Tiểu sử nhà triết học, nhà văn hiện đại lớn nhất của Hungary
Hamvas Béla (1897-1968)
Hamvas Béla sinh ngày 23.03. 1897 tại Eperjes (nay thuộc Slovakia) trong một gia đ́nh linh mục thiên chúa giáo. Năm 1898 v́ nghề nghiệp của cha, gia đ́nh ông chuyển đến Bratislava.
Năm 1915 sau khi tốt nghiệp trung học Hamvas Béla t́nh nguyện ra nhập quân đội, sau một năm, bị thương, ông trở về nhà và bắt đầu đọc Kant, Rimbaud, Dostojevski, Schopenhauer, nhưng trước hết ông đọc Nietzsche.
Thời kỳ này ông viết trong tập tiểu luận Patmosz như sau: ”…Tác phẩm Phê phán thời gian của Kierkegaard rơi vào tay tôi. Không xă hội, không nhà nước, không thi ca, không tư tưởng, không tôn giáo, những ǵ hư hỏng và đầy rẫy dối trá. Đúng vậy, tôi nghĩ. Nhưng điều này cần phải bắt đầu từ một khi nào đấy. Tôi bắt đầu đi t́m chấm đen này. Hạt nguyên tử, hay sự dối trá đầu tiên… Tôi quay trở lại từ giữa thế kỷ đă qua đến cách mạng Pháp, đến thời kỳ ánh sáng, đến chủ nghĩa duy lư, từ thời trung cổ đến những người Hy lạp, đến những người Heber, Ai cập, đến người mông muội. Sự khủng hoảng đâu đâu tôi cũng bắt gặp, nhưng sự khủng hoảng c̣n nói lên một cái ǵ đó sâu sắc hơn. Chấm đen này c̣n ở phía trước, phía trước nữa. Tôi đă vấp phải lỗi lầm đặc thù của người châu Âu, đi t́m chấm đen bên ngoài con người ḿnh, thực ra nó nằm trong bản thân tôi…”
Năm 1919 cha ông v́ từ chối không tuyên thệ trung thành với nước Slovakia, nên cả gia đ́nh ông bị đuổi ra khỏi Bratislava, chuyển đến Budapest.
Từ 1919-1923 ông học khoa Hung- Đức tại đại học Pazmany Peter, ông làm nhà báo 3 năm tại báo Tin tức Budapest và Szozat.
Từ 1927-1948 ông làm thủ thư tại thư viện thành phố. Thời gian này ông viết các bài nghiên cứu, tiểu luận, các bài phê b́nh cho 25 thể loại tạp chí, trong đó có những tạp chí nổi tiếng như Athenaeum, Nyugat.
Hamvas Béla cùng Kerényi Karoly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần lấy từ truyền thống Hy lạp cổ, nhóm này tụ tập rất đông đảo các nhà văn nhà triết học có tên tuổi của Hung như: Szerb Antal, Németh Laszló, Kövendi Dénes, Dobrovits Aladár, Molnár Antal và nhiều người khác.
Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936) nhóm Đảo tan ră sau khi ngă ngũ, một hoạt động cộng đồng tinh thần như thế này không thể thực hiện nổi. Hamvas Béla đă ghi lại những kinh nghiệm cay đắng về chuyện này trong cuốn Hyperion Hungary: „ Tôi ở đây giữa mọi người, trên trái đất này, mọi ư định của tôi đều không có kết quả, mọi từ ngữ của tôi vô ích, mọi kế hoạch của tôi tan vỡ, tôi đă thất bại, không nhận ra tôi, tôi trở nên thừa thăi, và không được chấp nhận.”
Trong những năm 30-40 ông viết gần ba trăm tiểu luận. Đối với ông viết là thực hành joga.
Ông lấy người vợ thứ hai, một bạn đời tinh thần rất quan trọng, bà Kemény Katalin (1909-2004), người sau khi Hamvas Béla mất, đă cùng Dúl Antal, một đại diện của hậu thế rất ngưỡng mộ ông, cùng chăm lo việc xuất bản các tác phẩm của ông.
Trong thời kỳ thế chiến thứ II, Hamvas Béla ba lần bị gọi vào quân ngũ, nhưng không ngăn cản được công việc dịch thuật của ông, như tác phẩm của các tác giả: Lăo tử, Böhme, Hêraclit, Khổng tử, Henoch.
Năm 1943-1944 ông viết tập I tác phẩm Scientia Sacra, cuốn sách đánh dấu giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn. Với cuốn sách này, ông ra nhập trường phái truyền thống với những nhân vật ưu tú nhất của thời đại: Julius Evola, René Guénon và Leopold Ziegler. Hamvas Béla cắt nghĩa về truyền thống là sự tồn trường phi thời gian của tinh thần. Tác phẩm của Hamvas -đầu tiên và độc nhất- lập ra một vũ trụ truyền thống, bằng sự tạo dựng nền tảng linh hồn nhận thức ra tinh thần.
Trong thời kỳ chiến tranh, tập tiểu luận triết học đầu tiên ra đời: ”Câu chuyện vô h́nh”(1943)
Ngay thời đó ông đă bắt đầu một công tŕnh lớn có nhan đề: „ Đại sảnh các vị tiền bối cổ”, kéo dài đến tận những năm 60. Tác phẩm của ông là một công tŕnh dịch thuật những cuốn sách cổ thiêng liêng quan trọng nhất, cùng với những chú thích kèm theo.
Năm 1944 từ mặt trận nước Đức, ông trốn trở về Budapest. Căn nhà trên sườn núi Bada của ông bị trúng bom tan tành thành tro bụi.
Hamvas Béla trong một tiểu luận của tập Slentium đă viết như sau: ”Trong những năm đen tối tôi đă bị mất tất cả của cải vật chất trên thế gian của ḿnh… Một kẻ nào đấy đă tước toàn bộ quyền sở hữu của tôi. Da tôi cũng tuột theo, nhưng thế là tốt… một sự tồn tại kiểu này chỉ có thể thực hiện sau khi thanh toán toàn bộ quyền sở hữu. Hiện thực bắt đầu từ đây.” Từ đó trở đi Hamvas Béla không bao giờ có nhà riêng và ông không bao giờ tích góp sách vở nữa.
Sau chiến tranh những hoạt động tinh thần hết sức đa dạng của ông bắt đầu. Ông biên tập một tuyển tập sách có nhan đề Những nghiên cứu nhỏ của Nhà in Đại học, gồm 30 tác phẩm riêng của Hamvas Béla - đấy là cuốn Một trăm cuốn sách, ông thu thập tài liệu và soạn dịch tác phẩm có tên Anthologia Humana „Minh triết của năm ngh́n năm”.
Ông tham gia hoạt động trong Hội Triết học và Mỹ học. Từ 1945 -1948 Hamvas Béla cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập một nhóm trí thức cấp tiến, được gọi là „những buổi trao đổi thứ năm hàng tuần”, với mục đích phanh phui, phân tích và đánh giá toàn bộ các t́nh huống về tinh thần của thời đại, với sự tham gia của nhiều nhà văn có tên tuổi khác như Varkonyi Nandor, Weores Sandor.
Nhưng đến năm 1948, trong những văn bản tranh luận, nhà triết học Hung lúc bấy giờ nghiêng về triết học maxit Lukacs Gyorgy đă góp phần đ́nh chỉ in cuốn sách Cách mạng trong nghệ thuật của Hamvas Béla viết chung với vợ Kemeny Katalin.
Bắt đầu từ đây Hamvas Béla bị tước tất cả các quyền biên tập, viết và xuất bản tác phẩm. Cũng năm ông bị buộc phải thôi việc và vào danh sách B - những người bị theo dơi gắt gao.
Hamvas Béla buộc phải xin một giấy chứng nhận làm nghề nông, với nơi làm việc là vườn cây của anh rể, từ 1948-1951 ông làm vườn, trồng hoa quả, và cuốn tiểu thuyết được coi là kiệt tác vĩ đại có một không hai của văn học Hung cũng như văn học thế giới Karnevar ra đời trong thời kỳ này. Ngoài ra ông c̣n viết những tác phẩm nổi tiếng khác như Unicornis, Silencium, cuốn Biên bản bí mật, cuốn Magia sutra.
Từ năm 1951 -1964 ông làm việc tại khu công nghiệp xây dựng –nhà máy nhiệt điện ở Inot, Tiszapalkony, Bokon, tại đây ông làm thủ kho. Bên cạnh công việc thủ kho này, ông học tiếng Heber, Sanskrit, dịch kinh Veda, Sankhya Karik, Sepher Jezirsh, Kathaka upanisad, Buddha…Trong thời gian này Hamvas Béla hoàn thành các tác phẩm: Patmosz, Đại sảnh các vị tiền bối cổ, Szarepta và Đêm giao thừa.
Năm 1964 ông về hưu. Trong ba năm cuối đời Hamvas Béla hoàn thành nốt các tác phẩm khác trong đó có Scientia Sacra tập II nổi tiếng. Ông viết chủ yếu là tiểu luận, một thể loại tự do, như một thí nghiệm thể loại. Mọi sáng tác của ông, kể cả tiểu thuyết đều ở dạng tiểu luận.
Ngày 7.10. 1968 ông mất sau một cơn chảy máu năo.
Cho đến tận những năm 70 của thế kỷ tác phẩm của Hamvas Béla chủ yêu chỉ lưu truyền dưới dạng bản thảo đánh máy.
Bắt đầu từ những năm 80, dần dần tác phẩm của Hamvas Béla được ra mắt công chúng, nhưng vẫn bị kiểm duyệt, ví dụ tiểu thuyết Karneval (1985) bị cắt xén trước khi được in.
Năm 1990 Hamvas Béla được truy tặng giải thưởng Kossuth.
Ngày nay Hamvas Béla được đánh giá là một trong những nhà văn, nhà triết học xuất sắc nhất trong nền văn hóa Hungary.
Nguyễn Hồng Nhung soạn dịch.
(2009-09-10)