Hamvas Béla: Kiengesztelődés
Hamvas Béla:
Sự ḥa giải
( Trích tác
phẩm Patmosz II)
Cách tư duy đáng tin cậy cần xuất phát
từ hiện tại. Nhưng trong thực tế hiện
tại lại không đủ. Đấy mới chỉ là
chủ nghĩa t́nh huống. Điều khiến tư duy
hiện đại trở nên có ư nghĩa, là nó ứng
dụng được kích thước của con
người mang tính chất vũ trụ vào thời hiện
tại. Chỉ như vậy mới có thể đo
được hiện tại.
Phép đo ở đây là truyền thống, hay nói cách
khác là những cuốn sách cổ thiêng liêng. Nhưng phép
tranh biện này, bắt đầu có cách đây hai -
đến năm ngh́n năm, giờ đă chấm dứt.
Bởi kích thước của các sự vật không
phải là con người.
Kích thước của các sự vật là tri
thức về sự tồn tại của nhân loại,
luôn luôn đă từng có, ngày nay cũng vẫn đang có,
nhưng đối với số đông nó đă bị chôn
vùi, và không thể thực hiện, như Böhme và Guénon tuyên
bố, về điều này chỉ c̣n một vài cộng
đồng thu hẹp, đơn độc biết
đến.
Kích thước này, như một hành vi b́nh
thường, có trong tất cả mọi con người;
người ta gọi nó là quan điểm cơ bản.
Sự căng thẳng đặc thù duy nhất của
tư duy hiện đại ở Châu Âu là con người
thử ư thức hóa và sắp xếp lại quan
điểm cơ bản.
Cái ǵ là cái đă lỗi thời?
Trước tiên một lối tư duy đă lỗi
thời, rằng: có thể t́m ra một trật tự
để điều chỉnh hóa đời sống
người, tạo ra một đời sống mới,
tạo ra văn hóa mới, thay đổi lịch sử,
có thể nghĩ ra một tôn giáo mới, xă hội mới,
triết học mới.
Trong tất cả những điều này, cùng
lắm người ta xây dựng được một
hệ thống, nhưng chúng ta đều biết, không có
hệ thống đúng. Tất cả mọi hệ
thống đều không có hiệu lực. Không thể
tự nghĩ ra một trật tự, bởi mọi cái
ở mọi nơi, mọi thời gian đều đă
có sẵn và vẫn như thế, cùng với thế gian và
sự sống. Trật tự của truyền thống là
tiền hiện sinh, nghĩa là cái mở đầu của
cái bắt đầu, và xuất phát từ những ư
tưởng về một trật tự.
Một đẳng cấp- quyền lực đă
lỗi thời, dù là của giới tăng lữ, kỵ
sĩ, thị dân, công nhân cùng với những sắp
đặt đời sống đi kèm theo nó; bởi v́ con
người không sống trong một thứ tập thể
ảo vọng huyễn hoặc mà trong đẳng cấp
mang tính xă hội, luôn luôn con người sống như
vậy, và mọi tầng lớp người đều
cần phải tham gia vào sự giữ ǵn trạng thái
tỉnh táo của trật tự cộng đồng.
Quyền lực một đẳng cấp không tốt. Cho
dù bất kỳ đẳng cấp nào thực hành
điều này. Nhưng sự phi đẳng cấp c̣n
tồi tệ hơn.
Đă lỗi thời khái niệm về dân tộc,
quốc gia, ṇi giống như một cộng đồng
mang khả năng đời sống, bởi hạt nhân
của nó là mầm mống của sự ganh đua,
hỗn loạn, của sự ghen tỵ và xung đột,
của nỗi dương dương tự đắc ngu
xuẩn , của âm mưu và sự dối trá.
Đă lỗi thời khái niệm chính trị; chính
trị không c̣n cân bằng hóa những lực lượng
đối kháng trong sự thù hận giữa các
đẳng cấp và dân chúng, mà thúc đẩy và duy tŕ
trạng thái này.
Đă lỗi thời (cái gọi là) tôn giáo, bởi tôn
giáo dựng lên một cộng đồng chia rẽ và
đối kháng từ những khác biệt đức tin
tôn giáo; sự đa dạng của niềm tin không tạo
ra t́nh trạng hỗn loạn, mà là dấu hiệu của
sự giàu có tinh thần. Giới tăng lữ bán tôn giáo
cho quyền lực toàn trị, Giới kỵ sĩ bán
quyền lực cho tiền, giới thị dân bán sự trù
phú ph́ nhiêu của đất cho những mục tiêu
sống nghèo hèn và thấp kém; giai cấp vô sản,
được chứng minh là không hiệu quả trong
việc tạo ra một chế độ cụ thể,
không có khả năng nào khác ngoài việc thực hiện
những thử nghiệm đời sống thị dân c̣n
kém chất lượng hơn, thay thế cho sự
giải phóng rêu rao là mang lại một sự khủng
bố lao động và trạng thái nô lệ. (Con
người đánh mất sự trong sạch bản
chất trong một ngày, khi nó biến thành kẻ nô lệ.)
Đă lỗi thời (cái gọi là) khoa học, khi
khoa học không đáng tin cậy mà là hệ tư
tưởng của sự thực hành quyền lực toàn
trị; trước tiên mang tính thị dân sau đó mang tính vô
sản, chuyển tải những lư tưởng và công
cụ giúp đỡ sự thực hành bạo lực,
trở thành sự bóc lột nhân loại, một sự
dối lừa hiện thực dễ dàng hơn và có
hiệu quả hơn.
Kẻ thù ở đâu?
Kẻ thù chính là guồng máy. Không dễ dàng t́m ra.
Gần như tất cả mọi người đều
biết kẻ thù là thứ quyền lực hủy hoại
đời sống, chỉ v́ gần như tất cả
mọi người đều khổ sở v́ những
nguyên nhân giống hệt nhau. Nhưng phần lớn người
ta đi t́m nguyên nhân, t́m những điểm đen trong
kỹ thuật, trong nhà nước, kinh tế, trong khoa
học tự nhiên.
Guồng máy là một hệ thống phá hoại
sự sống tổng quát, bộc lộ trên mọi
lĩnh vực của sự sống người, trong
kỹ thuật, trong nhà nước, trong khoa học.
Đặc điểm của nó là sự phi cá nhân. Xuất
hiện như một trật tự sống, y như
một sự hợp lư mà ưu điểm của nó là
dễ thực hiện, bởi mang tính thực tiễn và có
ích. Xuất hiện như một sự thông minh tỉnh
táo, để làm nhẹ gánh nặng và đơn giản
hóa mọi sự vật. Một cách sai lầm và xuất
phát từ sự nông nổi người ta coi máy móc là
kẻ thù trong niềm tin: cái bản chất là sự máy móc
hóa.
Nhưng sự máy móc hóa là một quá tŕnh thuần túy
bên ngoài; guồng máy là sự phá vỡ đời sống.
Máy móc hóa là hệ quả của guồng máy. Là sự
tiến hóa của hoạt động bấm nút. Bởi
kỹ thuật không phải là một quan niệm tự
trị- đặc biệt trong h́nh thức hiện
đại, như kỹ thuật tên lửa và hạt nhân,
kỹ thuật do thám hay năo nhân tạo- mà là một công
cụ của guồng máy phá vỡ đời sống.
Lĩnh vực quyền lực mạnh nhất
của guồng máy cũng không phải là khoa học kỹ
thuật, đấy chỉ là sự hiện diện
nắm bắt được của h́nh ảnh cổ
về guồng máy; quyền lực lớn nhất của
nó là cơ quan hành chính (sự quan liêu). Các công ty công
nghiệp, ngân hàng, các tổ chức đảng, quốc
pḥng, khoa học. Nơi mà đời sống biến thành
sự tiến hóa vô cơ, nói đúng hơn nơi mà
guồng máy điều khiển con người.
Trước kia người ta không nhận biết
về guồng máy; những guồng máy lớn về tài
chính, quốc pḥng, chính trị xuất hiện sau chiến tranh
thế giới thứ II. Lúc đó guồng máy chưa hoàn
toàn là một hệ thống phá vỡ một cách hoàn
chỉnh đời sống tổng quát và thống nhất,
nhưng trong những năm sáu mươi (của thế
kỷ XX) mọi dấu hiệu của nó đă cho thấy
sự liên kết ma quỷ tăm tối đă phủ
ngập trái đất, và lan tràn khắp các lĩnh vực
của sự sống.
Điều quan trọng nhất, không c̣n nghi ngờ
ǵ nữa, là không ai làm ǵ cả, mà guồng máy đă
biến thành một quyền lực không chống
đỡ nổi, như người ta thường nói,
không phụ thuộc vào ư chí con người. Điều này
trong thời kỳ Đại Pháp Quan xảy ra như
một sự khởi đầu phù hợp của quá tŕnh
phá vỡ đời sống người. Đây là
khoảng thời gian của quyền lực tuyệt
đối mang tính chất tôn giáo (giới tăng lữ,
giáo sĩ) và tính chất chính trị. Từ đó
đến nay chủ nghĩa toàn trị, khoa học và
kỹ thuật được dựng lên- ba sự hợp
lư hóa đă hành chính hóa của guồng máy phá vỡ
đời sống.
Bởi v́ sự hoạt động của
Đại Pháp Quan lúc đầu chỉ là, nơi nào xuất
hiện ánh sáng, nó can thiệp và thổi tắt. C̣n
guồng máy thực hành một hệ thống trước
tiên ngăn cản sự hiện diện của ánh sáng,
của sự tỉnh táo, thậm chí t́m ra các công thức
để biểu dương sự tăm tối và
sự nô lệ, rồi tổ chức cả một
đội quân lư thuyết thống nhất chống
lại sự sống cụ thể và thực chất,
biến việc sắp đặt phá vỡ đời
sống thành sự bắt buộc dưới gánh nặng
của trạng thái đánh mất đời sống.
Kẻ nào đứng ngoài sự phá vỡ
đời sống, guồng máy không cho kẻ đó bánh
mỳ (miếng ăn). Thời kỳ Đại Pháp Quan
hư hỏng một cách đẹp đẽ, và tầng
lớp thị dân từ sự hư hỏng trần
tục này vẫn cố giữ ǵn một cái ǵ đó.
Nhưng sự hư hỏng mang tính chất toàn trị thuộc
về tầng lớp đi ở, tôi đ̣i. Ở kia con
người có thể là bất kỳ ai, c̣n ở đây
không là ai cả.
Con người thực hiện những lư
tưởng tất nhiên không phải do bản thân nó
nghĩ ra. Những ư tưởng dẫn dắt đời
sống chiếu rọi từ mức độ sự
sống, bởi vậy vô cùng hăn hữu xảy ra việc
những ư tưởng này chỉ duy nhất một con
người ngoại lệ nắm bắt; Về các ư
tưởng này phần lớn con người tự
nhận biết, cho dù ở những vị trí xa cách nhau,
hoàn toàn độc lập với nhau.
Platon đă từng nói đúng như vậy, khi nói
về các ư tưởng. Chúng ta nhận được các
lư tưởng tác động đến sự sống
người từ các mức độ sự sống cao
và đúng ra là rộng lớn hơn, và những ư
tưởng này điều khiển đời sống
của chúng ta. Bản chất thiên nhiên của chúng ta
thuần túy chỉ là một bộ phận thực
hiện những lư tưởng này trong cuộc đời
trần thế.
Con người chỉ quyết định tiếp
nhận sức mạnh nào vào bản thân ḿnh và thực
hiện các lư tưởng này ở mức độ nào. Bản
chất và đặc tính của sức mạnh không
thể thay đổi. Bởi vậy các hành động
tội ác, sự giết chóc, chiến tranh, xử bắn
người chống lại đời sống không
chỉ phi nghĩa, mà c̣n hoàn toàn vô nghĩa, bởi con
người đánh mất đời sống của nó v́
một hành động mà bản năng của hành
động ấy không có trong con người.
Bản thân đời sống vô tội, và không là ǵ
khác ngoài như mật, như kinh Vedanta đă nói. Ư
tưởng, tư tưởng, lư tưởng độc
lập với đời sống chiếu rọi vào con
người, và con người hành động từ
nguồn cảm hứng hoặc từ áp lực của
chúng. Đây là một trong những phần cơ bản
nhất của truyền thống; truyền thống
dạy rằng cần phải phân biệt các tư tưởng
và các lư tưởng từ chính chúng như thế nào, và
cần nhận biết ra chúng theo tính chất của chúng.
Đây là diakrizisz pneumatón, là sự phân biệt
của tinh thần, mà Kinh Thánh đă nhắc đến. Diakrizisz
pneumatón là tri thức của đẳng cấp tinh
thần, để con người biết tách biệt các
tinh thần có hại và có lợi ra từ lẫn nhau,
để tiếp nhận cái có lợi và đẩy ra xa
cái có hại. Khả năng của đẳng cấp tinh thần
này từ rất sớm, ngay từ thế kỷ thứ
hai sau Công nguyên đă bị đánh mất ở châu Âu, lư do
mất bởi châu Âu đă chấp nhận vào bản thân nó
các sức mạnh quyền lực của giới tăng
lữ, giáo chủ và mở ra trong bản thân nó một không
gian cho lư tưởng cai trị toàn cầu.
Từ đó tới nay con người ta sống trong
sự nhầm lẫn tuyệt đối của quan
điểm nhân học, rằng cái con người nói, làm,
tư duy, tuyên bố và thực hiện đều là phát
minh của cá nhân người. Ai từ mức độ
tinh thần đối kháng với nhau, đấy không bao
giờ là đối kháng của con người với con
người, mà là các tư tưởng đội lốt
người nhận từ tác động của các
sức mạnh cao hơn, và bởi vậy không cần
hủy diệt con người, mà cần nhận thức
ra một quá tŕnh mà bằng quá tŕnh ấy có thể và
cần vô hiệu hóa các tư tưởng có hại.
Guồng máy không xuất hiện từ con
người, mà nó là sự hiện thực hóa một tư
tưởng cao hơn. Guồng máy chưa bao giờ có
thể t́m thấy trong con người, và không ai có thể
đồng hóa bản thân với guồng máy trong mức
độ hoàn toàn. Chống lại các lư tưởng
được thực hiện từ những tác
động cao hơn bằng vũ lực là vô ích. Chỉ
có thể bằng tri thức brahman (đẳng
cấp tinh thần) mới có thể nhận ra cái sai, và
đánh thức cái đúng, và có khả năng vô hiệu hóa
cái sai.
Như Kinh Thánh đă dạy không được phép
chống lại cái xấu. Cuộc tranh đấu
chống lại cái xấu có hại, bởi dồn cái
xấu đến sự bảo vệ, và như vậy
củng cố, tăng cường thêm cái xấu. Đây là
tri thức của ông già Tolsztoj. Tri thức của Gandhi.
Không chống lại. Cần biến sức mạnh trong
sạch và tỉnh táo thành tia chiếu phù hợp đối
với cái xấu, và lúc đó cái xấu, cái có hại
sẽ biến mất (szatjagraha)
Cái đang xảy ra ngày hôm nay, ngược lại
hoàn toàn.
Con người không biết phân biệt các lư
tưởng từ chính chúng, họ đảm bảo
sự hoạt động tự do cho các sức mạnh có
hại, và các sức mạnh độc hại dày
đặc này biến thành sự tiến hóa lan truyền
khắp trái đất. Không có đẳng cấp tinh
thần, không có tri thức brahman. Những kiến
thức của các nhà sáng thế (gnostic) đă từng có,
bị mất hoàn toàn. Diakrizisz, tri thức tăng
lữ, giáo chủ, vô danh.
Có thể ḥa giải được chăng?
Nguyên nhân của vấn đề chính lại là
sự ḥa giải sớm. Ngày nay tôi không thừa nhận
bất kỳ một cộng đồng kiểu nào. Dân
tộc không, quốc gia không, giai cấp không, ṇi giống
không, tôn giáo không, thế giới quan không. Duy nhất
một cộng đồng mà tôi thừa nhận giá trị
của nó là cộng đồng của các Thánh, nhà thờ.
Sự hợp nhất của nhân loại nhân danh Thánh kinh.
Trở nên một ḿnh là điều điên rồ,
nhưng thà điên rồ c̣n hơn trở thành hư
hỏng. Giới giáo sĩ tăng lữ, quân nhân, ngành công
nghiệp lớn, ngân hàng, quốc gia, nhà nước,
trường đại học, chủ nghĩa xă hội, chủ
nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, thị dân
trần tục, thậm chí vô sản trần tục
dệt thành một guồng máy-phá vỡ đời
sống duy nhất, mà trong nó chúng ta ở trong t́nh trạng
chiến tranh liên tục. Là cái người ta gọi là
đấu tranh sinh tồn.
Tôi không thừa nhận thứ trật tự
đời sống này và tôi cho rằng nó vô luật. Chuẩn
bị chiến tranh là chuẩn bị giết. Hoặc
thỏa hiệp. Sự thỏa hiệp trong thực tế
là cách giải quyết của con người bạc
nhược, nếu không có bữa trưa, vài mẩu vụn
bánh cũng được. Kết quả là con
người được ḥa giải giả bộ, v́
một hưng phấn nhỏ nhoi chạy như điên
dại vào sự tan ră hư vô. C̣n lại là sự câm
lặng về tất cả, làm như thể chỉ là
một rối loạn tạm thời và tự an ủi
rằng thực ra lúc nào trong lịch sử chẳng
thế. Chống lại điều này duy nhất chỉ
có một hành vi có thể: phản kháng một cách
cương quyết nhất và không nhân nhượng
bất cứ điểm nào. Anathema-sự đáng
nguyền rủa.
Không có sự ḥa giải. Con người phải tóm
lấy toàn bộ sự thù hận của thế gian
để không cho phép nó lan tỏa, để nó không có
khả năng lan tỏa. Cần, tính nhân loại triệt
để của con người nổi lên trong sự thù
hận này. Sự giận giữ là sự ḥa giải
của tôi. Tôi không chịu đựng bất cứ sự
phá vỡ đời sống kiểu ǵ và ở đâu.
Điều kỳ diệu trên hiện trường
của nó-
Guồng máy là điều kỳ diệu. Hoàn toàn
phụ, khi người ta gọi nó là hiện thực. Ngày
nay, người ta nói, không có sự kỳ diệu. Nhưng
có đấy. Cái mà người ta gọi là hiện
thực, đấy là điều kỳ diệu. Nhưng
đây là điều kỳ diệu tầm thường.
Trong đó không có niềm tin? Có đấy chứ. Niềm
tin trong rác rưởi.
Guồng máy là điều kỳ diệu, bởi
điều kỳ diệu là con người b́nh
thường và có trật tự trong sự tồn tại
đích thực muốn lấy ra một phần của
cải của đời sống, phải tạo ra
những điều kiện và những hoàn cảnh
để đến gần hoặc không thể
đến gần những của cải ấy, hoặc lấy
được chút ít đi chăng nữa, cũng chỉ
có thể bằng cái giá của sự đê tiện.
Điều kỳ diệu bởi toàn những sự
ngược đời so với những ǵ con
người mong muốn thực hiện. Không c̣n nghi
ngờ ǵ nữa, sự bẩn thỉu và hư hỏng là
điều kỳ diệu, sự lầm lẫn, mù quáng,
sự bức bối, đồi phong bại tục,
sự hèn hạ, dối trá, sự tha hóa, các tội ác,
sự nhố nhăng không nghiêm chỉnh, sự vô nghĩa
là điều kỳ diệu, và là cái mà, cần nhắc
lại, người ta gọi là hiện thực.
Kỳ diệu, bởi cái thế gian này là sự
lộn ngược của những ǵ con người mong
mỏi, vậy mà nó vẫn tồn tại, trong ảo
ảnh được đề xướng, che dấu
hiện thực đích thực khiến người ta tan
ra và bị nuốt chửng trong phép thuật của nó.
Mọi giá đây là sự kỳ diệu, bởi con
người muốn sống một đời sống
nguyên vẹn, và họ đang sống trong sự phá vỡ
đời sống một cách hoàn toàn, thứ đời
sống không thể giải thích nổi. Đây là
điều kỳ diệu xấu. Chỉ trong nó mới có
thể nổi lên thứ tư tưởng: đấu tranh
sinh tồn. Bởi hiện thực là việc chăm chút
sự sống. Đấy mới là điều b́nh
thường. Và chỉ trong sự kỳ diệu xấu
mới chuẩn bị để giết hay để
thỏa hiệp, và lặng im trước tất cả
những điều này, và có thể dối trá.
Simone Weil từng nói: cái xấu là lúc người ta
nhổ đời sống ra khỏi cội rễ của
nó, và điều này ít-nhiều cũng như cái chết.
Cái xấu che phủ và làm mờ nhạt đời
sống, đầu độc đời sống, con
người trong cái xấu c̣n lại một ḿnh, không
điểm tựa, và diều đáng sợ nhất là linh
hồn họ không biết đến yêu thương và
từ bỏ yêu thương.
Nhưng như vậy vẫn c̣n ít. Trong cái xấu
không chỉ đời sống người bị hư
hoại thuần túy. Cả thế gian dội lại
sự xấu xa. Cái xấu tấn công sự tồn
tại. Và như vậy nó mang kích thước thế gian.
Cái xấu không phải tội ác, nó c̣n sâu sắc và có
quyền lực hơn thế. Cái xấu là sự phá
vỡ đời sống, chạm đến toàn bộ các
điểm của thế gian. Nó hút và làm đen tối
đi sự sáng tạo, tạo dựng, nó thử dập
tắt ánh sáng của toàn bộ sự sống.
Tôi không chống con người. Ḷng chân thật và
sự tỉnh táo trong tôi chống lại những quyền
lực đen tối của điều kỳ diệu
đang phá vỡ đời sống và nghiêm cấm sự
ḥa giải. Cần ḥa giải với con người. Con
người sống trong sự kỳ diệu của
ảo ảnh, và luôn luôn sẽ sống trong đó, trong
giấc ngủ nửa tỉnh nửa mơ của
điều kỳ diệu, không thể tỉnh giấc hoàn
toàn, chỉ brahman, thực thể tinh thần mới
thức tỉnh.
Kinh Thánh dạy sự ḥa giải với con
người đang sống, nhưng chưa bao giờ cho
phép sự phá vỡ đời sống, và coi đó là
một sự vô luật.
Thiên chúa giáo dạy ǵ?
Thiên chúa giáo không phải tôn giáo. Tôn giáo mang nguồn
gốc lịch sử và xă hội và tinh thần, cùng
với sự giáo điều, với tổ chức
tăng lữ và với các nghi thức. C̣n Thiên chúa giáo là
sự dạy dỗ về hành vi trong sự sống b́nh
thường.
Có một cách đối thoại biện chứng.
Như thể các hệ thống khép kín nói chuyện với
nhau. Phần lớn là tranh căi, bởi không hệ thống
nào biết từ bỏ sự khép kín của ḿnh. Tranh căi
về các vấn đề. Các lư thuyết chất
chồng và các hệ thống muốn loại trừ
lẫn nhau. Chứng minh và dẫn chứng. Con người
bồi đắp bản thân trong các lư thuyết và trong các
hệ thống. Ngôn ngữ trở thành logos biện
chứng, thực chất đứng ngoài con người.
Không phải con người nói chuyện với nhau mà là các
lư thuyết trừu tượng vật lộn với nhau.
Có một cách đối thoại hiện sinh, trong
đó không có hệ thống, không có các vấn đề
lẫn sự chứng minh, và cũng không có cả các câu
hỏi lư thuyết. Tôi đứng đối diện
với con người. Ngôn ngữ ở đây là logos
hiện sinh. Chúng ta đối diện với nhau, chúng ta
mở và hiểu được lẫn nhau. Chúng ta mở,
bằng ngôn từ của chúng ta soi sáng lẫn cho nhau. Cùng
nhau.
Jezus không bao giờ đối thoại với ai
một cách biện chứng và nói về các vấn
đề lư thuyết, Jezus không tranh luận, không chứng
minh, mà luôn luôn tiếp cận đến bản chất
của con người. Không phải các lư thuyết. Các
hệ thống pḥng thủ. Không phải các vấn
đề; không, không phạm tội hay vô tội. Ta đang
nói chuyện với mi, ta mở ḷng với mi, và mi hăy
mở ḷng với ta. Hăy tiếp nhận ta vào với mi,
như ta tiếp nhận mi vào với ta.
Kinh Thánh là Lời (logos) mang tính hiện sinh, không
dạy về các lư thuyết mà đối thoại với
con người, gọi con người.
Con người mở và đơn giản và
thẳng, trả lời tiếng gọi, và từ lúc đó
sự khép kín pḥng thủ bị tan chảy. Kinh Thánh gọi
logos hiện sinh là alétheia, hay c̣n gọi là sự
thật, bởi alétheia cùng lúc có nghĩa là sự
thật và sự lật tẩy. Kẻ nào mở, không
bị bao phủ, hay đă thức tỉnh, sau cùng kẻ
đó cũng là sự thật đúng. Kẻ nào khóa ḿnh
lại trước sự thức tỉnh, kẻ đó
không đối thoại mở và thẳng, thay vào đó các
lư thuyết bắt đầu lên tiếng, quan điểm,
vấn đề, câu hỏi, và bắt đầu tranh căi,
đó là kẻ biện chứng.
Thực thể hoàn toàn được chiếu sáng,
đă thức tỉnh, Kinh Thánh gọi là con trẻ. C̣n hành
vi biện chứng của sự khép kín là kẻ
đạo đức giả, kẻ nghe tiếng gọi
th́ giả vờ lặng im trốn tránh, và trả lời
bằng các lư thuyết, các điều kiện, kẻ
chỉ tranh luận và bảo vệ, và tách biệt, bởi
từ farizeus (perusim) tiếng Héber có nghĩa là sự
tách biệt.
Kẻ tách biệt đạo đức giả luôn
luôn t́m ra cớ để tách ḿnh ra, để không cần
cùng với bất kỳ ai, để xây dựng hệ
thống, hay đúng hơn là nhà tù, dù là một ṭa nhà hay
một nhà nước hoặc một lư thuyết, và khóa
ḿnh vào trong đó.
Kinh Thánh mời gọi con người trong hiện
sinh của con người, trong cái mang tính chất con
trẻ của nó, một sự trong trắng trong tất
cả mọi người, luôn luôn và giữa mọi hoàn
cảnh. Người nào mở, và trả lời,
người đó là aléthes, hay là người không che
đậy, là người đúng. Kẻ nào khóa bản thân
ḿnh lại, kẻ biện chứng, trong sự dối
lừa đời sống và c̣n lại một cách tách
biệt, một ḿnh, cho bản thân, từ chối lời
mời gọi. Kẻ nào trốn tránh trước lời
gọi mời, đến Jezus cũng chẳng thể nào
làm cho nó mở.
Lời (logos) hiện sinh ngày nay là thứ duy nhất
có thể làm tan chảy guồng máy. Trong tư
tưởng, trong nghệ thuật và nhất là trong
đối thoại sống động. Bởi từ
lời mời gọi, làm thức tỉnh tính chất con
trẻ trong sạch, bản chất thật sự của
con người (Theo Gúenon: état primordial, theo Böhme: Urstand),
và đây là con đường mở ra dẫn tới
việc quay trở về với quan điểm cơ
bản của sự sống. Sự thật (alétheia,
tính chất mở, thẳng) phá vỡ guồng máy.
Chúng ta cần làm ǵ?
Chúng ta không làm được ǵ khác ngoài việc
mở ḷng nghe lời mời gọi, và chúng ta tiếp
tục mời gọi. Chống lại điều kỳ
diệu thấp kém một cách dứt khoát, chính trực, rơ
ràng, giản dị, từ gốc rễ, trên mọi điểm,
không nhân nhượng. Không chống lại con người,
bởi trong mỗi con người đều tồn
tại một con người đích thực và bản
chất- al-insan al-kamil- như Sufi đă đặt tên,
đấy là một con người không thể tiêu
diệt trong bất kỳ sự hư hỏng nào, và không
một thế lực tăm tối nào ngăn cản
nổi sự thức tỉnh của nó.
Cần ḥa giải với con người. Bắt
buộc tha thứ và ḥa giải. Nhưng bất kỳ
một sự yên ḷng nào cũng không cho phép con người
tin vào sự hư hoại, và mơ hồ trong lư
tưởng của guồng máy, và làm như thể tất
cả đều ổn, để giữ bỏ sự
tối tăm và im lặng, thậm chí c̣n xây dựng lên các
lư thuyết để bảo vệ guồng máy.
Sự ḥa giải có nghĩa là ǵ?
Là bằng mọi giá không cho phép sự phá vỡ
đời sống. Không thể để mặc như
vậy. Điều đó có nghĩa là không bao giờ c̣n sợ
hăi nữa. Nổi giận với các thế lực phá
vỡ đời sống, thậm chí sự giận
giữ này cần tăng lên mỗi ngày. Nhưng cũng
cần ghi nhớ là sự phá vỡ đời sống này không
luân hồi. Toàn bộ là một sự bất ngờ và
tạm thời, một sự liều lĩnh không nghiêm
chỉnh và không thể duy tŕ lâu dài.
Guồng máy chỉ làm nổi một điều là
tiêu diệt nhân loại. Nhưng dù xảy ra bất kỳ
điều ǵ, t́nh yêu thương con người là bắt
buộc, như quyết định cần phải duy tŕ
sự phản kháng phi ḥa giải- chừng nào sự phá
vỡ đời sống vẫn tiếp diễn. Và khi con
người mở ḷng cho sự mời gọi, hay lẩn
tránh, nó tự phán xét chính bản thân nó.
Vào hồi kết thúc của mọi thời gian,
người ta nói, cái bắt đầu sẽ quay trở
lại.
Nguyễn
Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung
(
Budapest. 2014. augusztus 1.)