảnh tái sinh của linh hồn không có nghĩa lŕ linh hồn cá nhân- mŕ Veda gọi lŕ dzsivatma-được sinh ra, chết đi, rồi sống lại, từ đời sống ở trái đất bay vŕo đời sống của thế giới bęn kia, rồi từ thế giới bęn kia quay lại với đời sống trái đất, quay trňn, luân hồi vŕ vật vờ.
Chỉ lối tư duy chứa đựng rất nhiều thuật ngữ máy móc vŕ vě thế mů lňa mới có thể phát biểu như vậy.Tái sinh không phải lŕ một hěnh ảnh cổ lięn quan đến cái cá nhân của con người mŕ lięn quan đến con người vĩnh cửu. Ý nghĩa của nó không phải lŕ dzsivatma -cái TÔI bé nhỏ của con người hôm nay chết đi, ngŕy mai sẽ được sinh ra lần nữa ở một miền đất nŕo đấy tręn quả đất vŕ trong hěnh hŕi khác, mŕ ý nghĩa của nó lŕ con người cổ rơi từ tạo hóa tinh thần xuống thế gian vật chất, vŕ từ vật chất nŕy thức tỉnh như một nhân loại, vŕ từ sự đông đảo chia thŕnh các cá nhân, từ sự đông đảo nŕy từng cái TÔI lŕ một bến đỗ của con người cổ, từng”sự tái sinh”-luân hồi của con người cổ. Không có sự mất đi vŕ tái sinh một cách tự động.
Sự tái sinh của từng cá nhân chưa bao giờ, chưa có bất kỳ cái gě nhắc đến, từ thời cổ, hay ở phương Đông, hay kinh Veda, đạo Phật, sięu hěnh học Ai cập, Pitago, Platon cũng chưa bao giờ nói đến. Luân hồi, sự tái sinh lŕ hěnh ảnh cổ sâu đậm vĩ đại nhất của số phận con người vĩnh cửu, hěnh ảnh luân hồi số phận của cái TÔI cá nhân lồng bóng số phận con người vĩnh cửu, vŕ được hiểu như một sinh linh tái sinh trong mối quan hệ của nhân loại sięu việt.
Linh hồn tái sinh cůng dấu ấn của thượng đế như một hěnh hŕi tięu biểu, linh hồn tái sinh với tính cách như một trường hợp giới hạn cực đoan ra đời, như một khuôn mặt, như một sinh linh cá nhân hóa.
Nếu hěnh ảnh con người trong truyền thống có ý nghĩa lớn như vậy, thě sự tái sinh, chỉ có thể hiểu đă tồn tại, vŕ giải thích được trong tinh thần sięu hěnh của thời cổ. Sự diễn giải nŕy nhất thiết phải dựa tręn nền tảng của trạng thái cổ.
Trong trạng thái cổ con người lŕ Adam Kadmon: con người Rực Rỡ. Adam có nghĩa lŕ kẻ thống trị. Con người cổ trước hết lŕ chúa tể thięn nhięn, nhận được sức mạnh của lời từ Tạo Hóa, bằng ngọn lửa, bằng logo: lŕ kẻ thống trị toŕn bộ các sinh linh vŕ các thế gian bằng těnh thương yęu của trời. Các nguyęn tử, loŕi động vật, các Quyền lực đều cúi đầu ngoan ngoăn trước con người.
Các luân hồi của hěnh ảnh cổ Adam Kadmon lŕ các vị vua lớn, các nhŕ lập pháp các nhŕ thông thái của nhân loại. Đấy lŕ „loại người bí ẩn” mŕ truyền thống hay nhắc đến: Manu, Menes, Minos, hay như tri thức Hindu, Ai cập, Hy lạp, Eheatl, Mexico, Kecalkoatl, Toltek Manko Kapa, Peru nhắc đến.
Đây lŕ con người” không khí”, đúng hơn lŕ thực thể tinh thần thuần túy, lŕ nhŕ vua rạng rỡ, kẻ phân chia các quốc gia, như truyền thống Toltek đă viết, kẻ trao cho các dân tộc ngôn ngữ, dân ca, quần áo, thức ăn thức uống vŕ phân chia họ, như ngŕy nay người ta nói: đánh thức ý thức của họ.
Đấy lŕ kẻ cai trị theo trật tự của Melkizedek, lŕ nhŕ vua của sự chính trực, của hňa běnh, của těnh thương. Đấy lŕ con người cổ mŕ Đạo Đức Kinh nhắc đến, lŕ Quân Tử của Khổng tử; lŕ kẻ duy trě sự thật (aletheia) như Platon đă dạy, vŕ bởi vậy đấy lŕ cái đầu của dân chúng, của Politheia.
Đặc tính của con người nŕy vượt tręn cả giống loŕi, quốc gia, tôn giáo, thời đại: đấy lŕ tinh thần vũ trụ. Tinh thần vũ trụ chỉ có nghĩa như sau: không phải lŕ ý thức của cái TÔI vật chất, mŕ lŕ ý thức thượng đế-ý thức tinh thần cổ. Con người sống, tư duy, hŕnh động, giao tiếp, cai trị trong đặc tính nŕy không phải lŕ một khuôn mặt cái TÔI, một loŕi, một tính cách, một dấu ấn, mŕ lŕ linh hồn thượng đế sięu việt, lŕ tri thức thượng đế.
Đây lŕ „Những đứa con của Thượng đế”- những đứa con của đấng Brahma-những đứa con của Toth- đây lŕ” Bảy nhŕ thông thái”, lŕ „Bảy risi”, lŕ những kẻ truyền nguồn sống Thượng đế-thięn nhięn cổ xuống sự sống thế gian vật chất mặt đất.
Có những truyền thống khác gọi những người nŕy lŕ Thần Hộ Mệnh, Thần Canh Gác hoặc Kẻ Thức: egregoroi, phülakesz, pneumaton. Ở Mexico người ta gọi: tlapian-giống như phülax, Thần Hộ Mệnh.
Tác động của những con người nŕy lŕ vô bờ bến, như truyền thống đă nói. Tại sao? Bởi vě đây lŕ con người tồn tại trực tiếp từ tinh thần tỉnh táo của thượng đế, vŕ như sách thánh Iran từng viết: „Thượng đế trao quyền lực vô bięn cho těnh thương yęu”. Trật tự Melkizedek mang quyền lực vô bięn vě đó lŕ vua của těnh thương yęu vŕ hňa běnh. Đấy lŕ sự hiện hữu của sinh linh được Thượng đế tạo ra trong ngŕy thứ sáu, Adam Kadmon, kẻ cai trị.
Con người hiện đại chỉ có thể trải nghiệm bất ngờ ngắn ngủi trạng thái cổ lóe lęn trong chốc lát, khi sự nhận thức vŕ těnh yęu thương hňa tan vŕo lŕm một. Trong trạng thái cổ nŕy giáo huấn của Pitago lŕ sự nhập định; từ một vŕi câu nói của Empedokles hiện thực được sắp xếp đâu vŕo đấy; Thięn thần triết học của Platon chỉ lŕ một hěnh hŕi nhợt nhạt hơn; nhưng Platon lŕ một kẻ nhập định hoŕn hảo.
Muộn hơn, trong thời Alexandria người ta biểu trưng sự thống nhất của nhận thức vŕ těnh yęu thương bằng logo - trái tim lửa cháy. Trong thời kỳ gần đây nhất, kẻ nhập định vŕo trạng thái cổ lŕ Ramakrisna. Đây lŕ trạng thái khi sự ấm áp của těnh yęu thương lŕm lóe sáng nhận thức, vŕ khi ánh sáng của tư tưởng soi rọi těnh yęu thương.
Sự hợp nhất của trái tim bốc lửa, nhận thức vŕ těnh yęu thương không thięn vị rạng rỡ trong ánh sáng tri thức của tinh thần: đây lŕ sự hợp nhất của tri thức vŕ xúc cảm, khối óc vŕ trái tim, tư tưởng vŕ těnh cảm. Con người cổ không nhầm lẫn bằng trái tim, nhưng bằng tri thức cũng không. Con người cổ duy trě thế gian lŕm một bằng těnh yęu thương vŕ tri thức. Điều nŕy có nghĩa lŕ, con người đầu tięn chính lŕ trí tuệ thượng đế.
2.
Bến đỗ thứ hai: Sự phạm tội.
Sự phạm tội xảy ra khi con người rơi xuống vương quốc của cái chết. Nó đánh mất sự tỉnh táo của nó; nó đui mů, câm lặng, ánh sáng của nó tắt, mối quan hệ với đặc tính tinh thần bị đứt đoạn. Nó chěm vŕo vật chất vŕ ở đó trong sự vô thức hoŕn toŕn về bản thân vŕ về thế gian, nó hóa đá, hóa băng trong tối tăm.
Trạng thái nŕy không mang tính tượng trưng của sự mę muội, mę mẩn. Theo truyền thống hěnh ảnh cổ của sự phạm tội lŕ cấp độ trước khi bị tięu hủy hoŕn toŕn, lŕ cấp độ trước cấp độ cuối cůng. Nếu rơi thấp xuống sâu thęm một độ nữa: sẽ tan ra, vŕ biến thŕnh cát bụi. Con người phạm tội, khi biến thŕnh vật chất, nó lao xuống ngưỡng cửa của sự tięu hủy hoŕn toŕn, vŕ đứng chết cứng ở đây.
Không có gě để nói về bến đỗ nŕy. Đây lŕ một bóng râm nhỏ bé duy nhất cách sự hủy diệt hoŕn toŕn; đây lŕ bực thang trước bực thang cuối cůng. Đây lŕ bến đỗ trước ngưỡng giới hạn của phi-sự sống: vô thức, tối tăm, vô nghĩa, không těnh thương yęu, bất nhẫn, không hěnh hŕi, phi trí tuệ, không bản chất, phi tư tưởng.
Cái tội mŕ con người cổ đă phạm, ngŕy nay ta không hiểu nổi. Baader cho rằng ta không hiểu nổi vě ta không thể phạm được nữa. Truyền thống Ai cập vŕ Do thái gěn giữ kỷ niệm về sự phạm tội nŕy bằng nghi thức cắt bao quy đầu. Như thế nghĩa lŕ gě, không ai giải thích được.
Một phần của Tử thư Ai cập dường như nhắc đến điều nŕy từ xa: nhěn tội lỗi cổ của linh hồn, lŕ nhěn bản thân měnh từ bęn ngoŕi, vŕ bằng cử chỉ nŕy lật nhận thức-těnh yęu thương tạo hóa ra bęn ngoŕi: quay ra bęn ngoŕi lŕ quay ra ngoại vi thay cho việc quay về trung tâm- thay việc quay về với Thượng đế lŕ quay lại bản thân měnh.
3.
Bến đỗ thứ ba: Sự tỉnh táo
Sự tỉnh táo lŕ cấp bậc mŕ ( cái gọi lŕ) thời kỳ lịch sử duy trě sự xuất hiện của con người. Khi con người rơi xuống bięn giới của không-sự sống, trước khi bị tięu hủy nó đứng lại, vŕ con người đứng trân trân nŕy bỗng ngoan ngoăn nghe theo lời kęu gọi từ sự quęn lăng của đất, từ vương quốc của sự tăm tối vŕ của thần chết vŕ tỉnh giấc.
Kẻ tỉnh dậy đầu tięn lŕ Adam sau đó đến Ęva, vŕ từ đó đến nay lần lượt tất cả chúng ta thức dậy. Chúng ta đă từng đóng vai chủ tạo hóa, giờ đây chúng ta được mời đến như khách trong cuộc sống trần tục.
Khi rơi xuống con người đă đánh mất sự nhận thức cổ vŕ lňng yęu thương, giờ đây sinh ra từ đất, con người cần lấy lại cả hai thứ nŕy, được bao nhięu tůy sự có thể của nó. Trong hěnh hŕi nŕy con người mang dấu đă ấn định của các Quyền lực (tüposz), mang tính cách cá nhân hóa (cái TÔI). Nó bị xác định trong không –thời gian, vŕ sống một đời sống có hạn.
Loại, tính cách, không gian vŕ thời gian không chỉ lŕ sự hạn chế: đó cňn lŕ những khả năng vŕ những điều kiện dŕnh cho con người để nó quay trở lại. Trong loŕi ẩn giấu những sức mạnh mŕ con người có thể sử dụng; cái TÔI lŕ thứ công cụ để linh hồn diễn đạt các sức mạnh; không gian lŕ vị trí để nó sống vŕ dŕnh cho các hoạt động của nó; cňn thời gian lŕ thứ ân huệ lớn nhất : nếu con người ngay lập tức một lần quyết định vŕ không bao giờ rút lại, nó sẽ rơi xuống vật chất một cách yếu ớt; thời gian lŕ sự kéo dŕi khả năng tiến tới thức tỉnh- bởi linh hồn thức tỉnh cần thời gian.
Trong sự sống trần thế con người sống giữa các điều kiện bị phá hỏng bởi các Quyền lực. Nhưng như truyền thống Hermetikus hoặc thuật giả kim đă nói: không phải các sinh linh mŕ lŕ bản chất của sự sống, hay důng từ khác: các ý tưởng ban đầu của sự sống đă bị phá vỡ.
Quá trěnh cá nhân hóa, sự hư hỏng của cái TÔI cá nhân lŕ hěnh ảnh của sự sống bị phá hỏng. Linh hồn sống trong thế gian vật chất, rất hăn hữu hoặc có nhớ lại cũng khá mơ hồ trạng thái trong sạch cổ. Cái ngự trị linh hồn lŕ sự đờ đẫn vě vật chất. Nếu linh hồn nhớ lại, dů rất ít, trạng thái sáng sủa của nó nó sẽ nhận ra rằng sự thức tỉnh từ cái chết không hề tự nhięn, mŕ theo đúng nghĩa của từ ngữ, đấy lŕ khoảnh khắc trái tự nhięn, sięu nhięn. Vŕ khi linh hồn ngŕy cŕng thức tỉnh hơn nó sẽ dần dần nhận rő hơn, sự tái sinh từ thế gian vật chất thực ra lŕ sự sống lại, sự phục sinh.
Huyền thoại ghi nhận biến cố nŕy khi cho rằng NGŔI đă tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ở Palestin đấy lŕ Jahve, ở Peru lŕ Virakocsa tạo ra ánh sáng, trong thứ ánh sáng nŕy con người hóa đá, tę liệt, biến thŕnh đất một lần nữa có thể thức tỉnh. Thượng đế từ cát bụi sinh ra vŕ hŕ hơi thở cho nó lần nữa.
Trong thời Alexandria người ta gọi sự ra đời tất nhięn lŕ geneszis cňn sự thức tỉnh có tęn lŕ ta geneszia. Bởi bản thân sự ra đời tất nhięn không mang ý nghĩa gě, nếu không cůng lúc lŕ sự thức tỉnh của linh hồn.
Trong trạng thái thức tỉnh sau chấn động dữ dội, linh hồn một lần nữa mở ra. Nơi nó těm thấy nó, giờ đây không phải lŕ sự sống nữa mŕ chỉ lŕ đời sống. Truyền thống không diễn đạt được trạng thái đời sống bằng một từ duy nhất vě cả trạng thái cổ cũng không biết. Khả năng đặt tęn chính xác dŕnh cho con người đă bị mất; cái cňn lại chỉ lŕ sự đặt tęn mang ý nghĩa tượng trưng; nhưng những hěnh ảnh tượng trưng của thời cổ cũng bị mất, bởi vậy con người thời kỳ lịch sử gần như sống với những khái niệm câm vŕ mů lňa.
Có thể đánh dấu trạng thái cổ của sự sống bằng các khái niệm như: sự thống nhất của kiến thức vŕ těnh yęu thương: lŕ hěnh ảnh trái tim bốc lửa. Nhưng thời điểm thức tỉnh lŕ lúc đă không cňn sự sống, chỉ cňn đời sống.
Vŕ trạng thái đời sống nŕy một lần nữa chỉ có thể diễn đạt một cách thiết thực, hai chiều bằng hai từ: sự sợ hăi vŕ sự đau khổ. Thống nhất hai từ nŕy lŕ một sự bất lực. Tại sao? Bởi vě nơi hai từ nŕy gặp gỡ nhau nằm xa khung diễn giải của ngôn ngữ ngŕy nay, bởi vě sự diễn giải muốn đời sống dính mắc trong cội rễ của nó, nhưng trong trạng thái của đời sống, ngôn ngữ đă không bao giờ có thể gắn bó trong cội rễ của nó được nữa.
Giáo huấn Sankhja bắt đầu bằng câu: đời sống lŕ đau khổ. Đạo Phật cũng nói đúng như thế. Nhưng bằng sự đau khổ cả Sankhja lẫn đạo Phật đều muốn nói lęn sự hợp nhất của sợ hăi vŕ đau khổ, vŕ từ đau khổ thường xuyęn được sử dụng.
Một đối thoại của Hermes Trismegistos, khi nói về trạng thái cổ vŕ thời kỳ sa ngă của con người có nói: sự run sợ -phobosz đă tóm lấy Tạo Hóa. Sự sợ hăi nŕy lŕ một trạng thái ban đầu cổ xưa đến mức từ đây theo nhiều nghi chép Ấn cổ Atman sở dĩ tạo ra thế giới bởi vě” sợ một měnh”.
Böhme, người mŕ trực giác huyền bí khó có thể lầm trong lời giải thích viết cho Genezis đă viết về hai bản năng của Tạo Hóa. hai bản năng đó lŕ:” Y chí cứng như đá” vŕ „Niềm vui tự do”. Hai bản năng nŕy, Böhme nói thổi bůng lęn đam mę hướng về nhau, vŕ trong khoảnh khắc, khi cả hai chạm vŕo nhau” Sự run rẩy nổ toang”(Schrack) như khi chớp giật.
” Trong sự khủng khiếp nŕy ngọn lửa đầu tięn nhóm lęn. Bởi ý chí cứng như đá không lŕ gě khác ngoŕibóng tối vŕ sự đông cứng, giờ đây từ ánh sáng vŕ từ sự mềm mại bao bọc của niềm vui tự do, nó run lęn. Trong ý chí cứng như đá, khi trong chính bản thân nó tự bóp ngạt tính ích kỷ lạnh lůng đóng băng vŕ khóa trái bản thân nó lại, ghę sợ của cái chết nhen nhúm. Bởi bản chất của bóng tối lŕ sự ghę sợ; Như vậy nó tự kěm hăm nó vŕo bản thân nó, như nỗi losợ ánh sáng, như kẻ thů của ánh sáng. Vŕ đây lŕ trạng thái cổ của thế giới tối tăm, đây lŕ bản thân thế giới tối tăm.”
Nỗi sợ hăi, phobosz,Schreck mŕ szmti của Ấn độ, hay Hermes vŕ Böhme nhắc đến lŕ nỗi sợ hăi từ sự đau khổ; Sự đau khổ mŕ Phật vŕ Sankhja nói đến lŕ sự đau khổ bởi sợ hăi. Cả hai lŕ một, sợ hăi lŕ đau khổ vŕ đau khổ lŕ sợ hăi.Mọi sự sống trần thế đều đau khổ; nhưng mọi sự sống trần thế đều lŕ sự sợ hăi.
Đây lŕ trạng thái của đời sống. Con người run rẩy vŕ đau đớn, růng měnh, lo âu trong trạng thái thức tỉnh từ bóng tối đi ra, trong những tia nắng đầu tięn của sự sáng sủa.
” Sự sợ hăi- Böhme nói -lŕ một dạng của sự nhậy cảm, lŕ kẻ đánh thức tâm trạng, lŕ một cái gě đó thôi thúc cảm giác hoạt động.”
Sự sợ hăi vŕ sự đau khổ thực ra lŕ một dấu hiệu mơ hồ đầu tięn của sự tỉnh táo. Đau khổ vŕ sợ hăi xuất hiện để con người đừng rơi vŕo sự tăm tối,cái chết vŕ sự quęn lăng một lần nữa: tất cả mọi người cần phải đau khổ vŕ sợ, để thức tỉnh.
Đây lŕ trạng thái thức tỉnh. Linh hồn đóng băng, tăm tối, biến thŕnh mŕn đęm, biến thŕnh đá trong sự sợ hăi vŕ trong đau khổ trưởng thŕnh vŕ vỡ tan, để sự sống một lần nữa mở ra.
Sợ hăi vŕ đau khổ mang hai ý nghĩa vŕ có hai mặt; bởi vậy nó cũng có thể khóa lại cũng như có thể mở ra: nó có thể mang lại tự do cũng như mang đến một ngục tů tăm tối. Trong sự thức tỉnh linh hồn có thể thŕnh vật thí nghiệm cho hai hướng: ánh sáng- sự quay lại trạng thái cổ, hoặc bóng tối-sự rơi xuống vật chất.
Nhưng trong thế giới nó đang sống, hoŕn cảnh của nó dễ hơn: ánh sáng vŕ bóng tối đứng rięng, âm vŕ dương, như người Trung quốc hay nói đęm vŕ ngŕy, můa đông vŕ můa hč, sự tỉnh táo vŕ sự đờ đẫn.
Sự sợ hăi vŕ đau khổ khiến linh hồn con người từ những nhậy cảm cơ bản biết quyết định vŕ tham dự. Con người không hiểu nỗi sợ hăi vŕ sự đau khổ. Người ta tránh nó, mŕ không nhận ra rằng khi lẩn tránh thực ra họ tự khóa họ vŕo nỗi sợ hăi vŕ sự tối tăm. Người nŕo sợ hăi vŕ đau khổ, người đó cůng lúc gọi luôn cả sự minh bạch của trạng thái cổ vŕ vương quốc tối tăm của sự quęn lăng. Người nŕo bảo tồn sự nhậy cảm về nỗi sợ hăi vŕ sự đau khổ trong bản thân, người đó đang đi về phía ánh sáng; người nŕo khóa nó lại trong bản thân, người đó cho phép lời mời chŕo của vật chất vŕ bị khóa vŕo tăm tối. Cần phải sợ hăi vŕ đau khổ: bằng sợ hăi vŕ đau khổ con người gánh vác số phận của linh hồn vŕ nhận lời mời gọi tiến lęn phía trước.
Những hậu quả tâm lý của nỗi sợ hăi vŕ sự đau khổ lŕ vô tận: sự sợ hăi vŕ sự đau khổ quyết định toŕn bộ đời sống của con người sống trong thięn nhięn vật chất. Mọi biểu hiện của sự trốn tránh, cởi mở, chân thŕnh, dối trá, sự đảm bảo, sự quyết định, sự dũng cảm hay hčn nhát đều từ sự sợ hăi vŕ sự đau khổ mŕ ra, vŕ không bao thắng được nó hoŕn toŕn.
4
Bến đỗ thứ tư: Sự lặp lại
Có thể nhận biết ra sự lặp lại ở những biểu hiện bęn ngoŕi của con người hiện đại. Người ta đều biết thực thể người trong tử cung của người mẹ phải trải qua những biến thái bí ẩn,vŕ họ hiểu được ý nghĩa của những điều bí ẩn nŕy: con người cá nhân lặp lại con đường giống nňi của nhân loại.
Người ta gọi sự lặp lại nŕy lŕ sự phát triển, như thể con người đang đi tręn con đường hoŕn thiện, vŕ ngŕy cŕng hoŕn thiện.
Tất nhięn không có sự phát triển nŕo ở đây cả.
Con người trải qua từng mức độ của sự thức tỉnh, vŕ khi được sinh ra, nó không trở nęn độc lập vŕ chỉ tiếp tục sự lặp lại. Khi nó lặp lại không có nghĩa lŕ đời sống của lượng đông đảo vĩ đại của nhân loại thęm một mức độ, một cấp bậc mới, thực ra sự lặp lại không lŕ gě khác ngoŕi sự nhắc lại của những cấp độ trước của con người một lần nữa.
Nhưng sự lặp lại nŕy không chỉ ở bęn ngoŕi. Từ nền tảng một vŕi nhận thức mới của tâm lý học hiện đại, con người ngŕy nay bắt đầu hiểu, sự lặp lại các mức độ đời sống trước nó không chỉ trong hěnh dạng sinh học, mŕ sự bí ẩn của quá trěnh biến thái lŕ một quá trěnh bęn trong.
Con người trong tử cung trải qua những bến đỗ mơ hồ của đời sống như trong giấc mộng- qua những cơ cấu động vật học của sự sống, như hěnh ảnh tượng trưng của sự luân hồi. Khi con người sinh ra, đấy lŕ khoảnh khắc của sự thức tỉnh: khi linh hồn con người ngoan ngoăn nghe theo tiếng gọi bước ra ánh sáng mặt trời.
Đấy lŕ sự tạo dựng Adam. Khi con người được sinh ra, sự sáng sủa tách ra khỏi bóng tối. Vŕ con người tiếp tục lặp lại. Trong thời thơ ấu nó nhắc lại những cử động, thói quen, ngŕnh nghề của các thế hệ cổ xưa; bé trai chơi trň đánh trận, lŕm ông bố trong gia đěnh, đóng vai tướng cướp, thủ lĩnh; bé gái giả nấu ăn, chơi búp bę, khâu vá, đẩy xe nôi.
Trň chơi không phải sự chuẩn bị cho những vai trň xă hội quan trọng như người ta nghĩ; linh hồn lặp đi lặp lại một cách vô thức những hoạt động đă hằn sâu trong linh hồn. Thực thể người cá nhân sao chép lại những hoạt động của con người vĩnh cửu tręn đường đi của con người vĩnh cửu.
Vŕ loŕi người, rất hăn hữu, có thể nói trừ một vŕi ngoại lệ, không bao giờ biến thŕnh chủ thể, không bao giờ bước ra khỏi sự lặp lại, không bao giờ lŕm gě khác ngoŕi việc lặp lại một lần nữa những lý tưởng, tư tưởng, cảm xúc, hŕnh vi, quan điểm của những thế hệ đă sống trước nó.
Những quá trěnh thức tỉnh có hiệu quả trong thời cổ luôn được diễn ra để đánh thức con người vŕ nâng họ lęn sự sống chủ động. Đấy lŕ những quá trěnh nhập định. Với nhân loại loŕi người chưa xảy ra quá trěnh nŕy.
Nhân loại từ sau khi thời cổ biến mất đứng dẫm chân tại một chỗ: không lŕm gě hết ngoŕi việc nhắc lại, lặp lại. Nhắc lại, lặp lại những bến đỗ dân tộc, loŕi giống, giới tính, quốc gia, ngôn ngữ, tư tưởng: chưa bao giờ nghĩ ra điều gě khác, xúc cảm khác, phát ngôn khác ngoŕi những điều cả trăm nghěn thế hệ trước đă phát ngôn, cảm xúc, suy nghĩ.
Chưa bao giờ linh hồn cá thể tuyęn ngôn một lần duy nhất, đạt đến một lần duy nhất một nhiệm vụ, một quá trěnh cá nhân hóa, một sự sao chép bản sao Thượng đế vượt quá sự lặp lại, trước khi một lần nữa bước qua ngưỡng của của cái chết. Nhiều người không đạt tới hết các mức độ của nhân loại vũ trụ- không lặp lại nổi toŕn bộ con đường, không sống hết toŕn bộ các biến thái của con người.
Kinh Thánh đă nói rất rő về điều nŕy: về con người được giao cho nhiệm vụ cất giữ vŕ bảo vệ tiền – đấy lŕ con người cả cuộc đời không lŕm gě khác ngoŕi việc lặp lại những gě loŕi người đă nhận được.; đấy lŕ con người đă biết nhân đôi số tiền được trao giữ- lŕ con người bằng sự sống đặc thů của nhân loại đă lŕm giŕu có, mở rộng, soi sáng vŕ nâng cao cái chủ thể vĩnh cửu trong hŕnh động hoặc trong tác phẩm.
„ Con người- Baader nói- cần trở thŕnh hěnh ảnh đích thực của Thượng đế, như hěnh ảnh tượng trưng của Thượng đế tự nhięn. Trong mọi sự vật, sự việc, cá nhân, thực thể cần phải lặp lại, nhắc lại cho đến khi điều nŕy con người vĩnh cữu thực hiện được trong bản thân měnh.”
Con người không thức tỉnh để trở thŕnh sự lặp lại của sự sống vũ trụ, mŕ để hiện thực hóa Con Người Trời cổ trong một dáng hěnh nŕo đó.
Sau khi thức tỉnh có hai con đường mở ra trước mặt con người: lang thang vật vờ vŕ thức tỉnh. Lang thang vật vờ vô hướng; sự đờ đẫn mę muội từ mơ hồ quęn lăng chứa bęn trong nó một sức mạnh không biết gě hơn ngoŕi việc lặp đi lặp lại như một thực hŕnh những âm điệu đă xảy ra trước sự sống.
Trạng thái lang thang vật vờ lŕ trạng thái vô luật. Lŕ sự nhầm lẫn vật vờ. Kinh Veda gọi lŕ luân hồi (szamszara). Con người sống trong sự đờ đẫn vật vờ: nó lang thang trong sự rối loạn vô nghĩa, nửa tỉnh nửa mę, bám víu,yếu ớt, mů quáng, không biết gě hơn chỉ lặp lại những mức độ đă sống qua hŕng trăm nghěn lần của sự sống-
Cňn thức tỉnh lŕ con đường thứ hai, con đường tỉnh giấc. Đây lŕ con đường của ánh sáng, lŕ trạng thái đúng luật. Đây lŕ vidja.
Con người tỉnh táo biết rằng, nó cần phải trải qua toŕn bộ quá trěnh biến thái, tự nó. Cần tự trải qua nỗi sợ hăi vŕ sự đau khổ, để tự giải phóng nó vŕ sau rốt tự nó cất lời. Khi nó hoŕn thŕnh hŕng hŕng loạt sự lặp lại, nó bước ra khỏi luân hồi. Nó vẫn cňn tręn quả đất, vẫn lŕ con người, nhưng không phải lŕ kẻ vật vờ nữa, mŕ lŕ một người hŕnh hương, người đang bước tręn con đường đi về phía Người Trời.
5
Bến đỗ thứ năm: Bóng tối bęn ngoŕi.
Saint-Martin nói:” Nói đúng ra thế giới bęn kia không bao giờ rời khỏi”.
Mối quan hệ với Người Trời ở mỗi người chưa bao giờ đứt đoạn hoŕn toŕn. Tất cả các bến đỗ của con người đều tręn con đường của Con người Vĩnh cửu, nhiệm vụ không thể nói bằng lời, hay trong hěnh ảnh. Số phận của tất cả mọi người đều đi đến sự lặp lại vŕ đều đồng nhất: không ngoại lệ, tất cả mọi người đều trải qua trạng thái cổ, đều sống qua sự lao xuống vŕ đều thức tỉnh, đều cần phải nhắc lại con đường của Con người Vĩnh cửu.
Nhưng giờ đây con đường chia đôi. Trong trường học của Pitago truyền thuyết Heracles được biểu tượng bằng chữ Y. Phần dưới của chữ Y lŕ con đường chung, dŕnh cho tất cả mọi người đều giống nhau. Nhưng điểm giữa nơi chữ Y chia lŕm hai ngả, Heracles lŕ con đường đă lựa chọn.
Cần lựa chọn giữa sự vật vờ lang thang vŕ sự thức tỉnh. Giữa con đường” hẹp” vŕ con đường”rộng”. Con đường”hẹp” tự gỡ từ nó những lớp chăn phủ maja, tính sổ với các giác quan, với manas, với cái TÔI, với buddhi, vŕ quay về với Atman.
Con đường”rộng” đi về phía khác: chěm vŕo các giác quan, vŕo cái TÔI, các đam mę, các hěnh ảnh giấc mộng, các ảo ảnh. Đấy lŕ sự chěm đắm vŕo bóng tối bęn ngoŕi: sự lầm lẫn sau cůng, sự đờ đẫn sau cůng, dưới bản án không thể chuộc lại của bản thân họ. Bởi vậy sách thięng đă nói, kẻ nŕo bị dẫn dắt đến sự tăm tối bęn ngoŕi, sẽ hối cải tại đáy địa ngục: không bao giờ quay lại nơi sinh ra của linh hồn, quay lại ánh sáng.
Ở đây cần lưu ý đến một sự nhầm lẫn cơ bản của con người hiện đại. Sự nhầm lẫn nŕy lŕ bęn trong của viparjaja; Viparjaja có nghĩa lŕ sự lộn ngược ý nghĩa gốc gác của quan điểm.
Con người lịch sử lộn ngược ý nghĩa gốc rễ của quan điểm khi cho rằng thị giác đầu tięn vŕ tất nhięn có hướng”quay ra ngoŕi”, chỉ dưới tác động của các hạn chế bęn ngoŕi con người mới bắt đầu quay vŕo trong.
Đánh tan sự nhầm lẫn nŕy không đơn giản.
Thực ra điểm bắt đầu lŕ sự tách rời thế giới bęn ngoŕi vŕ bęn trong không lŕ gě khác ngoŕi kết cấu gương thô thiển nhất. Cái giới hạn cực đoan của sự mů lňa nhận thức của con người xảy ra khi kiến thức về thế giới”bęn trong” hoŕn toŕn bị đánh mất, vŕ chỉ có khả năng coi nó lŕ đối kháng „bęn ngoŕi” Trong thực tế bęn trong vŕ bęn ngoŕi ở ý nghĩa đó không tồn tại.
Con người lịch sử từ phương pháp thực hŕnh muốn đặt tęn cái thế giới giác quan vŕ vô hěnh với niềm tin rằng cái thế giới tinh thần- linh hồn vô hěnh nŕy nằm bęn trong con người, như một bộ phận hoặc một tế bŕo, vŕ lŕ đối kháng của thế giới hữu hěnh.
Truyền thống khi gợi lęn sự phân biệt nŕy, trong mọi trường hợp lŕ hěnh ảnh tượng trưng, cần phải hiểu trong thế giới” bęn trong” lŕ cảnh giới của người trời, của sự hướng về cái TÔI thượng đế( Atman), lŕ thế giới sięu nhięn vượt tręn cả giác quan vŕ thięn nhięn- cňn thế giới „bęn ngoŕi” lŕ thế giới vật chất nặng nề thô thiển nằm trái ngược với Atman.
Từ sự phân biệt nŕy của truyền thống tất nhięn điều tiếp theo lŕ thế giới linh hồn-tinh thần không chỉ lŕ đầu tięn, trước nhất, cơ bản mŕ cňn lŕ thế giới của ánh sáng, của thượng đế, của cái TÔI thượng đế của tạo hóa cổ.
Vŕ từ đó tất nhięn điều tiếp theo lŕ quan điểm vŕ thấu giác cơ bản đầu tięn của con người hướng „vŕo trong” vŕ ở”bęn trong”. Việc quay ra bęn ngoŕi trůng với sự”phạm tội”, với quá trěnh vật chất hóa, quá trěnh rớt từ thế giới tinh thần.
Quay ra ngoŕi, con người rất muộn mằn mới bắt đầu nhận ra, vŕ nhận thức nŕy bắt đầu xuất hiện trong sự tiếp nối của ức chế tai hại ngăn cản nhận thức quay „vŕo trong”. Khi linh hồn con người bắt đầu nhěn ra ngoŕi, thực ra lúc đó nó nhěn ngược với hướng của tinh thần: nó quay về phía tự nhięn vật chất, về thế giới thô thiển vŕ nặng nề- về phía tối tăm.
Đến đây cần nhắc lại, không chỉ lŕ vấn đề nhận thức.
Cần hiểu từ nhận thức đầu tięn, nhận thức cổ truyền thống muốn nói đến trạng thái cổ, sự yęn běnh ęm ả, đến thięn đường, đến sự thống nhất giữa těnh thương vŕ sự hiểu biết, đến Adam Kadmon, chúa tể chói lňa của thế giới.
Khi con người quay ra ngoŕi, bản chất nŕy của nó lŕ kết quả của sự tăm tối hóa; Sự lu mờ, mơ hồ bęn trong xuất hiện trong quá trěnh quay ra ngoŕi: linh hồn đánh mất ánh sáng của chính nó, trở nęn tăm tối, vŕ sự sờ soạng trong bóng tối nŕy được đặt tęn lŕ nhận thức” bęn ngoŕi”.
Quay ra ngoŕi không lŕ gě khác ngoŕi việc mất ánh sáng bęn trong; mất ánh sáng bęn trong không lŕ gě khác ngoŕi việc tách xa Người Trời.
”Nhận thức của con người thiếu ánh sáng thượng đế không thấy gě khác ngoŕi những sự vật của thế giới bęn ngoŕi, vŕ nó cŕng tách biệt với sự cao cả bao nhięu nhận thức vŕ thấu giác của nó quay về bản thân cŕng bị khóa lại bấy nhięu.”
Bởi vậy”cái bęn ngoŕi” không phải lŕ linh hồn, lŕ thięn nhięn, lŕ vật chất, lŕ hiện thực, mŕ cái bęn ngoŕi chính lŕ: bóng tối.
Ở Tây Tạng người ta gọi bięn giới giữa ánh sáng bęn ngoŕi vŕ bęn trong lŕ csösznjid-maba. Ánh sáng bęn ngoŕi không lŕ gě khác ngoŕi lŕ hěnh ảnh tượng trưng bęn trong. Nếu mối quan hệ của con người đứt đoạn với thế giới bęn trong, thế giới bęn ngoŕi của nó rơi vŕo tăm tối. Mối quan hệ nŕy mất đi nếu con người cắt đứt với ánh sáng thượng đế vŕ dẫn dắt con đường của měnh đi ra bęn ngoŕi.
Dấu hiệu của điều nŕy lŕ kỷ niệm cội rễ của thượng đế trong nó đă tắt. Cái TÔI chiếm lĩnh sự thống trị nó. Đây lŕ sự lặp lại của tội tổ tông. Đây lŕ sự kięu ngạo. „ Kẻ nŕo kięu ngạo kẻ đó để Quyền lực cắt đứt con người khỏi gốc rễ của nó”. Vŕ khi con người cắt đứt chính nó, nó yếu ớt rơi rụng.
Cái tęn Aton ở Ai cập nghĩa lŕ: Mặt trời Bęn Trong. Cái tęn Szét nghĩa lŕ: bóng tối bęn ngoŕi. Ý nghĩa của truyền thuyết Oziris: kẻ nŕo quay ra phía ngoŕi kẻ đó bị bóng tối giết chết.
Những người theo trường phái Hermetikus hiểu biết về những đęm nhỏ vŕ lớn. Đęm nhỏ lŕ nơi từ đó con người sinh ra, nhỏ bởi nó mang khả năng bước ra: được sinh ra. Cňn đęm lớn lŕ nơi đời sống của nó sẽ rơi vŕo sau cái chết của một linh hồn sống vô nghĩa.
Đây lŕ bóng tối bęn ngoŕi, khi đứt đoạn với cái bęn trong, nghĩa lŕ đứt đoạn với thế giới bęn kia, với trạng thái cổ. Linh hồn cũng biến thŕnh cái bęn ngoŕi: thŕnh đồ vật, sự vật vŕ trở thŕnh kẻ như những người theo phái Scientifista nói: thŕnh phản xạ, thŕnh bộ máy. Thŕnh bóng ma.
” Một dạng của nhận thức, không bước qua khỏi những giác quan động vật, một sự sống người bị cách mạng hóa: tuột dốc…Loại người nŕy lŕ sự tha hóa trầm trọng nhất của tri thức.” Con người hoŕn toŕn sống trong „những hěnh ảnh của sự tối tăm rięng biệt của nó”. Không bao giờ cňn mang tính thượng đế nữa, chỉ lŕ cái TÔI hung tợn.
Ở Iran Ahriman lŕ vương quốc của sự tối tăm tạo dựng thế giới Mâu thuẫn tối tăm đối nghịch với thế giới ánh sáng. Cư dân ở thế giới nŕy lŕ Drug- drug có nghĩa lŕ” người khác” một kẻ” không phải kẻ đó”.
Sự tối tăm không lŕ gě khác ngoŕi” Sự vô công rồi nghề vũ lực”- luôn luôn nỗ lực để những hoạt động của con người chết cứng lại giữa những hạn chế không được giải tỏa.
Sự tăm tối bęn ngoŕi lŕ vị trí cuối cůng của con đường của con người. Khi” nhận thức tăm tối cho rằng thế giới bęn ngoŕi lŕ hiện thực duy nhất.” vŕ nó sống trong sự tăm tối bęn ngoŕi.
Vị trí của con người lịch sử đang ở tận cůng, bởi nó khiến sự tăm tối bęn ngoŕi nŕy trở thŕnh phổ biến.” Bởi con người bęn ngoŕi đang bị tięu diệt, trong khi con người bęn trong đổi mới vŕ phục sinh”
Kẻ nŕo đặt bản chất của měnh vŕo thế giới bęn ngoŕi, lŕ đặt měnh vŕo sự tăm tối của cái chết vŕ sự quęn lăng. Cái bęn ngoŕi tăm tối nghĩa lŕ như vậy.
6.
Bến đỗ thứ sáu: Sự giải phóng.
Sự giải phóng dŕnh cho tất cả mọi người, những ai thức tỉnh từ sự quęn lăng vật chất, đây lŕ một bí ẩn mở.
Bởi vě con đường quay lại Người Trời nŕy không đồng nhất với con đường của sự đứt đoạn với con người vũ trụ; vŕ linh hồn, khi quay lại một cách đă được giải phóng, không quay lại vị trí cũ.
Con đường của sự giải phóng cũng tương tự như con đường của sự đứt đoạn, nhưng lại không đồng nhất; linh hồn, khi quay lại đúng vị trí gốc rễ của nó, đúng vị trí đó nhưng đồng thời không phải vị trí đó.
Đây lŕ sự huyền diệu mŕ ý nghĩa của nó lŕ: linh hồn lŕ vị vương trẻ tuổi được vua cha giŕ nua gửi vŕo trần thế để học hỏi, vŕ khi vương tử trẻ tuổi nŕy học xong trường học trần thế, quay trở lại đảm nhận ngai vŕng của měnh (kinh Veda). Tất nhięn đây lŕ hěnh ảnh tượng trưng.
Sự giải phóng, sau khi đă thức tỉnh lŕ sự cập bến đến đích; nhưng cůng lúc dường như không có gě xảy ra, chỉ vě những ảo ảnh rięng tư đă lŕm đui mů linh hồn, vŕ mang lại những giấc mộng: thế gian, cái TÔI,nhân loại,đời sống, lịch sử, sự ra đời, těnh yęu, bệnh tật, cái chết- nhưng khi những hěnh ảnh mộng nŕy tan biến, linh hồn được giải phóng khỏi sự quyến rũ của những hěnh ảnh in dấu ấn vŕ ngây ngất nŕy.
Sự giải phóng lŕ một bí ẩn huyền diệu trong đó ẩn dấu vŕ tồn tại bí mật nŕy:con người từ đâu vŕ cái gě được giải phóng, vŕ kết quả của sự giải phóng nŕy lŕ gě.
Cần phải gọi lŕ sự giải phóng bởi vě: giải phóng khỏi thân xác, nhŕ tů của linh hồn phải sống một đời sống sợ hăi vŕ đau khổ trong thế gian vật chất; giải phóng khỏi những ảo ảnh mŕ sự đờ đẫn cứ tưởng đấy lŕ hiện thực.
Sự giải phóng lŕ bến đỗ cuối cůng của các biến thái linh hồn con người: nếu con người biết sử dụng đúng đắn sự thức tỉnh của měnh, sẽ không bị chěm đắm vŕo bóng tối bęn ngoŕi- sẽ được giải phóng.
Mục đích: Trở lại thŕnh con người Thượng đế, Người Trời- lŕ Atman- lŕ linh hồn cổ. Con đường: Sự nhập định.
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung
( Budapest 2012.03.09)