HAMVAS BÉLA

HAMVAS BÉLA

 

SỰ SỐNG VÀ ĐỜI SỐNG

(Trích tiểu luận triết học:Scientia sacra)

 

 

 

       1.

 

 

Khoảng thời gian sáu trăm năm trước công nguyên đă tách nhân loại ra thành thời hoàng kim và  thời khải huyền. Khoảng thời gian này là tấm mành che giữa sự sống mở và đời sống khép kín. Khi truyền thống nói về thời hoàng kim, cần nghĩ đến nhân loại trong sự sống mở; khi nói đến thời kỳ khải huyền, cần nghĩ đến sự sống này đă bị đánh mất, và nhân loại ch́m vào đời sống khép kín.

 

Thêm điều nữa vào yếu tố đơn giản này: đời sống khép kín không tự nó dừng lại. Nếu đời sống có thể đóng lại hoàn toàn, nó đă có thể chấm dứt; đă có thể không nhận từ trên cao không khí siêu h́nh bắt buộc cần thiết cho mọi đời sống. Chính v́ vậy sự sống mở luôn cần phải đột nhập vào đời sống khép kín; cần sự bất an, cần đưa ra những tín hiệu; luôn luôn cần thể hiện những hoạt động thường xuyên để đánh thức những kẻ mộng du.

 

Thế giới của sự sống mở là liên tục nhưng bí ẩn, và hành động khó hiểu nhất  của nó đối với sự mê muội là khi nó tuyên bố: bản án. Sự sống phán xử không ngừng đối với đời sống. Bản án treo trên đầu nhân loại thời kỳ khải huyền  là lúc con người mang trong ḿnh bản án này và trích dẫn nó bằng cuộc đời của họ. Thời hoàng kim là trạng thái cổ và tự nhiên của con người. Khải huyền không là ǵ khác ngoài yếu tố cuối cùng của tạo hóa, là lời phán xử với đời sống.

 

Để con người có thể hiểu được sự khác biệt về nhân loại thời hoàng kim và thời khải huyền, cần tiếp cận gần hơn một vài điểm của sự sống. Điểm quan trọng nhất: linh hồn.

 

 

       2.

 

 

Sự tỉnh táo mà chúng ta đă nhắc đến là một khái niệm siêu h́nh. Nằm trong mối quan hệ gắn bó nhất có thể với chủ thể thiêng liêng của thế gian, với cái Tôi thượng đế và bất tử. C̣n sự tỉnh táo bàn đến sau đây là một khái niệm tâm lư. Cần phải đặt tên như vậy bởi v́ không có từ khác.

 

Theo Irán truyền thống, có thể đánh dấu hai khái niệm chính xác bằng hai từ khác tách biệt hẳn nhau. Sự tỉnh táo siêu h́nh đă nhắc đến là csisti, là sự nhậy cảm cao độ của đời sống, là đặc tính và bản chất quan trọng nhất của cái Tôi thượng đế, là điểm nhảy vọt của sự chuyển biến.

 

Sự nhậy cảm tâm lư ngược lại: là zaéman; đây là trạng thái tâm hồn thức tỉnh của con người. Ở đây cần sự tách biệt, cần tách một cách dứt khoát, sắc gọn khái niệm tâm lư tỉnh ra khỏi phạm trù ư thức. Ư thức đóng vai tṛ trong tâm lư giống như một cơ cấu tỉnh của linh hồn con người. Quá tŕnh nhận biết, tư tưởng, sự phát hiện, quyết định, ư đồ, hành động, nếu có ư thức, như người ta nói, thường sáng sủa.Ư thức, một cách bí ẩn, đồng nghĩa với sự tỉnh táo, và người ta hay dùng theo nghĩa này. Trong nhiều trường hợp hai cách nói này có thể đổi chỗ cho nhau.

 

Khi nói, con người cần có ư thức, cần hành động một cách có ư thức, lúc đó ư thức không là ǵ khác ngoài từ đồng nghĩa với từ tỉnh táo, hoặc tỉnh táo không là ǵ khác ngoài trạng thái của ư thức, trạng thái hoàn toàn sáng sủa và mở rộng.

 

Trong tâm lư học sau này chỉ một vài người lên tiếng chống lại sự đánh tráo từ ngữ trên. Những người này nhấn mạnh, ư thức và sự có ư thức tuyệt đối không phải là hoạt động của linh hồn tiếp cận gần hơn mức độ nhậy cảm ở cường độ cao, nghĩa là tiếp cận đến đời sống siêu nhiên, hay nói đơn giản, là thứ có thể làm cho đời sống mở ra. Phần lớn người ta cho rằng ngược lại th́ có. Họ tuyên bố ư thức là sự phiền nhiễu của đời sống. Nghĩa là không làm cho đời sống mở ra mà trái lại ngày càng khóa kín đời sống lại.

 

Vấn đề đặc trưng này xuất phát từ sự nhiễu loạn không phương cứu chữa của nhân loại thời kỳ khải huyền, và sự nhiễu loạn này không thể chỉ nói lên bằng từ ngữ; bằng khái niệm; bằng lư thuyết; bằng quan điểm. Ngay từ phút đầu tiên có thể nhận ra đây là sự tỉnh táo bị nhiễu loạn, hay đúng hơn là sự nhiễu loạn của một thứ ánh sáng yếu ớt, thiếu hụt.

 

T́nh thế hiện nay về đại thể như sau: trong con người lịch sử- hay từ khác từ lịch sử là khải huyền, bởi v́ lịch sử chính là bản án, là thứ con người bị rơi ra khỏi thời hoàng kim cần phải chịu đựng- trong con người lịch sử cũng có sự tỉnh táo. Nhưng trong trạng thái của sự sống tỉnh không thể thực hiện nổi sự nhạy cảm này. Con người lịch sử, đặc biệt con người thời nay trong sự sống tỉnh không nhậy cảm mà bực bội. Sự bực bội chính là: sự mê muội bị kích thích.

 

Linh hồn có sự nhậy cảm cao độ: là khả năng để thấy và lĩnh hội, khả năng vươn lên sự sống mở. Nhưng sự (nhậy cảm) tỉnh táo này bị khóa lại trong đời sống khép kín. Sự tỉnh táo bị khóa và ch́m đắm này tâm lư học gọi là tiềm thức. Đây là cơ cấu tỉnh của linh hồn con người. Đây là một khả năng gắn bó trong mối quan hệ với sự sống siêu nhiên tồn tại trong hiện thực (ontosz on).

 

Các nhà tâm lư học không dấu nổi ngạc nhiên khi tiềm thức nhận biết tất cả, phán xử mọi hành động, phản kháng, đồng t́nh, dẫn dắt, chống lại, cảnh cáo, dọa dẫm, khuyên nhủ, tỉ tê, phản ứng, tiềm thức có nhận thức về mọi mặt của đời sống người, tiềm thức luôn luôn chú ư đến toàn bộ đời sống từ một miền xa vô thinh, rơi theo những sự kiện của số phận, am hiểu, và không nhầm lẫn, một cách đặc thù, chắc chắn và: một cách siêu h́nh, hay đúng hơn coi những h́nh ảnh mộng (có tên là) thế giới bên ngoài không là ǵ cả: coi đó là maja, mé on, không có thật

 

Tiềm thức là sự tỉnh táo của con người lịch sử. Và đây là cái luôn luôn phán xử trên đầu và trong mọi hành động của con người. Tiềm thức không chịu nổi một trật tự sống nhất định; nó tấn công sự nhiễu loạn; tống khứ những tư tưởng nhất định ra khỏi con người; một cách khăng khăng chỉ làm theo quy luật riêng của nó; cái ǵ muốn xâm phạm quy luật này, nó gạt bỏ.

 

Nếu con người trong trật tự đời sống của họ muốn bỏ qua hoặc coi thường, nó chỉ ra những khủng hoảng khủng khiếp. Nó đủ khả năng xé rách toang con người. Hành vi và lời phán xử của nó đối với ư thức trong mọi trường hợp đều căng thẳng. Tại sao? Bởi v́ trật tự sống mà tiềm thức đ̣i hỏi khác biệt với trật tự đời sống của ư thức. Hành vi của tiềm thức siêu h́nh tuyệt đối: nó đồng thuận với mọi dấu hiệu cơ bản nhất của sự tỉnh táo.

 

Tiềm thức giữ ǵn đặc tính tôn giáo của sự tỉnh táo cổ trong con người lịch sử. Tại sao cần đặt tên đặc tính này là mang tính chất tôn giáo? Cũng như vậy tại sao cần gọi sự tỉnh táo mang tính tôn giáo? Bởi v́ nó có sự so sánh với thượng đế. Thậm chí nhiều hơn thế: nó mang tính chất thượng đế. Thậm chí nhiều hơn thế nữa: nó là thượng đế.

 

Toàn bộ khả năng của linh hồn là bản năng thể hiện mở và tự do của mọi khả năng, cái chính là sự sống, được nâng lên mức độ thượng đế. Sự tỉnh táo này là một sức sống trong đó toàn bộ vũ trụ chứa trong từng khoảnh khắc, trong tổng thể và là hiện thực đang là. Là thứ vượt thời gian, siêu nhiên, vượt không gian, vượt qua đời sống. Là sự siêu h́nh. Mang tính tôn giáo. Mang tính thượng đế. Bởi vậy nó tỉnh, và rơ ràng, và mở. Bởi vậy nó biết tất cả, thấy tất cả và không nhầm lẫn, không dựa trên những sự phù phép, ảo tưởng và sự lừa dối.

 

Sự tỉnh táo này trong con người đă bị ch́m đắm, bị khóa kín và ch́m xuống. Con người lịch sử sống một cách đảo ngược: quay xuống dưới cùng sự tỉnh táo của ḿnh, v́ vậy nó quay sự tỉnh táo xuống dưới và vào trong. Và bởi vậy sự tỉnh táo biến thành tiềm thức. Trong con người lịch sử sự tỉnh táo rơi vào bầu khí quyển của sự mông muội.

 

Trong một môi trường như vậy giờ đây có thể hiểu được cái người ta gọi là ư thức là hoạt động và đặc tính nào của linh hồn. Ư thức thực ra là một bộ phận của sự buồn ngủ. Sự buồn ngủ được nâng lên vị trí của sự tỉnh táo. Về bản chất ư thức là mối quan hệ với sự sống vật chất khép kín. Đây là một đặc tính mà vị trí của nó chính là”dưới” và”trong” đối với môi trường vật chất tự nhiên, với sự tăm tối, với thế giới mộng. Ư thức là cơ cấu âm của con người, là cơ cấu-Káli, là cơ cấu của màn đêm. Trong đời sống của nhân loại lịch sử, cơ cấu và khả năng này (ư thức) nổi rơ trên bề mặt .

 

Con người lịch sử mang trong ḿnh khả năng thường xuyên của sự tỉnh táo, nhưng không đến được với nó để đánh thức ngay chính bản thân sự tỉnh táo của ḿnh. Bởi vậy sự tỉnh táo thật rơi vào mờ mịt, vào sự nửa tỉnh nửa mơ, trong khi ư thức, một cơ cấu-đêm lại dẫn dắt con người. Đây chính là đặc tính tâm lư của thời khải huyền.

 

Tóm lại định nghĩa cuối cùng như sau: Ư thức là một cơ cấu liên hệ đến thế giới ảo mộng của cái Tôi suy thoái của con người; ư thức thuộc về cái Tôi cá nhân.

 

 Sự tỉnh táo là sự nhậy cảm cao độ trong hiện thực của những cá nhân mang sức sống vũ trụ mở; sự tỉnh táo thuộc về cái Tôi vũ trụ. Điều dạy dỗ này của truyền thống cổ về sự tỉnh táo tâm lư và về ư thức từ kinh Veda cho đến thời Platon đều nhắc đến.

 

 

     3.

 

 

Ư thức giống như một bộ máy thuộc về ṿng đời sống khép kín, tính chất của nó gắn liền với thế giới – maja, với mé on, với cái không có thật. Thế giới này người ta gọi là thế giới bên ngoài, hiểu trong nghĩa là thế giới của các giác quan, là sự đa dạng trong không gian và trong thời gian.

 

C̣n sự tỉnh táo là một khả năng phép thuật thuộc về ṿng sự sống mở, tính chất của nó gắn liền với hiện thực, với ontosz on, người ta gọi nó là thế giới bên trong, nhưng không đúng, kể cả khi nó khác hẳn với thế giới của các giác quan, khác hẳn với đời sống đa dạng trong không, thời gian.

 

Diễn đạt một cách rơ ràng hơn như sau: Cái TÔI của con người bị rơi ra khỏi sự sống mở, tổng quát suy thoái thành cái TÔI cá nhân khép kín, ch́m vào sự mông muội; cái TÔI cá nhân suy thoái này trong một hiện thực suy thoái mang một cảm giác hiện thực suy thoái: gọi là daénat.

 

Cái hiện thực suy thoái này từ tất cả truyền thống cổ cho đến thời Platon đều đặt tên là cái-hiện thực không có thực. Những phần tử đóng vai tṛ và hoạt động trong ư thức đều không phải là hiện thực, mà là các h́nh ảnh mộng. Trong ư thức thế giới majá tồn tại. Đây là sự sống bị suy thoái, đứt đoạn, tan ră- bởi vậy nó đa dạng và không thể nắm bắt.

 

Cái TÔI thực sống trong sự tổng quát và cởi mở của sự sống; nó  mang cảm giác  thực tại của cái TÔI thức. Đây là dấu hiệu của sự tỉnh táo. Trong bối cảnh này luôn luôn cần hiểu đây là sự tỉnh táo tâm lư. Những yếu tố hành động đóng vai tṛ trong sự tỉnh táo là những hiện thực. Có thực. Theo ngôn ngữ của Platon: là những ư tưởng. Những h́nh ảnh cổ. Thượng đế. Bởi v́ thế giới thực tại sống trong sự tỉnh táo. Thực tại này mang tính chất tinh thần. Bởi thế giới là tuyên ngôn tinh thần thượng đế. Và đời sống có thật này thống nhất, hoàn thiện, mở và là MỘT.

 

T́nh thế( về mặt tâm lư) của thời kỳ sáu trăm năm trước công nguyên như sau: sự nhậy cảm cao độ của sự sống bị khóa lại, trở thành tiềm thức, sự nhạy cảm mộng mở về phía tối tăm mông muội từ dưới trồi lên trên và chiếm vị trí của sự tỉnh táo. Đây là cái sau này người ta gọi là ư thức. Và v́ là sự tỉnh táo, ư thức cũng là sự nhạy cảm, bởi mức độ cao nhất của sự sống không phải tri thức, mà là sự nhạy cảm.

 

Nhưng ư thức hướng về phía thế giới cảm giác không có thực, có thể nói như sau: hướng về thế giới mộng, về ảo ảnh, về majá, là sự nhạy cảm hướng về phía ảo ảnh.

 

C̣n sự tỉnh táo hướng về thế giới ư tưởng có thực: về hiện thực, là sự nhạy cảm có liên quan và hướng đến thế giới mở. Giữa ư thức và sự tỉnh táo, như mức độ, câu hỏi và sự kiểm tra của cả hai: majá, là thế giới- phù phép, là thế giới cảm giác.

 

Ư thức ngây ngất trong sự phù phép. Người ta có thể đặt tên sự ngây ngất này là nghệ thuật, là sự hưởng thụ cảm giác, là công danh, là khoa học, là thế nào cũng được. Cho dù đặt tên là ǵ chăng nữa, cũng không là ǵ khác ngoài sự ch́m đắm vào sự phù phép. Sự ch́m đắm có chủ ư vào sự phù phép này người ta gọi nó là  đặc thù. Mức độ của nó: sống-chết trong sự phù phép.

 

Sự tỉnh táo trong phù phép không ngây ngất, mà là nh́n thấu suốt. Và không ngây ngất, mà kiếm t́m sự thức tỉnh. Thế giới của sự ngây ngất và phù phép thực ra là thế giới của aesthetics( mỹ học).  Người ta sai lầm khi gọi nó là extraverzio( sự hướng ngoại-tính chất mở).

 

Sự tỉnh táo không gọi là ǵ hết. Kẻ muốn thức tỉnh, kẻ đấy không gọi là nhà thông thái, nhà triết học, hay kẻ khổ hạnh. Có thể là bất kỳ ai, bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào. Tại sao? Bởi v́ bất kỳ sự tiếp cận được đánh dấu nào cũng đều bên ngoài, hay c̣n gọi là theo kiểu phù phép, và con người, kẻ tỉnh hay đă thức tỉnh là kẻ đă bước ra khỏi ṿng phù phép.

 

Thế giới aesthetics – mỹ học có lịch sử của nó, bởi nó mang tính lịch sử, là hiện tượng khải huyền (apokliptikus). Đấy là nhà nghệ sĩ, là nhà bác học, là người anh hùng, là nhà triết học.

 

Trạng thái tỉnh không có lịch sử mà là quá tŕnh liên tục sinh-tỉnh-đau khổ. Bởi vậy cần: kẻ nào không muốn sự ngây ngất và phù phép, hăy lên đường: những kẻ không sống bằng ư thức của họ mà bằng sự tỉnh táo. Bởi sự tỉnh táo trong lịch sử không là ǵ khác ngoài việc thanh toán ư thức như một sự loạn nhiễu của đời sống.

 

 

       4.

 

 

 

Ai đọc cuốn sách cổ Trung Quốc, Kinh Dịch bằng con mắt quen thuộc với truyền thống, không thể không nhận ra giữa tinh thần của cuốn sách và việc ứng dụng tinh thần này có sự đứt đoạn.

 

Kinh Dịch là cuốn sách của số phận. Khái niệm số phận trong truyền thống cũng thế, từ đó tới nay đều có nghĩa đời sống của thế gian đều nằm trong những sức mạnh của sự sống. Đời sống con người cũng phụ thuộc vào những sức mạnh của sự sống. Như từ bấy đến nay người ta hằng nói: cuộc đời nằm trong tay Thượng đế và phụ thuộc vào Thượng đế. Đấy là số phận.

 

Tự nó và điều dĩ nhiên cho thấy, khoảng thời gian trước công nguyên ( trước lịch sử) số phận con người phụ thuộc vào những sức mạnh của sự sống. Sự tỉnh táo của nó chắc cũng không chịu nổi một loại quan niệm khác; nhưng khi lịch sử bắt đầu, có một cái ǵ đó xuất hiện, một thứ đi chệch khỏi bản chất xác thực nhận được từ nền tảng tuyệt đối của sự sống.

 

Một cái ǵ đó chính là sự xác định của cá nhân. Chính là sự quyết định có ư thức mang tính cá nhân của con người. Trong cuốn sách cổ thiêng của Trung Quốc gần như từng bước một có thể xác định được bản chất xác thực thụ động biến đổi thành quyết định có ư thức và tích cực như thế nào( quẻ chấn) Khi sự tỉnh táo, thứ nh́n thấy rơ ràng tổng thể của sự sống biến mất.

 

Trên ngưỡng cửa của lịch sử con người không biết tự trao phó bản thân cho ḷng tin tưởng vào sự sống nữa; càng ngày nó càng đánh mất sự nhậy cảm cao độ của nó. Càng ngày nó càng tăm tối, xám xịt và suy thoái theo hướng đi xuống. Giờ đây nó bắt đầu tin rằng quyết định của cái TÔI là kim chỉ nam chắc chắn của số phận, như sự ḥa nhập vào với những sức mạnh của sự sống.

 

Một trong những đặc điểm của thời khải huyền từ trước tới nay là con người tước mất quyền chỉ đường từ tay Thượng đế và trao cho bản thân ḿnh. Sản phẩm khủng khiếp của điều này là bi kịch Hy lạp, chính là và chưa bao giờ là ǵ khác ngoài sự nổi loạn của quyết định chống lại ư muốn của thượng đế.Con người đứng dưới bản án như thế đó, họ không thấy rằng không thể cướp được số phận từ tay Thượng đế, và kẻ nào muốn đối diện với ư muốn của thượng đế, kẻ đó mời gọi bản án chống lại chính ḿnh đến.

 

Hậu quả tâm lư của giai đoạn này là sự đổi chỗ của ư thức và sự sự tỉnh táo. Điều tận cùng không là ǵ khác ngoài sự đổi chỗ của cái TÔI thượng đế và cái TÔI vật chất. Cái TÔI thượng đế đứng giữa trung tâm của sự sống mở; c̣n cái TÔI cá nhân đứng giữa trung tâm của lịch sử. Và hậu quả của giai đoạn này cũng là cái ngày nay người ta gọi là lịch sử.

 

Những nhân vật của lịch sử là những cái TÔI cá nhân, và những sự kiện của lịch sử v́ thế cũng chính là những ảo ảnh của thế giới – maja. Đây là kết quả của sự đổi chỗ trong giai đoạn này, trên tất cả các lĩnh vực của sự sống con người: cái bên ngoài đổi vào trong, cái từ dưới nổi trồi lên trên.

 

Khía cạnh mở của sự sống có bốn hướng chính: đầu tiên là hướng về phía thế giới siêu nhiên; thứ hai là hướng về thế giới bên kia vượt quá đời sống; thứ ba là hướng về sự thần bí của linh hồn; thứ tư là hướng về phía tất cả các sinh linh tồn tại mà trước hết là con người.

 

 Hướng đầu tiên của sự sống mở là siêu h́nh; hướng thứ hai là mối quan hệ với thế giới của những người đă chết; hướng thứ ba là sự quen thuộc với những bí ẩn của linh hồn; hướng thứ tư là sự trực tiếp trong cộng đồng. Và cuộc sống cũng bị khóa lại theo đúng những hướng trên. Nó không nh́n thấy quá thế giới của các giác quan; nó đánh mất sự nhạy cảm hướng về thế giới siêu nhiên;và chính v́ thế nó buộc phải phủ nhận thế giới siêu nhiên. Và v́ buộc phải phủ nhận, nó không bao giờ có ư tưởng về chân hiện thực.

 

Đại đa số nhân loại của thời kỳ lịch sử không bao giờ đối diện với hiện thực. Cái họ nh́n thấy, họ học, cái họ chống lại, họ muốn, cái để họ sống, chết đều là những sự tưởng tượng riêng của họ, cùng lắm là giấc mộng tập thể của thời đại.

 

Ṭa nhà tinh thần họ ẩn nấp trong đó là thế giới quan của họ nhưng là những thế giới riêng biệt mà Heracleitos đă nói: trong đó mọi người thiu thiu ngủ. Cái thế giới quan này không là ǵ khác ngoài chủ nghĩa cá nhân, hay dùng từ khác, là sự tưởng tưởng của cái TÔI sống trong một hiện thực đă suy thoái. Sự tưởng tượng này chỉ liên quan với hiện thực ở một vài điểm. Cái TÔI cá nhân ở đây, giữa thế giới quan của nó, sống một đời sống ngủ thiu thiu. Niềm tin của cá nhân này là niềm tin của cái TÔI: sự kiêu ngạo; bảo bối của nó: sự ích kỷ; nỗi sợ hăi của nó: sự lo lắng.

 

Đời sống không thấy quá thế giới tự nhiên và không có sự siêu h́nh. Và cũng không thấy quá cả đời sống, sự nhận biết về thế giới bên kia của nó thật mơ hồ, cái mệnh danh là suy thoái thành đức tin. Đức tin này phần lớn- nhất là đối với những kẻ (được cho là) giác ngộ là sự hổ thẹn, là sự mê tín thô thiển. Cần phải vứt bỏ điều này bởi nỗi sợ hăi thế giới bên kia trong một ư nghĩa nào đấy có tác dụng tốt và hăm phanh nỗi đam mê. Cuộc sống hướng về phía thế giới bên kia của nhân loại trong những thời đại gần đây đă bị khóa kín một cách huyền bí. Sự khóa kín này đạt tới điểm đỉnh khi người ta thử dẫn dắt thế giới của linh hồn quay lại hoạt động của vật chất.

 

 

      5.

 

 

Sự khép kín của hướng thứ tư là sự khép kín hướng về các thực thể sống, trước tiên là con người. Đây là sự đánh mất tính trực tiếp. Ư nghĩa của tư tưởng thường sâu sắc và quyết định, nên đ̣i hỏi cần thận trọng khi giải thích. Một trong số những ghi chép muộn mằn của Nietzsche nói về sự ra đời của linh hồn. Trong giây phút, bản ghi chép viết, con người năng động tự do trong xă hội đầu tiên, dưới sự kiểm soát của cộng đồng và áp lực của những người khác nhận ra bản thân ḿnh, lúc đó bản năng không bị cấm tỏa quay trở lại thế giới. Giây phút này, Nietzsche viết, được gọi là sự ra đời của linh hồn.

 

Ư tưởng xứng đáng được chú ư này có thể là dẫn chứng từ bất cứ cuốn sách cổ nào nếu con người thay từ linh hồn bằng từ TÔI. Bởi v́ cái TÔI cá nhân, mang tính vật chất, thiên nhiên, được xác định và bị khóa kín khác biệt với cá nhân vũ trụ mà Nietzsche nhắc đến.

 

Cá nhân vũ trụ tỉnh táo là trọng tâm bất tử của con người. Đặc tính của trọng tâm này là v́ mở nên không có con người bị khóa trong thiên nhiên vật chất. Nó trôi nổi, bay tự do, những sợi dây số phận của nó nằm trong tay thánh thần. Đây là điều mà mọi truyền thống đều biết, ǵn giữ, thấy và nhận biết trong linh hồn bất tử, trong cái TÔI vĩnh cửu, trong bản chất thần thánh của con người.

 

Cái TÔI cá nhân không bất tử, không vĩnh cửu và cũng không thần thánh. Chính v́ vậy cũng không hề tự do. Không trôi nổi và bay lượn trong thế giới mở.

 

Trung tâm của cái TÔI thánh thần là: Thượng đế. Sức hấp dẫn của những sức mạnh trong nó đạt đến bên Thượng đế. C̣n cái TÔI cá nhân với sức nặng vật chất  luôn luôn sụt giảm quay trở về ngay trong chính bản thân nó.

 

Và điều quan trọng nhất: cái TÔI thần thánh, như từ kinh Veda đến Platon đều nhắc đến, là sinh linh vĩnh cửu. C̣n cái TÔI cá nhân xuất hiện từ thiên nhiên vật chất tại đây, với những điều kiện và môi trường như Nietzsche đă đánh dấu. Cái TÔI cá nhân không là ǵ khác ngoài sự ức chế thường xuyên của những bản năng không thể thoát ra khỏi.

 

Khi trên ngưỡng cửa của thời cổ và lịch sử, sự trực tiếp biến mất, hay nói như Khổng tử: thay thế cho Cộng Đồng Lớn là thời Tiểu Vượng, trung tâm đời sống chính là cái TÔI cá nhân. Trong đời sống của lịch sử từ lúc đó đến nay vẫn như vậy, trọng tâm và trung tâm của đời sống vẫn luôn là cái TÔI cá nhân liên tục.

 

 Trong thời cổ bằng những phương pháp hữu hiệu và những quá tŕnh liên tục người ta hoặc thanh toán hoàn toàn hoặc hạn chế cái TÔI cá nhân, c̣n giờ đây trong thời kỳ (gọi là) lịch sử, khi sự tỉnh táo bị đánh mất, cùng với sự mê muội cái TÔI cá nhân trở thành trọng tâm của đời sống,  giữa những thời điểm quan trọng. Nói một cách ngắn gọn: từ cái TÔI trở thành thượng đế.

 

Vị trí của những ức chế thường xuyên không được bùng nổ, cái TÔI trở thành tâm điểm của đời sống. Tất nhiên quá tŕnh này xảy ra với các sinh linh sống, trước tiên là với con người, đă đ́nh chỉ mối quan hệ và sự hợp tác với người khác. Sự trực tiếp chấm dứt, thay thế vào đó: sự phản xạ.

 

Phản xạ là trật tự sống điển h́nh của cái TÔI cá nhân: nghiêng về và quay trở lại bản thân, là cái đà để rơi xuống, hướng về bản thân, tự nó tṛ chuyện, hành động, thưởng thức, thu thập mừng vui và sống.

 

 Ṿng quay sống tất nhiên của cái TÔI thánh thần trong cộng đồng lớn của các sinh linh là sự trực tiếp. C̣n ṿng quay sống của cái TÔI cá nhân là phản xạ đơn độc. Trong sự sống mở các thực thể sống trong cộng đồng đời sống;không có tư hữu, pháp luật, công danh, sự ích kỷ, sự kiêu ngạo; Trong đời sống bị khóa kín các thực thể sống trong cô đơn;đời sống càng khóa kín, nỗi cô đơn càng lớn; và bản năng chiếm hữu, quyền lực pháp luật,  sự kích thích công danh và kiêu ngạo cũng như tính ích kỷ càng lớn. Nhưng nỗi lo sợ c̣n lớn hơn, sự định hướng bấp bênh, sự mê muội c̣n trầm trọng và đen tối hơn.

 

 Trong thời cổ thế giới là thước đo của con người, giờ đây thước đo của đồ vật là con người. Trong việc cai quản nhà nước sự thống trị tinh thần bị thay thế bằng những hoạt động quyền lực vô thần. Con người phủ nhận sự sống, và bắt đầu tin rằng tất cả chỉ là một không gian rỗng tuếch. Họ muốn giật lấy số phận từ tay Thượng đế và dựa vào quyết định của cá nhân. Quả đất ngập lụt tung hoành cái gọi là szamszára (szánkhja): thứ không là ǵ khác ngoài sự nhiễu loạn vô nghĩa và hỗn loạn của cái TÔI cá nhân.

 

 

       6.

 

 

 

Con người sống theo phản xạ bị rơi ra khỏi cộng đồng lớn, không c̣n kỷ luật, không c̣n sự hợp tác và nhất là không c̣n giao tiếp chung nữa. Trong sự phản xạ, sự vật, con người và các sự kiện đánh mất tính hiện thực của nó. Một sự biến hóa đặc thù xảy ra  mà kết quả của nó: như thể một ai đó gian lận ư nghĩa của hiện thức bằng một thủ thuật không cho phép- trong khi đó con người liên tục giữ bản thân ḿnh trong một nỗi nghi ngờ tự kết tội, rằng chính họ là kẻ ăn gian.

 

Con người hoặc hành động hoặc quan sát. Hành động, nếu nhất quán và trực tiếp, làm sâu sắc quá tŕnh quan sát; c̣n quan sát nếu nhất quán và trực tiếp, mang lại hưng phấn cho hành động. Kẻ phản xạ đứng giữa hành động và quan sát, giữ thế thủ: và đúng là giữ thế thủ bởi phải giữ thế với cả hành động lẫn quan sát, như thể trong bế tắc giữ ḿnh, giữa chừng thử đặt một giả định phân vân, rằng nó đang nhào luyện sự vô công rồi nghề này chống lại chính ư định của nó, và không ai kết tội được nó bằng lời khiển trách phản bội này, trừ chính bản thân nó.

 

Trong phản xạ các diễn biến phức tạp bất thường tấn công, khiến bằng những cử chỉ che dấu con người lờ đi ư nghĩa của các sự vật, của các cá nhân, các sự kiện, để từ phía sau, trong sự trực tiếp nó ngáng bản thân nó lại.

 

Về sự phản xạ có thể nói như sau: con người không thể đi đến với bất kỳ cái ǵ một cách thẳng tắp và cởi mở- nếu có thể nói là định đến với cái ǵ. Bởi v́ nó không hề đến với cái ǵ hết. Nó luôn luôn cần phải đứng lại, tuy chưa hề xuất phát. Nó chỉ quay tṛn trong một vị trí, và cái nó thấy, nó quan tâm không là ǵ khác ngoài chính sự bận rộn lẩn quẩn với bản thân.

 

Có thể coi Kierkegaars  như tác giả chuyên về đề tài này, bởi những bài viết và  phê b́nh về ấn tượng, tâm lư của phản xạ là đề tài chính trong cuộc đời của ông, theo ông trạng thái này trái ngược với sự đồng cảm, gọi là autopátia. Đây là „khuynh hướng bệnh thần kinh, khiến con người trở thành  điệp viên của chính ḿnh”, con người liên tục „sống trong âm mưu”cưỡng bức chống lại chính ḿnh. Kierkegaars nói về cách diễn đạt này của ḿnh như sau:” để t́m một biểu hiện trực tiếp, rất hăn hữu, để t́m một biểu hiện gián tiếp, ở mọi mức độ đều thành công”

 

Đây là trật tự sống mà bản chất là: „một bước tiến hai bước lùi”, con người t́m thấy cảm giác của ḿnh trong sự tự lừa dối, nhưng nó cố t́nh quên đây là sự phản bội, kẻ đi lừa dối chính là bản thân ḿnh. Bản thân nó không có chính kiến riêng, nhưng cố t́nh bẻ quẹo ư nghĩa của các ư kiến, và khi phải chịu trách nhiệm, nó nhâng nháo phô ra bộ mặt vô tội.

 

Đời sống không trái ngược với sự sống, mà là trạng thái suy thoái và bị khóa kín của sự sống. Nhưng đời sống có một t́nh trạng đă trở thành tiêu cực. Không phải là cái chết, không phải sự thụ động, không phải sự thủ tiêu mà là sự bế tắc dửng dưng. Đây chính là phản xạ. Phản xạ là t́nh trạng trừu tượng của đời sống, là sự tách biệt, cô đơn, là một dạng của sự khóa kín, khi con người nâng sự khóa kín này lên, như một ṿng quay không nghỉ xung quanh bản thân ḿnh, thành định luật sống.

 

Bằng sự trừu tượng này đánh mất hiện thực sống của ḿnh và suy thoái, tất nhiên; sự tỉnh táo của ḿnh ngủ yên và đờ đẫn, tự nó nói lên điều này; và sống trong một không gian rỗng tuếch, chắc chắn. Đây là szamszára, là sự mê muội lạc giữa những h́nh ảnh mộng. Đây là sự tiêu cực của sự sống. Là sự vật vờ giữa những trừu tượng phi hiện thực mà h́nh ảnh tượng trưng của nó là cuộn dây Gordius và mê cung.

 

Phản xạ là mặt tiêu cực của sự sống; trong trạng thái này sự sống toàn diện bị phá vỡ và đóng lại. Nói một cách khác: sự sống bị xoắn lại và trở nên không thể giải quyết được, giống như cuộn dây Gordius, hoặc có thể nói cách khác nữa: v́ lạc phương hướng, sự sống trở thành một ảo tưởng tuyệt vọng, như một người lạc vào mê cung.

 

Phản xạ là mặt tiêu cực của sự sống, bởi v́ cội nguồn và trọng tâm của sự sống là cái TÔI tỉnh táo vĩ đại, mang tính thần thánh. Trong sự phản xạ con người trở thành cực trái ngược: thành cái TÔI vật chất cá nhân. Từ sự sống nó rơi xuống hoàn toàn và thực chất ngừng-tồn tại. Đời sống của nó là một ảo ảnh bịa đặt, cùng lắm là một: khả năng, như Kierkeaard đă nói. Nó không bao giờ đạt đến sự sống; không theo kịp số phận của ḿnh-bởi v́ toàn bộ gắng sức của nó tiêu tán khi nó tự nhủ bản thân phải vượt lên số phận, và thất bại khi tin hoặc không tin điều này, đúng hơn nó duy tŕ bản thân trong sự phân vân lưỡng lự không niềm tin.

 

Hậu quả của sự sống tiêu cực là sự trực tiếp biến mất. Nó không có quan hệ chỉ  tiếp xúc với bản chất thực của riêng ḿnh và v́ thế cần phải sống bên ngoài cộng đồng. Nhân loại thời khải huyền đánh mất sự trực tiếp của ḿnh, chỉ tồn tại trong một sự sống tiêu cực phi cộng đồng.

 

 Và khi có một tia nghi ngờ nhen nhóm trong nó, rằng trong trạng thái này nó đang đánh mất sự sống, đánh mất số phận và cuộc đời. Nó bắt đầu thử suy ngẫm- đó là lúc bản án thực hiện hoàn toàn với nó: nó bắt đầu phản xạ một cách có ư thức. Sự phản xạ có ư thức này được gọi là introverzio( bị khóa lại- quay vào trong). Đây là thời điểm sau khi đánh mất sự trực tiếp: khi con người xoay ch́a, khóa cái nhà tù mê muội đơn độc của ḿnh lại. Đây là mê cung.

 

Cuộc sống cộng đồng giữa những môi trường như vậy là một ảo ảnh bịa đặt. Thực chất chẳng có ǵ khác ngoài việc chưa bao giờ  xảy ra sự gặp gỡ đích thực, chỉ là sự húc vào nhau t́nh cờ trong bóng tối. Không gặp gỡ, không nhận biết, không thấy, không nhận ra, và như vậy không t́nh bạn, cũng chẳng hôn nhân, t́nh yêu, sự trực tiếp, không lời nói, không tiếng vang vọng, chẳng lôi cuốn, chẳng đồng cảm, và t́nh thương cũng không nốt.

 

Nếu sự trực tiếp đă mất, trong giây phút ấy các phân tử không đồng nhất của cộng đồng biến thành sự hỗn độn xung đột. Những thực thể ảo tưởng trên đường băng ngoài định luật mù ḷa tránh nhau, hoặc đâm vào nhau, nhưng sự lẩn tránh cũng vô nghĩa y như sự chạm trán.

 

Phản xạ là trạng thái khi con người đứng ngoài tất cả:  ngoài đời sống, ngoài sự sống, ngoài cộng đồng, ngoài hiện thực, ngoài sự tỉnh táo, ngoài sự tồn tại. Phản xạ v́ vậy phi siêu h́nh, phi tôn giáo và v́ thế phi cộng đồng. Phản xạ chỉ có duy nhất một nội dung: ảo tưởng. Đây chính là: cái TÔI cá nhân.

 

 Veda gọi trạng thái này là abhimána, là sự hỗn loạn điên khùng, khi con người hoàn toàn đánh ch́m bản thân vào giữa những h́nh ảnh của thế giới vật chất, và suy thoái thành ảo ảnh, là kẻ mà mục đích, khát vọng, nỗi đam mê, niềm ao ước chỉ là vật chất, kẻ mà số phận chỉ đi đến cuối đời, chỉ thấy đến giới hạn của vật chất, và sau một đời sống thiếu linh hồn và tinh thần, chỉ c̣n sự tiêu hủy  đợi nó.

 

                                     Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung

                                                         ( Bp. 2011.08.08)