Hamvas Béla
THI SĨ THIÊNG LIÊNG - POETA SACER
(Trong tiểu luận triết học Những câu chuyện vô h́nh)
Nh́n lại khoảng hai trăm năm gần đây của lịch sử có thể thấy nỗi lo âu theo kiểu cảm giác xa lạ của con người khó bóp chết được. Cứ như theo kế hoạch từ thế hệ này sang thế hệ kia, từ từ biến mất từ trên xuống dưới, trước tiên là vua, sau đó lần lượt: giáo chủ, đại quư tộc, chính khách, nhà bác học, quân nhân, nghệ sĩ, những người này hoặc biến mất luôn hoặc thay thế vào vị trí của họ là những nhân vật khả nghi.
Có kẻ muốn lập lại trật tự, như Napóleon đă từng thử, để lấy lại sự kính trọng cho tầng lớp vua chúa. Hoặc một số giáo chủ và các nhà đại quư tộc muốn cứu vớt tầng lớp giáo sĩ và quư tộc. Hoặc nảy sinh vài ba chính khách, vài nhà bác học, vài quân nhân, vài nghệ sĩ. Nhưng tất cả những điều này chỉ được coi như một vài cá biệt .
Bởi không chỉ một số ḍng họ cai trị nào đó biến mất, mà ngay cả con người mang phẩm chất quư phái cũng biến mất; tầng lớp giáo sĩ và quư tộc biến mất, chỉ để lại những sinh thể giáo sĩ và thị dân. Đúng hơn những tầng lớp này rút lui, từ bỏ vị trí của ḿnh.
Có thể khôngv́ sự yếu đuối họ hành động, mà ngược lại, từ sự cân nhắc và đánh giá tỉnh táo.
Họ rút lui, bởi sự hiện diện của nhân loại không bao giờ đáng trở thành vật hy sinh cho một nạn dịch đen tối, khi sự ngự trị của họ không được coi trọng nữa.
Nhưng sự đánh mất vị trí của những con người lớn lao, việc rút lui của họ chỉ trở nên một nỗi mất mát đáng khủng khiếp với ai nghe thấy, và hiểu. Đám đông- từ mọi phía ch́m xuống nạn dịch đen tối - gào rú một cách hân hoan.
T́nh thế trở nên nguy kịch v́ những người lớn lao đă rút lui, cuộc thử nghiệm lập lại một trạng thái xă hội trang trọng vấp phải khó khăn và đă thất bại.
Nạn dịch bắt đầu khi tất cả muốn trở thành kẻ được truyền ngôi vua.
Nạn dịch tiếp tục khi tất cả bắt đầu yêu sách với giới tăng lữ, với giới quư tộc, và sau cùng với giới tri thức.
Không có ǵ ghê gớm, họ nói. Tất cả mọi người đều có thể trở thành kẻ cai trị, dều có thể trở thành linh mục, thành bác học, nghệ sĩ. Tất cả chúng ta đều như nhau. Tất cả chúng ta đều biết tất cả, và nếu chúng ta không biết, chúng ta học.
Như thể tính chất vua chúa, tính chất đại quư tộc và tính chất tăng lữ đều có thể học được.
Khi các vị vua nghe thấy điều này, họ thoái vị; các linh mục, các nhà bác học, các chính khách đều làm như vậy.
Một vài người khác cất tiếng, họ liền bị xé xác. Những người c̣n lại bèn bảo: nếu các anh cần quyền lực, th́ các anh hăy thành kẻ cai trị đi; nếu các anh cần thành quư tộc, th́ các anh hăy thành quư tộc đi.
Làm sao khác được?
Muộn hơn, kinh phúc âm của nạn dịch tấn công, và sự tráo màu khổng lồ của thế gian bắt đầu chuyển động theo hướng ngược lại, bôi bẩn tất cả những ǵ trong sạch, lay động tất cả những ǵ lớn lao, dẫm bẹp tất cả những ai ngẩng cao đầu, và đầu độc tất tật những ǵ khỏe mạnh.
Thế là mọi sự vật rơi vào hiểm nguy và biến mất: nhà nước, quốc gia, dân tộc, công ăn việc làm, nền kinh tế, tôn giáo, t́nh yêu, cái đẹp, sức mạnh, chiến tranh, sự quư phái, tṛ chơi, nhu cầu, sự thật.
2.
Der Tempel brennt, ein halbes tausend Jahr muß weiterrollen bis er neu erstehe (Stefan George) – vị trí linh thiêng bốc cháy, năm trăm năm nổ rền trên đầu chúng ta, cho đến khi được xây lại- Nơi linh thiêng, ṿng tṛn thiêng của cuộc sống chung, bầu trời Temenos.
Một thế hệ tăm tối đă xâm nhập và đốt cháy đền . Các vua chúa, các đại quư tộc, các chính khách, các giáo chủ, các nghệ sĩ cần phải từ bỏ vị trí.
Từ đó đến nay cuộc sống ở ngoài ṿng tṛn thiêng liêng: nó bẩn thỉu và vô thần. Không trung tâm, không chủ, không sự kính trọng – chỉ c̣n chiến lợi phẩm cướp được, chỉ c̣n âm mưu. Không có trách nhiệm, chỉ c̣n lợi ích. Không có sự chỉ dẫn.
Các quyết định thường được khẩn cầu từ những vị thần, thành Delphi của nhân dân tuyên bố cần phải làm ǵ khi có sự nguy hiểm và hoang mang: Trung tâm là kẻ chịu trách nhiệm, đấy là Quyền lực, là một Đấng. Tất cả mọi Delphi đă mất. Không gian Temenos đă bị phá vỡ.
Sự nguy hiểm và nỗi hoang mang đă đến, không c̣n các quyết định, không c̣n phương hướng, không mục đích, không con đường, chỉ c̣n sự hỗn loạn, nhầm lẫn, sự nhục nhă, đói nghèo, khốn khổ, sự hăi hùng, các lo âu, tội ác, sự xỉ nhục.
Tất cả mọi người, ai đă biết một cái ǵ đấy, đă am hiểu về một cái ǵ đấy, ai dám một điều ǵ đấy, ai đă từng là một ai, đều lẩn trốn.
Der Tempel brennt.
3.
Ṿng tṛn thiêng liêng giờ đây chỉ c̣n lại đúng một người ǵn giữ: NHÀ THƠ
Không thể biết, các vua chúa, giáo sĩ, các nhà quư tộc, các quan ṭa, quân nhân hay nghệ sĩ yêu cầu nhà thơ hăy ở lại, hay nhiệm vụ này thi sĩ tự gánh vác; có thể đây là người cuối cùng, khi tất cả đă đi xa, người này nói: ta sẽ trụ lại. Hoặc người này sẽ ra đi nốt, không gian Temenos sẽ không c̣n ai trú ngụ và giữ ǵn nữa.
4.
Từ giây phút trong cái ṿng tṛn thiêng ấy chỉ c̣n duy nhất THI SĨ sót lại, bắt buộc đảm nhận quyền lực của vua chúa, đảm nhận phẩm chất của giới quư tộc, thói quen nghi lễ của linh mục, bản năng chiến đấu của người quân nhân, tri thức về sự thật của quan ṭa, nỗi say mê ngây ngất của nghệ sĩ, của nhà bác học – từ giây phút ấy nhà thơ đă vượt hẳn tầm vóc của nhà thơ.
Trước kia ta có thể hài ḷng với tuyên bố của ngành lịch sử văn học, rằng nhà thơ là người thể hiện tinh thần của dân tộc. Bởi v́ thời xa xưa nhà thơ đúng là và gần như không là ǵ khác, ngoài một kẻ đi diễn đạt. Mặc dù không luôn luôn, nhưng nhà thơ thường xuyên là một thực thể chính trị, kẻ đi diễn giải về thế giới của một giai cấp, của một tầng lớp, hoặc của nhân dân.
Sự diễn giải này được hiểu như sau: cái tinh thần, h́nh ảnh, cảm xúc của một dẫn tộc đă có sẵn, nhà thơ chỉ việc đi t́m ngôn ngữ diễn đạt nó, khiến nhân dân cùng hiểu như khi ḿnh diễn đạt.
Nếu anh ta có t́m ra cái ǵ mới hơn để nói, đó chỉ có thể do cách diễn đạt riêng của nhà thơ mà thôi. Nếu nhân dân, thời gian, giai cấp muốn cách mạng, nhà thơ diễn giải về cách mạng, nếu bị bóc lột, th́ về sự bóc lột, nếu thất bại, th́ về sự thất bại, nếu hy vọng th́ về sự hy vọng.
Luôn luôn như thế và chỉ từng có thế. Nhà thơ là một kẻ diễn đạt.
Sau đó tiếp đến thời kỳ tâm lư học, và người ta bắt đầu lư giải nhà thơ bằng tâm lư. Từ một nhà chính trị, nhà thơ trở thành kẻ thần đồng.
Tâm lư học tách biệt người thường ra khỏi kẻ có tài, và nghiên cứu các mức độ của tài năng. Tài năng lớn là thần đồng. Cách tiếp cận điều này là làm sao cho người ta hiểu. Nếu hiểu được. Điều này hoàn toàn không bao giờ có thể, bởi thần đồng về mặt chất lượng khác hẳn kẻ b́nh thường. Nhà thơ mang một phẩm chất tâm lư cao hơn hẳn.
Lịch sử tư duy thử kết nối hai lư thuyết trên đây lại với nhau.
Người ta kết hợp kẻ diễn đạt và thần đồng lại với nhau rồi tuyên bố, nhà thơ là kẻ từng trải và là kẻ đi chắt lọc.
Các triều đại lịch sử, các quan điểm thế giới quan, các khuynh hướng hành vi tinh thần nhồi nhét trong vai tṛ của nhà thơ. Nhà thơ là kẻ, sống trải qua toàn bộ các giai đoạn lịch sử thế giới, rồi chắt lọc, tập hợp lại và vĩnh cửu hóa tất cả. V́ thế từ quan điểm lịch sử và phát triển tinh thần, sự quan trọng của nhà thơ kéo dài đến vô tận, hơn cả ách cai trị, chiến tranh hay nạn động đất. Nhà thơ là một đại diện chân chính về tinh thần của lịch sử.
Trong h́nh thái học văn hóa xuất hiện một lư thuyết mới. Nhà thơ giờ đây được coi như một kẻ sáng tạo văn hóa. Thi ca là một nhân tố văn hóa, giống như luật, tôn giáo, nghệ thuật và tư duy. Văn hóa tạo dựng tất cả, từ dây dép xăng đan đến lư tưởng-vĩnh cửu: thi ca nằm đâu đây giữa hai thứ này. C̣n nhà thơ là ai, rất mơ hồ, nhưng v́ sự toàn vẹn của văn hóa đ̣i hỏi, thi ca phải trở thành vật dụng như quần áo, tiền hoặc thượng đế.
Cái nguy của những lư thuyết trên không phải chỉ ở chỗ chúng nghèo nàn, phi tưởng tượng, ngu xuẩn, ấu trĩ, vô lư, giả dối, thô thiển và không thuyết phục.
Bởi chắc chắn đây là những trường hợp không ngoại lệ. Những kẻ đề ra các lư thuyết này đều không hiểu, thi ca là cái ǵ. Bọn họ đều cho rằng thi ca là một thăng hoa thụ động: của sự diễn đạt, của kết quả phẩm chất tâm lư, của sự trải nghiệm, sự chắt lọc, của nhân tố tạo ra văn hóa.
Những lư thuyết trên đều là những cố gắng vô ích của một đám đông cố gắng hiểu nhà thơ- một cách không thuyết phục nổi. Thậm chí, những thứ lư thuyết này không là ǵ khác ngoài một bản năng xuất phát từ sự ganh tị của một đám thực thể người, thử t́m cách t́m hiểu nhà thơ bằng dùng những lư thuyết này kéo nhà thơ xuống ngang ḿnh, đặt nhà thơ ngang tầm với ḿnh.
Tout comprende cest tout mépriser.
Cái quan niệm THI SĨ là kẻ diễn đạt, là thiên tài, là người từng trải, kẻ gạn đục khơi trong và người tạo ra văn hóa là sự trả thù của một thế hệ đen tối. Chưa hết: tất cả các lư thuyết này không muốn hiểu một thứ duy nhất quan trọng: sự tích cực của nhà thơ.
Đây mới chính là điều quan trọng nhất.
Các lư thuyết chính thức được tuyên bố trong sách vở. Thế hệ đen tối này bày tṛ sách vở, nhằm chứng thực bản thân: bởi cái nó đang sống, trái ngược với điều có trong sách. Cái lư thuyết màu mè tuyên bố về nhà thơ, chỉ là một sự ba hoa trong không khí, vô bổ, bởi không hề hiện thực, và trong thực tế không ai tin vào điều đó.
Trong cuộc sống hiện thực nhà thơ không phải kẻ đi diễn đạt, chẳng phải kẻ từng trải, chẳng là cái ǵ ngoài một chàng điên.
Chàng điên bởi nhà thơ không bận tâm đến việc kiếm tiền thu nhập, không quan tâm hướng tới các vị trí có ảnh hưởng tới xă hội.
Narr, nur Dichter, như Nietzsche đă nói.
Cái quan niệm nảy sinh trực tiếp từ đám đông, đấy là một quan niệm chung chung, tầm thường. Nhà thơ, người ta riễu cợt một cách bề trên, không thèm chấp và hạ thấp: là kẻ lố bịch, không là ǵ khác.
5.
Cuối thế kỷ vừa qua con người bắt đầu nhận ra t́nh thế.
Bắt đầu xuất hiện các nhóm tách xa đám đông một cách có chủ ư, các nhóm nh́n thấy ngọn lửa thiêng Temenos vẫn cháy, và nhà thơ cần ở lại vị trí của ḿnh để bảo dưỡng ngọn lửa ấy. Con người c̣n nhận ra, nếu nhiệm vụ này muốn hoàn thành một cách xứng đáng, ư thức tự thân của nhà thơ cần được đánh thức. Nhà thơ cần biết, ḿnh là ai.
Trong tất cả các lư thuyết từ trước tới nay, người ta chỉ nhận ra sự bất lực thảm hại của nhà thơ mà họ muốn giải thích, tuy không thể đến gần nhà thơ; họ nhận ra cả sự trả thù hèn mọn muốn biến nhà thơ thành một sự diễn đạt, thành một nhân tố của văn hóa, tóm lại thành một phần tử bị phụ thuộc, muốn biến nhà thơ thành công cụ, thậm chí tất cả đều cho rằng nhà thơ chỉ là một chàng điên.
Có một người trong những nhóm tách biệt này- Kreis trong nhóm Stefan Gerorge Đức- bắt đầu hiểu nhà thơ trong bản chất và trong toàn bộ hiện thực của thi ca.
Cái h́nh ảnh về nhà thơ mà Kreis tạo dựng c̣n chưa hoàn hảo. Quan niệm của nhóm George về nhà thơ vẫn chỉ nh́n thấy khía cạnh thụ động. Nhưng nhóm này đă nhận ra số phận đă mất không chỉ của nhà thơ mà của nhân dân, của nhân loại: không gian Temenos.
Cần một ngọn lửa, nhà thờ, hội nhóm, nơi con người thờ phụng thần linh- cần một không gian thiêng, nơi con người cởi dép khi bước vào, đấy là mảnh đất thiêng, nơi thế giới con người dừng lại, nơi ngọn lửa tinh thần cháy lên, nơi con người không bao giờ là con người nữa, mà là đứa con của vũ trụ bao la, nơi như Mallarmé viết: sự sống của chúng ta trở nên xác thực. Bởi trật tự, vẻ đẹp, tầm vóc, sự cao quư của đời sống con người được ǵn giữ trong Temenos.
Nhóm George hiểu ra nhiệm vụ của nhà thơ: Phục vụ và Thống trị.
Bởi: chỉ kẻ có quyền cai trị, nếu chịu phục tùng; chỉ kẻ xứng đáng thống trị, nếu phục vụ.
Phục vụ nhân dân, nếu không phải cái nhân dân này, th́ phục vụ thượng đế, phục vụ thế giới tinh thần, sự trong sạch, sự trật tự. Thi ca là một sự phục vụ cao cả như vậy. Và thi ca thống trị thế giới tinh thần, của nhân dân, của cái đẹp và cả nhân gian. Đấy là sự thống trị của thi ca.
Người bảo vệ Temenos là kẻ thống trị và là kẻ phục vụ. Nhà thơ bằng sự thống trị phục vụ này ǵn giữ trung tâm của sự sống con người” Vương quốc Vĩnh cửu”.
Mallermé nói đây là germe final của nhân loại. Là người bảo vệ truyền thống thiêng liêng của nhân loại vĩnh cửu, của sự sống thượng đế- đấy là cái nhà thơ phục vụ và thống trị nhân danh nó.
Theo Kreis số phận nhà thơ chính là nhóm.
Nếu nhà thơ xuất hiện trong nhân loại, họ sẽ họp thành nhóm người theo số phận của họ xứng đáng bước vào một vị trí linh thiêng. Những người theo Nhóm Thiêng liêng chính là những người thành lập và là những cư dân đầu tiên của Vương quốc Vĩnh cửu.
Một cộng đồng mới sẽ h́nh thành quanh nhà thơ, bộ lạc mới đầu tiên của nhân dân đă linh thiêng hóa, sẽ là trung tâm của Vương quốc.
6.
„ Kẻ phục vụ các Quyền lực trong những kích thước lớn lao hơn người khác, kẻ gắn bó với các Quyền lực ở những mức độ khác nhau hơn kẻ khác, đấy là đối tượng của nỗi tôn thờ thần kính. Với sức mạnh và môi trường của Tạo hóa, chất nổ dễ cháy trong đối tượng này thật nguy hiểm, thậm chí rất khủng khiếp, khi tiếp xúc nó sử dụng những quy tắc trật tự đáng gờm, tốt hơn hết, nếu không thể hoàn toàn, ít nhất nên tránh xa nó ra.”
Đấy chính là một thực thể thiêng liêng( sacer).
Sacer có hai nghĩa: linh thiêng và bị nguyền rủa, đáng trọng vọng và bị xỉ nhục, cao siêu và thảm hại.
Sacer thời cổ là nhà vua.
Là kẻ hầu hạ cho các Quyền lực, là kẻ gắn bó hơn nhiều kẻ trong các mức độ với các Quyền lực, là một thực thể cao siêu – đáng sợ, đầy những chất liệu nổ - tạo dựng-hủy diệt và bằng sức mạnh của tạo hóa, là kẻ nhân danh toàn bộ dân chúng duy tŕ mối quan hệ với một thế giới cao siêu, là kẻ đại diện cho toàn bộ dân chúng trước các thần linh.
Sacer có thể là giáo chủ, có thể là một công tước hoặc chính khách, hoặc một tướng lĩnh, những kẻ các Quyền lực sử dụng như các công cụ ở các mức độ khác nhau.
Sacer là thày cả cúng tế, là kẻ tiên tri, là mụ bói, là bác sĩ, là nhà triết gia, những người bên trong họ có một sức mạnh cao cả và đáng sợ, theo hai ư nghĩa vũ trụ bất tận: bản năng tạo dựng và sự đam mê tàn phá tồn tại trong các mức độ khác nhau.
Sacer là kẻ có quan hệ gần gũi với một thế giới đầy vấn đề, đầy bất trắc, đáng suy ngẫm, đen tối, đứt đoạn và cao vợi của các Quyền lực.
Sacer là một thực thể giới hạn mang ư nghĩa và đại diện cho thần linh ở giữa con người và cho con người ở giữa thần linh, một chân ở đây, một chân ở kia, trong hai thế giới, với hai bản chất, hai khuôn mặt, sống với hai trách nhiệm và duy tŕ hai thế giới.
Bởi vậy chỉ được phép rất thận trọng khi tiếp cận, chỉ tṛ chuyện được trong những h́nh thức nhất định, có thể chưa bao giờ tiếp cận đến và chỉ mới nhân danh tên và địa chỉ của thực thể này.
Bởi vậy chỉ được phép cúi đầu, quỳ gối, bằng một giọng khẽ khàng với mái đầu cúi thấp, một cách kính cẩn, trong trang phục hội hè, và bằng cử chỉ nghiêm ngặt của những quy tắc nhất định tiếp cận đến với Sacer.
7.
Evola trong một cuốn sách lớn của ḿnh đă kể, tầng lớp vua chúa thời cổ đă truyền xuống dưới sự kính trọng các sacer như thế nào, vào tay giáo chủ, rồi rơi xuống tiếp tục giữa các đại địa chủ như thế nào, rồi xuống tầng lớp quư tộc, rồi rơi xuống tiếp, cho đến khi mất hẳn.
Lịch sử khoảng hai trăm năm trở lại đây là một tai họa nhỡn tiền hoàn toàn, khi vua, giáo chủ, địa chủ, quan ṭa, nghệ sĩ, dũng sĩ biến mất, chỉ c̣n lại đám người cơ cực.
Không c̣n ai đủ xứng đáng để trở thành sacer: kẻ truyền đạt thế giới của các Quyền lực cho con người và thế giới của con người cho các Quyền lực, để liên hệ và gắn bó lẫn nhau một cách tích cực.
Không ai c̣n có cơ hội để trở thành kẻ gắn bó hơn nhiều kẻ khác trong nhiều mức độ lớn hơn với các Quyền lực.
Không ai, không bao giờ c̣n đủ sự cao cả- đáng kính để khi con người đối diện với các Quyền lực có thể sử dụng những quy chuẩn thận trọng, trong trang phục lễ hội, bằng một giọng khẽ khàng kính cẩn gọi tên.
Chỉ c̣n sót lại mỗi NHÀ THƠ.
Và thế là nhà thơ trở thành kẻ tiền nhiệm, thành biểu tượng và người giữ ǵn tầng lớp vua chúa, giáo chủ, tướng lĩnh.
Và thế là nhà thơ trở thành sacer, thành một đối tượng của nỗi lo sợ đáng kính, trong con người nhà thơ thống nhất tất cả: linh mục, nhà tiên tri, bác sĩ, quan ṭa, nhà tư tưởng, vua, thủ lĩnh- linh thiêng và đáng nguyền rủa, đáng kính trọng và thảm hại, cao quư và hèn hạ: là h́nh ảnh tượng trưng sự hiện diện của các Quyền lực giữa loài người.
8.
Về mối quan hệ giữa Goeth và Schiller cách đây không lâu có một cuốn sách đặc biệt xuất hiện. Tác giả khẳng định, sự b́nh thản không lay chuyển và sức mạnh kiêu kỳ của Goeth đă đánh thức trong tâm hồn người bạn của ḿnh ḷng ghen tuông, hơn thế nữa sự tức giận. Không bộc lộ.
Khi đối diện với nhau và giữa thế giới ban ngày có ư thức, t́nh bạn của hai người vẫn thể hiện như một sự gắn bó thực sự không thay đổi. Nhưng Schiller trong một thế giới c̣n thực chất hơn và sâu sắc hơn cả thế giới ban ngày, không chịu đựng được tính tự do bất chấp kiểu Goeth.
Biết chạy đi đâu ḷng ghen tuông này, nó trở thành thứ quyết định toàn bộ con người Schiller. Tất nhiên, lại một lần nữa điều này không bộc lộ.
Nếu tự nhận biết, chắc Schiller sẽ run rẩy phủ nhận, không tin sự tức giận cắn xé tâm can của ḿnh đă thống trị tới mức ông không thể nghĩ, sáng tạo, xúc động và viết về cái khác, ngoài những ǵ nảy sinh từ sự ghen tuông, thứ chống lại bản tính cân bằng, trầm tĩnh tự do bất chấp của Goeth và bị dấu kín trong thâm tâm Schiller.
Sự ghen tuông tức tối len vào bản tính của Schiller, trở thành một nhân tố sáng tạo và toàn bộ con người ông bắt đầu cô đọng lại quanh tâm điểm này.
Luôn luôn là một tai họa không thể giải quyết, nếu một người không đồng hóa được một cái ǵ đấy.
Schiller bắt đầu đánh mất Schiller, và bắt đầu trở thành một Goeth thuần túy tiêu cực, một Goeth tiêu cực đến mức, có thể nói như Nietzsche về một thực thể như vậy: auch mich schuf der ewige Haß – tôi là kẻ - mà sự căm thù vĩnh cửu tạo ra.
Cái bản chất này định mệnh ở chỗ, ông hoàn toàn đánh mất trọng lượng riêng về sự tồn tại của ḿnh, biến thành một trọng lượng đối ngược hẳn, thành một kẻ căm thù sâu sắc và hao ṃn.
Ông trở thành một bản sao; bởi trong thâm tâm ông thán phục bạn, sự thán phục này lớn đến nỗi ông không cho phép bản chất riêng của ḿnh lên tiếng nữa.
Ông không thể thả sự ngưỡng mộ này tự do, ông không đủ sức, và không thể nói: thật vui sướng cho tôi được sống dưới cái bóng vĩ đại của anh.
Để làm điều này ông không đủ sự nhún nhường, ông quá kiêu ngạo. Rất tintán.
Ông dành cho vẻ bên ngoài và đời thường ḷng kính trọng và sự ngạc nhiên, để t́nh bạn ban ngày có thể thản nhiên trị v́ trên những thứ đó.
Nhưng trong bóng đêm thực thụ, không chỉ ông không chịu đựng nổi sự tươi tỉnh rộng mở và giàu có của t́nh bạn, mà cả sự thán phục riêng của ḿnh dành cho bạn, ông cũng không chịu được nốt.
Thế là ban ngày ông là người bạn và là kẻ ngưỡng mộ. Nhưng dưới lớp vỏ của ư thức ông không chấp nhận điều này, và sự tức giận dày ṿ, xé nát tan toàn bộ.
Ban đêm ông cắn xé bản thân một cách khổ sở v́ ông không biết làm thế nào để trở nên tự do một cách không sợ hăi đến thế. Nhưng điều này ông cũng không tự chấp nhận nốt, v́ trong thâm tâm ông ngưỡng mộ bạn trên hết.
Goeth trong tâm hồn Schiller là người bạn và là kẻ thù- ông thán phục và căm thù, ông thờ phụng và ghen tị. Nhưng ông nh́n rơ sự kiêu ngạo không giới hạn của kẻ đối địch, nh́n rơ điều này điều nọ, như khi nh́n rơ sự bất lực riêng của ḿnh. Trong nỗi tuyệt vọng, ông không nghĩ cách nâng bản thân ḿnh lên, mà chỉ nghĩ đến chuyện hạ bệ kẻ kia xuống.
Bằng những h́nh ảnh miêu tả sự kiêu ngạo của kẻ khác, ḷng ghen tị làm ông mù quáng đến mức, cảm thấy ḿnh là kẻ chiến thắng, và hạ bệ được kẻ khác- Acheronta movebo – trích dẫn Địa ngục.
Nếu đây không là nội dung th́ cũng là ư nghĩa của cuốn sách này, khoảng chừng ấy.
9.
Cần phải lựa chọn vị trí để từ đó nh́n thấy mối quan hệ giữa Goeth và Schiller tại sao đă từng như vậy, và tại sao thành như vậy. Vị trí này không có trong cả hai người; bởi nếu có sẽ nổi lên một điều, hoặc người này hoặc người kia”đúng”.
Tác giả cuốn sách nói trên phán xét xuất phát từ Goeth, từ đó dường như nổi lên một điều: Schiller tội nghiệp là nạn nhân của việc không ngưỡng mộ nổi người bạn vĩ đại của ḿnh.
Tất nhiên có thể có quan điểm cho rằng: Goeth với sức mạnh của sự vĩ đại, của sức hút ma quái tri thức đă tiêu diệt một Schiller hiền lành hơn, nhạy cảm hơn, và trong sạch, cao cả hơn.
Có thể quy trách nhiệm cho Goeth v́ cái chết sớm của Schiller: đă mặc kệ một con người duy nhất, kẻ có khả năng đọc các con bài, kẻ có một tâm hồn trong sạch và con trẻ duy nhất có khả năng nhận ra, lật tẩy ư nghĩa đích thực nhất của sự mê hoặc mà Goeth tạo ra.
Sự giải thích này cũng giả dối như nhận định trên.
Cách phán xử đúng đắn không nằm về phía cả hai cá nhân mà nằm trong người thứ ba: Hölderlin, trong một nhà thơ mà ánh hào quang của cả hai người kia đă làm lu mờ đến nỗi người ta không nhận ra ông.
Hölderlin sống và viết trong một cuộc đời vô danh, ông, người bị nỗi tự do tươi tỉnh và trầm tĩnh của Goeth cũng như sự sôi nổi, trong sáng nhẹ nhơm như không khí của Schiller nhấn ch́m.
Trong ba người Goeth là kẻ vinh quang nhất, Schiller ít hơn một chút, c̣n Hölderlin không có chút vinh quang nào, cho dù trong cả ba người Hölderlin mang tính chất nhà thơ nhiều nhất, Schiller ít hơn một chút, và ở Goeth ít nhất.
Theo một ví dụ cổ điển nhà thơ là kẻ anh hùng và là nhà tiên tri. Bản chất này của nhà thơ phù hợp với thời cổ. Đầu thế kỷ XIX sự cách tân h́nh thức của thi ca cổ điển không thể tái tạo được bản chất cổ xưa của nhà thơ. Vị trí thiêng đă bị cháy, khu vực Temenos bắt đầu trống rỗng.
Cần phải đảm nhận. Kẻ nào không đảm nhận, kẻ đó bị đẩy ra. Nhà thơ trở thành một thực thể linh thiêng (sacer), người gánh tội lỗi của dân chúng lên vai ḿnh trước các Quyền lực. Chỉ trong một ḿnh nhà thơ chứa đựng những sức mạnh thiêng có thể đánh trả lại được những tội lỗi đen tối.
Goeth không phải một kẻ đảm nhận. Thậm chí, chỉ là một kẻ thưởng thức.
Faust, kẻ ngây ngất, kẻ rũ khỏi bản thân ḿnh tất cả, để có thể tồn tại tự do một cách kiêu ngạo, để trầm tĩnh và tươi tỉnh, không bị ràng buộc một cách thản nhiên.
C̣n Schiller ghen tị với niềm tự do dạt dào và không bờ bến này. Schiller cảm thấy không thể chịu đựng được, một nhà thơ với những khả năng trời phú như Goeth, lại khước từ không tham dự, những ǵ một poeta sacer vĩ đại như thế cần đảm nhận.
Schiller sai lầm ở chỗ ông tin rằng cái cử chỉ linh thiêng đảm nhận chỉ Goeth có thể làm được. Theo ông đúng nhất Goeth, kẻ vĩ đại hơn ông cần là người ǵn giữ Temenos và gánh vác những tội lỗi đen tối. Bên cạnh Goeth ông cảm thấy ḿnh không đủ cao cả và xứng đáng với sự đảm nhận linh thiêng này.
Schiller đau khổ, v́ Goeth không hiểu, không nhận ra điều này. Hay đúng hơn, ông đau khổ v́ thấy Goeth rất biết cần phải làm ǵ, nhưng không muốn từ bỏ sự thanh b́nh cá nhân, niềm khao khát hạnh phúc kiểu Faust và nỗi đam mê vui sướng kiểu titán. Goeth cố t́nh xa lánh những nỗi đen tối, nhắm mắt trước t́nh thế rung chuyển của hoàn cảnh thế giới, im lặng, phủ nhận, dối trá.
Goeth đă từ bỏ nhiệm vụ làm một nhà thơ linh thiêng, một poeta sacer. Nhưng kẻ nào chạy trốn nhiệm vụ sẽ đùn đẩy sang cho người khác. Thế là nhiệm vụ ǵn giữ khu vực thiêng Temenos được đẩy sang cho một kẻ thứ ba: Hölderlin.
Kẻ không đảm nhận, đùn đẩy cho người khác, kẻ không làm, muốn người khác làm. Cả Goeth và Schiller đẩy cái trách nhiệm của Nhóm Thiêng cho một kẻ duy nhất sống trong cùng thời đại ḿnh, người đảm nhận và thực hiện: Hölderlin.
Sau cùng, chỉ một trăm năm sau người ta mới nhận ra một điều: nhà thơ cổ điển chân chính của Đức không phải Goeth cũng chẳng phải Schiller mà là Hölderlin. Tại sao vậy? V́ cái điều Schiller v́ ḷng kính trọng muốn nhường cho bạn: nhiệm vụ canh giữ không gian thiêng Temenos, đă bị Goeth từ chối.
Vinh dự này rơi xuống ai đảm nhận nó. Người dám đảm nhận và gánh chịu tất cả cái ǵ đến- mọi tội lỗi tối tăm của dân chúng. Er fernab fühlt allein das ganze Elend und die ganze Schmach, như George viết: tự bản thân nó cảm thấy tất cả sự bần cùng và mọi tủi nhục.
10.
Đến giữa thế kỷ, t́nh thế trở nên ngày mỗi rơ ràng hơn.
Baudelaire đă hiểu, không thể lựa chọn được nữa: số phận nhà thơ không chỉ của kẻ diễn đạt, của đầu óc thiên tài, của kẻ từng trải, kẻ đi chắt lọc, của kẻ anh hùng hay nhà tiên tri đi nữa. Trở thành nhà thơ có nghĩa là đảm nhận sự ǵn giữ h́nh ảnh tượng trưng xứng đáng với con người, h́nh ảnh này đang bị bỏ rơi và biến mất.
Nhà thơ đồng nghĩa với việc trở thành vua, giáo chủ, nhà tư tưởng, quan ṭa, tướng lĩnh, chính khách- chính v́ thế so với mọi nhiệm vụ khác, nhiệm vụ của nhà thơ đơn độc, cô đơn, trong bí ẩn, không vinh danh, thậm chí tách xa rời đám đông, mọi ư nghĩa việc làm của nhà thơ ẩn dấu trong bản thân việc làm đó, và không một lời nào được nhắc đến cái cá nhân.
J’ai plus de souvenirs que si javais mille ans…je suis un cimetiére…un pyramide, un immense caveau,qui contient plus de morts que la fosse commune- Số phận tôi khốn khó, như thể tôi đă sống hàng ngàn năm…tôi là nghĩa địa…piramis, sự đứt đoạn tan tành, trong đó nhiều người chết, hơn cả một hố chôn tập thể.
Nhà thơ là nấm mồ của vua chúa, tướng lĩnh, nhà nghệ sĩ, giáo chủ đă chết, là kẻ ǵn giữ tầm vóc con người trong bản thân ḿnh cho đến khi phục sinh.
Và điều này không được cho ai biết: étre un saint et un hero pour soi-méme.
Bí mật. Số phận này ít ai gánh vác nổi mà không gặp tai họa.
11.
Trong số phận của poeta sacer khó nhất là chịu đựng mối quan hệ với dân chúng.
Nhà thơ gánh vác số phận của nhân dân. Nhưng nghi thức này lại cần bí mật, bởi nếu lộ ra, ư nghĩa bí ẩn của nó biến mất. Ngoài ra, nếu nghi thức này bị lật tẩy, và ư nghĩa bản chất của nhà thơ lộ ra, dân chúng sẽ lập tức tấn công.
Bởi dân chúng ngày nay đă ch́m nghỉm sâu đến nỗi không nh́n thấy những tội lỗi của ḿnh; họ cảm họ thấy vô tội, trong sạch và cao cả. Khi nh́n thấy nhà thơ gánh lên vai những tội lội này, họ bắt buộc phải nhận ra t́nh thế. Họ biết, họ nh́n thấy bản thân ḿnh từ nhà thơ. Họ biết và giờ đây không thể chối căi được nữa: họ đang sống trong sự ô nhục không chút thiêng liêng.
Khi họ nh́n thấy kẻ đau khổ bần cùng” kẻ bị nguyền rủa”, họ rất hiểu tại sao kẻ khốn khổ này lại đau khổ, và c̣n biết hơn nữa, ai là kẻ đáng bị nguyền rủa.
Thế là trong nỗi điên cuồng ma quỷ của sự giận dữ bùng lên, họ túm lấy nhà thơ, ném bùn, lăng mạ, xua đuổi, vu cho là kẻ điên rồ, và phủ nhận. Dân chúng không chịu được. Họ không yên chừng nào nhà thơ chưa bị tiêu diệt. Chừng nào chưa vỡ chiếc gương phản chiếu chính những nỗi khủng khiếp của họ.
Trước thế kỷ XVIII, người ta chưa biết ǵ về h́nh dạng các nhà thơ bị phủ nhận và bị xuyên tạc. Nhưng hai trăm năm gần đây, thực chất chưa hề có nhà thơ chân chính nào lại không đau khổ v́ sự chế riễu, xua đuổi, sỉ nhục, và cuối cùng bị bẻ gẫy.
Nhà thơ chỉ chợt nhận ra muộn hơn một chút, vào cuối thế kỷ, khi mối quan hệ với dân chúng đă bước sang giai đoạn nhà thơ không thể xuất hiện công khai.
Ngược lại. Cần t́m kiếm một sự bảo vệ, để tránh xa sự đụng chạm của cộng đồng, của dân chúng và sự nổi tiếng. Ai không hiểu ra điều này, không ǵ có thể chống đỡ lại sự diệt vong nhục nhă. Người nào biết, bằng cách thức riêng, có thể tách ḿnh ra khỏi dân chúng.
Một cách như thế nào đấy cần làm cho ḿnh không với tới được, không động chạm tới được. Cần giữ khoảng cách với sự công khai. Cần ẩn dật và sống trong bí ẩn; viết bằng một ngôn ngữ khó hiểu; nâng ḿnh lên thế giới tinh thần cao hơn; t́m ra những tượng trưng đặc thù và cá tính riêng biệt.
Thi ca giữ ǵn một sự linh thiêng cần đọng lại bên trong, chỉ những người am hiểu biết về nó.
Về những bí ẩn này phần lớn chỉ thế hệ sau, sau cái chết của nhà thơ mới được phép hiểu ra. Như thể ngọn lửa thiêng cháy ở đâu, cạnh ai, không được phép biết. Cần phải dấu kín trước sự bần cùng đẩy tất cả mọi người vào cái chết, dấu trước kẻ nổi khùng v́ bị ch́m nghỉm xuống vũng bùn.
12.
Mallarmé là nhà thơ đầu tiên nh́n thấy sự lẩn trốn có kế hoạch cũng đánh mất ư nghĩa của nó.
Bởi kẻ nào tự khóa ḿnh ḿnh, sẽ phá sản; không thể sống đời sống thật sự trong không khí, trong các lâu đài tinh thần, trong bộ đồ cải trang. Đúng là nhà thơ không được phép t́m kiếm dân chúng; thi ca nào muốn b́nh dân hóa, tự phản bội lại ḿnh. Điều này không có ngoại lệ và không thể.
Nhưng sự tách biệt không giải quyết được t́nh thế, bởi tách biệt khỏi nhân dân thi ca trở thành sự vụ riêng và vô nghĩa. Cần bày tỏ, không phụ thuộc vào việc dân chúng hiểu như thế nào và coi nó là ǵ.
Nhà thơ bằng sự ẩn náu, tránh xa lời chế riễu, sự săn đuổi và sự bẻ gẫy, chính là bước cuối cùng của số phận poeta sacer muốn cứu bản thân. Muốn cứu sự ǵn giữ Nhóm Thiêng.
Nhà thơ hoàn thành số phận của người canh đền Temenos khi trở thành kẻ hy sinh.
Đấy là ư nghĩa đích thực của cuộc đời một THI SĨ THIÊNG LIÊNG, một poeta sacer: Khi mọi tầm vóc lớn lao của con người lùi bước, mọi vị trí linh thiêng bị bỏ trống, chỉ c̣n lại một ḿnh, người giữ Ngọn Lửa Thiêng, và chính v́ vậy cần phải cháy trong ngọn lửa ấy và v́ ngọn lửa ấy.
Bởi vậy kẻ linh thiêng chính là nhà thơ: bởi vậy nhà thơ đảm nhận vai người gác đền Temenos để giữ lửa bằng chính cuộc đời ḿnh và cái chết của ḿnh.
Bởi vậy nhà thơ cao cả và bần cùng, là thượng đế và là kẻ bị nguyền rủa, là linh thiêng và kẻ khốn khổ. Sự hy sinh này không phải ngọn đuốc sân khấu, không phải cái chết công khai trên dàn thiêu, sự tử h́nh, cái chết bi thương hùng vĩ trên tranh vẽ có thể dán kín trong các pḥng.
Ví dụ về điều này đầy rẫy, từ Hölderlin đến Baudelaire, cho đến tận ngày hôm nay.
Không phải bi kịch gây tác động, mà là những đau đớn âm thầm chậm răi gặm nhấm, là sự tàn phá bào ṃn âm ỉ, là những cơn thần kinh, những mê đắm, là các loại bệnh tật, là nỗi nghi ngờ bệnh hoạn, là sự sợ hăi, sự ch́m nghỉm vào những thoái hóa, những cơn giận giữ ngạt thở, sự hấp hối giữa những chất độc ngạt thở, hôi thối.
Sự hy sinh diễn ra chính trong những nơi ẩn náu, như một chiến thắng: bi kịch của nhà thơ trong sự bí ẩn biến thành sự hy sinh.
Và chính trong sự bí ẩn này nhà thơ là kẻ chiến thắng, như hàng động thất bại của y. Bởi tất cả đều là tượng trưng, sự ǵn giữ Temenos cũng như việc đảm nhận mọi tội lỗi, là sự vinh quang tiếp xúc với các Quyền lực và là lời nguyền rủa của sự hủy diệt nhục nhă.
Sự bí ẩn thiêng liêng không ai được phép biết: đấy chính là cách cần phải sống, không phụ thuộc vào việc ai nh́n thấy hay ai không nh́n thấy. Không cần dấu diếm. Không được phép. Nhưng cũng chẳng cần bước ra công khai. Không được phép.
Chỉ một điều duy nhất được phép và cần làm: đảm nhận. Gánh lấy số phận và trở thành vật hy sinh.
13.
Sự thán phục trước thi phẩm cao cả và giàu có của Mallarmé giờ đây không phải là một nhiệm vụ. Mà chỉ có nghĩa rằng:” Mọi sự bài trừ của cái không gọi là nghệ thuật từ thi ca sẽ đẩy nhà thơ đến bên lề của vực thẳm”.
Sự bài trừ này dẫn đến phá sản. Thi ca bắt đầu loanh quanh biến thành kỹ thuật và ngữ văn.” Điều này bắt đầu từ chủ nghĩa duy tâm mỹ học thuần túy, chống lại tự nhiên, cần thanh toán cái bóng của sự sống trừu tượng ”.
Cần để luận điệu cái TÔI được nuông chiều và đi chệch hướng này câm bặt. Cần từ bỏ căn nhà ấm áp, cần bóp chết sự kiêu căng trống rỗng, và cần phải tiêu diệt sự giả dối quư tộc ngu ngốc của cách suy nghĩ này.
Sự kiêu căng của tôn giáo cái đẹp của nhà thơ tách rời đám đông và „ sự trinh tiết trừu tượng” của cái đẹp- trở thành siêu nhân tăng dần biến thành thứ tinh thần thi ca ma quỷ, như Herodias, người đàn bà c̣n trinh và không khả năngsinh đẻ, bởi ǵn giữ chỉ cho bản thân ḿnh ánh bạc của ốc biển từ nước da, ánh vàng hương thơm từ mái tóc, một sắc đẹp sao sa mà sư tử nh́n thấy phải cúi đầu và nhắm mắt.
Đây không phải sự hy sinh!
Không phải như vậy, trinh tiết, vô sinh, không biết đến động pḥng, như những viên đá quư lạnh lẽo.
Nhà thơ cần phải hiến dâng cái đẹp: cho cái Không có ǵ. Trong Mallarmé đă nảy sinh nghi ngờ rằng thi ca một lần và măi măi không thể chỉ ở trong cái lâu đài tinh thần, và nhà thơ không thể vĩnh viễn chỉ là parnassien.
Thậm chí, không chỉ một lần, và măi măi, và vĩnh viễn là một giải pháp: tất cả các nhà thơ cần bắt đầu lại từ đầu, cần sống trọn vẹn số phận đă dành riêng cho ḿnh.
Tất cả mọi người cần thành vật hy sinh một cách không thể biết trước, không thể chuẩn bị trước.
Nếu không mọi việc trở nên dễ dàng, v́ có khả năng để thực tập, con người có thể làm quen và học hỏi.
Thời của Baudelaire đă qua: ông đă trở thành vật hy sinh như thế; thời của Parnasse đă qua: họ cũng đă trở thành vật hy sinh như thế; thời của Verlaine đă qua: ông đă trở thành vật hy sinh như thế.
Mallarmé đă nhận ra, ông cần phải trở thành khác và ông đă đảm nhận.
14.
Tầm vóc và sự nguy hiểm của hiện sinh thi sĩ ngày nay không đâu thể hiện rơ bằng ở nhóm Stefan George.
Nhóm không xuất phát để trở thành ǵ, để xuất hiện trước công luận và rải rắc vàng bạc, thứ gọi là thi ca.
Trái lại: cần nh́n thấy chân lư của Mallarmé, nhà thơ mọi giá cần phải đứng bên ngoài đám đông
Quan hệ của nhà thơ với đám đông thay đổi: không t́m sự b́nh dân hóa, mà chống lại sự b́nh dân hóa.
George lập tức nhận ra, trong thi ca có một cái ǵ đó bí ẩn, không ai được phép biết. Cùng lúc George hiểu Mallarmé có lư: một lực lượng tinh thần vô nghĩa ngày mỗi tăng dần trong thời hiện đại, không chỉ vinh danh khoa học mà c̣n tấn công cả thi ca.
Thứ ngôn ngữ vô cảm và trần trụi được sử dụng, ngôn ngữ ma quỷ. Đây là poésie pure, đi cùng với con người vô nghĩa lư – „ „Ảo tưởng khủng khiếp của tác phẩm thủy tinh”- „Tội ác của cái nh́n tinh khiết”.
Đứng ngoài đám đông, nhưng sống cuộc sống của những tạo phẩm bằng từ ngữ ma quỷ của tạo hóa: đấy là nhiệm vụ của George, đấy là nhiệm vụ dành cho Kreis- vài người, chỉ vài người thôi, những người không thể sống một cuộc đời không linh thiêng: đấy là Nhóm.
Chưa bao giờ có được không khí sùng kính của Temenos như thế trong nhóm George. Họ- những người canh giữ ngọn lửa thiêng, những kỵ sĩ của bàn tṛn Grál, vinh danh các lĩnh vực khác nhau của Viết. Họ- các nhà thơ, các nhà sử học, các nhà tư tưởng, không phải vinh danh họ, mà cho một trung tâm siêu phàm vô h́nh.
Bởi sự đắc thắng của cái TÔI đă phá vỡ cái thiêng liêng trong một gian đoạn mà cá nhân chỉ c̣n một sứ mệnh duy nhất: hiến dâng bản thân, v́ sự ch́m đắm của nhân dân và cộng đồng, ḥa giải với các Quyền lực.
Có thể hiểu được điều này trong khẩu hiệu lớn của nhóm George: sự Phục vụ.
Sức lực và tầm vóc của mọi thành viên trong nhóm phục vụ cho Ngọn Lửa thiêng. Đẳng cấp hiệp sĩ đúng với họ hơn là một nhóm văn sĩ, những thiên thần của Ngọn Lửa Thiêng đúng với họ hơn là các hiệp sĩ.
15.
Cái tên thứ ba: Robert Bridges – nhà thơ người Anh chỉ ra một con đường không chạm đến thiên tài nhưng t́m đến một sở thích cao cả.
Thi phẩm của Briges bên cạnh Mallarmé và George không nghĩa lư ǵ. Nhưng cá tính của nhà thơ Anh này nếu chưa đủ là sacer th́ cũng là một tinh thần quư phái và bản chất cao cả của ông thông hiểu sự linh thiêng.
Sự nghiêm túc của Briges được biết đến bởi hai dấu hiệu: một là sự suy tưởng của nhà thơ(metanoi): thay v́ t́m kiếm sự đại chúng, b́nh dân hóa, ông đi t́m sự bảo vệ chống lại đám đông;
Dấu hiệu thứ hai: accent religieux – một trọng lượng tôn giáo, cái không ǵ khác ngoài việc nhà thơ nhận ra: các Quyền lực đă trao cho ông một trọng trách.
Cạnh hai dấu hiệu lớn này ở Briges chất thiên tài của ông lại ốm yếu và vô sinh.
Trong tác phẩm lớn của ḿnh ( Testament of Beauty) ông viết về tôn giáo của cái đẹp; một tác phẩm trong sáng, mang tính mỹ học thi phẩm nhiều hơn tôn giáo. Ngôn ngữ tác phẩm gần với sự vô nghĩa lư( sterilh) hơn là tính chất quỷ thần (daimonikus).
Ông c̣n mắc một căn bệnh Mallarmé gọi là bệnh maladie d’idealité
16.
Một vài tác giả nổi tiếng cho rằng, khi Napóleon thất bại, bộ mặt của thế giới cần thay đổi.
Napóleon là người cuối cùng thử giữ ǵn truyền thống của nhân loại vĩnh cửu, hay đúng hơn là tái tạo lại.
Cái ǵ là truyền thống của nhân loại vĩnh cửu?
René Guénont – Pháp trả lời như sau:
Truyền thống là sự duy tŕ liên tục mối quan hệ giữa con người và thế giới siêu việt, là ư thức về gốc rễ linh thiêng của con người và sự bảo tồn một nhiệm vụ duy nhất của con người là đồng dạng với thế giới linh thiêng.
Sau thất bại của Napóleon, việc bảo tồn truyền thống trên danh nghĩa tập thể trở nên không tưởng.
Điều có thể thấy trong nhân dân – nay đă trở thành đám đông- là sự phai mờ thậm chí biến mất của ư thức truyền thống. Napóleon, thay v́ lập lại trật tự của truyền thống, đành thỏa măn với một tiêu cực khác: gánh lên vai ḿnh những cơn lốc khuấy lên từ thế giới ma quỷ của cách mạng Pháp và trở thành nạn nhân của nó.
Các Quyền lực phán quyết với Napóleon sacer esto, cái các giáo hoàng La mă nói với con vật bị tế thần: mi hăy trở thành linh thiêng và bị nguyền rủa, trong lời nguyền rủa đă thánh hóa này, mi hăy chết nhân danh nhân dân.
Napóleon là rex sacer cuối cùng, là hoàng đế thất bại bi thảm khi muốn lập lại sự thống nhất cho nhân loại, thất bại trong chính sự đảm nhận lớn lao muốn thế giới siêu việt một lần nữa gắn liền với lịch sử.
Thất bại của Napóleon khiến truyền thống bị gián đoạn; Sự duy tŕ mối quan hệ với thế giới siêu việt rơi khỏi tay hoàng đế.
Đây là giây phút các thi sĩ thiêng liêng- những poeta sacer trong lịch sử thế giới xuất hiện: trong h́nh dạng của Hölderlin, Keats, Shelley.
17.
Cả lịch sử văn học, cả lịch sử tư tưởng, cả xă hội học lẫn h́nh thái học văn hóa đều không hiểu và không thể hiểu nhà thơ, bởi tất cả các khoa học đều t́m cách giải thích xă hội, các mối quan hệ, các tiền bối, các tác động…từ dưới lên.
Ai hiểu Thi sĩ thiêng liêng- poeta sacer như một sự hy sinh, người đó cũng lầm nốt. Mặt tiêu cực: vai tṛ nhà thơ đảm nhận khi bị hủy hoại ở mức độ cao là một chiến thắng.
Tự ḿnh gánh vác số phận con người vũ trụ là một khoảnh khắc không thể từ bỏ. Trong tầm vóc nào nhà thơ hiến dâng bản thân?
Nhà thơ luôn quay về sự sống. Chỉ trong thế giới của sự sống mới xảy ra cái thất bại của Napóleon, một rex sacer. Đây là sự thất bại của ư đồ điều chỉnh lại nhân loại vũ trụ, ư đồ thiết lập lại một lần nữa sự thống nhất giữa thế giới siêu việt và lịch sử thế giới người.
Đây chính là điều kẻ nhận ra bản chất hy sinh của nhà thơ chưa hiểu hết.
Cần phải hiểu tṛn vẹn như sau: bản chất hiện sinh của nhà thơ không phải trên những mặt tiêu cực, mà nằm trong những khoảnh khắc tích cực.
Nhà thơ không chỉ ǵn giữ truyền thống mà luôn luôn làm mới, tái tạo lại bằng logos, bằng sức mạnh của lời.
Khi sự thống trị của vua chúa không thể giữ nổi mối quan hệ với sự sống linh thiêng, lúc đó nhà thơ bước lên, nhà thơ, người ǵn giữ mối quan hệ này :bằng lời.
Và không chỉ ǵn giữ, c̣n luôn luôn tái tạo như một bản hợp đồng, một cây cầu, một mối quan hệ- để tiếp tục một truyền thống người vĩnh hằng, tái tạo liên minh với sự linh thiêng.
18.
Giờ đây t́nh thế đă chín muồi để có thể nhắc đến một cách song song giữa nhà thơ cổ và nhà thơ hiện đại.
Không thể, không bao giờ được phép phán xét nhà thơ như một hiện tượng xă hội lịch sử tinh thần cứng nhắc.
Nhà thơ luôn luôn là một h́nh tượng truyền thống theo cách hiểu của Guénon.
Nhiệm vụ của nhà thơ: duy tŕ sự liên tục của mối quan hệ giữa con người và thế giới siêu việt, là ư thức về nguồn gốc linh thiêng của nhân loại, là sự ǵn giữ nhiệm vụ cơ bản duy nhất của số phận người khi đồng nhất với sự linh thiêng.
Các nhà thơ thời cổ, các nhà thơ Hindu, Iran, Trung hoa, Ai cập, Hy lạp xưa kia sống trong các dân tộc mà bản thân họ chứa đựng tất cả: vai tṛ linh mục, thủ lĩnh, vua chúa, trong con người họ chứa sẵn truyền thống, bởi vậy họ không cần tái tạo lại truyền thống.
Sự khác biệt giữa bản chất hiện sinh của nhà thơ cổ và nhà thơ hiện đại ở chỗ: con người với lịch sử lúc đó thống nhất làm một, là một hiện thực.
Chính v́ vậy đă từng có nhà thơ sacer, nhà tiên tri, nhà tư tưởng, vua, chính khách, xuất phát từ cuộc sống cộng đồng một cách tất nhiên về một thực thể sacer, trong ư thức của tất cả mọi người.
Nhà thơ hiện đại không sống trong một hiện sinh thụ động. Dù bị đóng dấu bằng sự lố bịch, bị bỏ rơi, bị chế riễu, hiểu lầm, nhưng trên vai nhà thơ hiện đại vẫn là gánh nặng tượng trưng lớn lao của nhân loại.
Nhà thơ hiện đại hoàn toàn một ḿnh, tự ḿnh duy tŕ truyền thống, và bằng sức mạnh của Lời Thiêng tái tạo đổi mới liên minh giữa sự sống linh thiêng với số phận con người.
Khi Chúa Giê su làm phép lạ, các tông đồ ngây người thành kính, Chúa nói, không phải với các tông đồ mà với loài người: Các người hăy đừng ngạc nhiên, bởi các người sẽ làm những việc c̣n lớn hơn việc ta làm- nhân danh ta.
Công việc đổi mới liên minh giữa số phận con người và sự sống linh thiêng: là nhiệm vụ của những số phận vua, linh mục, chính khách, và nhất là sacer.
Tất cả những điều này nhà thơ cổ đại không biết và không thể hiểu được.
Nhưng trong nhận thức của bản chất tạo dựng Logos nhà thơ cổ đại và hiện đại gặp nhau.
Nhà thơ là thực thể sử dụng ngôn ngữ cổ. Không phải thứ ngôn ngữ ngày thường- một công cụ thoái hóa, không phải thứ ngôn ngữ vô nghĩa, thứ ngôn ngữ Herodias trinh tiết trừu tượng- mà là thứ ngôn ngữ khiến Mallarmé sởn tóc gáy.
Ngôn ngữ của nhà thơ là thứ ngôn ngữ quỷ thần, tự trong bản thân nó ǵn giữ danh tiếng của các Quyền lực vũ trụ- trong bản thân nó giữ ǵn những kư hiệu thần linh có thể giải phóng hoặc ǵm giữ lại sức mạnh của các Quyền lực, trong bản thân nó ǵn giữ liên tưởng đến Logos cổ kính linh thiêng.
Cái ǵ là liên tưởng logos cổ kính linh thiêng?- đấy là khả năng sáng tạo bằng sức mạnh của Lời.
Logos cổ là tạo hóa của sự sống, là Lời tạo dựng ra thế giới.
Hölderlin nói: thứ ngôn ngữ này là một trong những thứ nguy hiểm nhất của đời sống con người - từ sacer- trong đó ấp ủ chặt chẽ các quyền lực siêu phàm, và sự động chạm của các bàn tay chưa được thánh hóa có thể hóa phép ra những quái vật.
Chỉ ai có bản chất sacer, mới có thể nhận biết ra các h́nh thái tiếp xúc tthần linh. Không được phép nói ra, bởi có thể gây nguy hiểm cho cả bản thân và cho con người. Những kẻ chưa được thánh hóa, những nhà ảo thuật rởm, ma quỷ không phục vụ họ mà tiêu diệt họ.
Nhiệm vụ của poeta sacer mang tính chất thụ động, là phải trở thành vật hy sinh- khoác lên ḿnh ma quỷ của sự đắm ch́m của dân chúng và bị hủy diệt trong đó.
Tính tích cực của nhiệm vụ poeta sacer: bằng logos tạo dựng không ngừng mối quan hệ giữa số phận con người và sự sống linh thiêng.
Những ǵ đă bị những đôi tay kiêu ngạo dơ bẩn, chưa được thánh hóa phá hoại, cần phải sắp xếp lại bằng cách luôn luôn chỉ ra: cần bám giữ lấy sự sống đang ch́m đắm vào vật chất, cần mang lại ánh sáng, sức mạnh, tri thức, sự sâu sắc, sự thật, cái đẹp, sự thánh thiện và c̣n hơn thế nữa: nhân danh ta, các ngươi sẽ làm được nhiều việc c̣n lớn hơn ta làm.
Phục vụ cho các Quyền lực chưa đủ, cần phải nắm giữ lấy những quyền lực đó.
Chưa đủ chỉ sống từng trải trong thế giới, cần phải tạo ra thế giới nữa.
Sự sống thiêng liêng dành cho con người không chỉ mở, mà luôn luôn cần phải mở tiếp.
Và cái tôi phải trả giá cho nó không ít, chính là bản thân tôi: tôi cần phải hiến dâng.
Nhưng chỉ hiến dâng tôi không đủ, sự hy sinh cũng vẫn ít: bằng sức mạnh của Lời tôi cần mở rộng sự siêu phàm.
Chỉ lúc đó tôi mới có thể là sacer.
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung
(2009-10-18)