Hamvas Béla
VIẾT VỀ:
JOURDAIN, Pierre Paul ”L'individualité de l'artiste.” 1936, Paris: Librairie Bon-court. 164 p.
Sự buồn tẻ, thứ đặc trưng cho phần lớn các tác phẩm lư thuyết Đức, ở người Pháp ít khi bắt buộc phải có. Tất nhiên, kể cả những cuốn sách vượt quá tính chất b́nh luận. Phần lớn các tác phẩm lư thuyết của Pháp viết rất tuyệt vời, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhưng rồi người ta ngán ngẩm đặt xuống, bởi sự rỗng tuếch của chúng.
Chỉ đôi khi có những tác phẩm ngoại lệ, ví dụ như của Jourdain. Ông viết ba công tŕnh nghiên cứu về tính chất cá nhân của nghệ sĩ (Nghệ sĩ cổ điển và lăng mạn- Hiện thực của nghệ thuật- Nh́n và hành động). Và tri thức chứa đựng trong tác phẩm đúng là tri thức. Phần lớn dựa trên các khảo nguồn của Nga và Anh, có thể cả từ ḍng Guyau-Gide, điều có thể hiểu được. Những tham khảo của ông không theo kiểu dữ liệu mà đi thẳng vào bản chất.
Ông không trích dẫn, mà những hiện tượng ông nêu mang lại cảm giác kinh nghiệm đă thu thập. Có thể nhận ra từ tác phẩm của ông dấu ấn của Darmstad và triết học hiện sinh, nhận ra các nhà lư luận Nga, và cả tác động của tri thức Anh đương đại. Ngoài ra tác giả là một độc giả nghiêm túc, am hiểu văn chương cổ điển trong lịch sử nghệ thuật, trong âm nhạc, về người nguyên thủy, ông quan tâm đến tâm lư học và am hiểu các tác phẩm mỹ học chuẩn mực.
Ở một tác giả nghiên cứu đa ngành, rộng lớn, phức tạp và thứ tự như thế tính hệ thống hay gián đoạn đều không đủ. Như thế nào đấy ông đứng giữa cả hai : vừa hệ thống vừa gián đoạn. Cùng lúc đó các tư tưởng của ông rất rơ ràng và sâu sắc.
Trong tác phẩm nghiên cứu đầu tiên tác giả Jourdain giải thích tính chất cá nhân của người nghệ sĩ từ phương diện tâm lư học. Có một loại nghệ sĩ tính chất của họ là tỷ lệ, là sự sáng sủa, là h́nh thức và sự đơn giản. Đây là dạng nghệ sĩ tinh thể, dạng pha lê. C̣n một loại nghệ sĩ khác mang tính chất gây tác động, thức tỉnh, thường xuyên gây nhiễu loạn và náo động. Đây là dạng nghệ sĩ sâu sắc. Thế là nảy sinh ra trong nghệ thuật và trong giới nghệ sĩ sự trái chiều của hai dạng người sáng tạo tinh thể và sâu sắc.
Dạng nghệ sĩ tinh thể, pha lê là dạng nghệ sĩ cổ điển: sáng tạo h́nh thức. Đặc tính của họ là sự điềm đạm, tươi tỉnh, phẳng lặng, tham dự. Đấy là Homeros, Horatius, Cornelle,Racine, Raffaello, Mozart. Trong cái họ sáng tạo luôn luôn có một cái ǵ đó dản dị rạng ngời. Đầy an ủi, kể cả khi bi thương, khiến người ta ngây ngất, kể cả khi gây chấn động. Chất liệu của nó là ánh sáng, đến màn đêm cũng trở nên trầm ngâm, kể cả khi h́nh thức của nó đầy hỗn loạn. Ở con người này niềm vui là sự vẹn toàn, là tích tụ của cảm xúc và kinh nghiệm, được gọt rũa, ngắm nghía, rơ ràng và dản dị.
Dạng thứ hai là dạng sâu sắc, dạng nghệ sĩ lăng mạn: mang đặc tính bất an, buồn bă, đầy rẫy oán giận, nặng nề, thô thiển và tăm tối. Những nghệ sĩ dạng này: Victor Hugo, Cervantes, Dosztojevszkij, Swift, Michelangelo, Shakespeare, Wagner.
Trong cái họ sáng tạo, luôn luôn là những đứt đoạn đe dọa. Làm bất an, kể cả khi vui vẻ, để lại lo lắng, khi cười. Trong cái họ sáng tạo, không có sự tươi tỉnh, cùng lắm có sự hài hước. Tính chất của tác phẩm mơ hồ, ngay đến ánh sáng cũng vẩn hơi mù sương. Niềm vui của dạng người này là sự bần thần, ngây ra nh́n vào sâu thẳm, là sự bới t́m, phân tích, sự tấn công, chế giễu, đến những nhân vật kiên định nhất cũng bị mổ xẻ, bị tháo rời từng mảnh và xâu xé thành từng mảnh.
Đến đây tác giả (Jourdain) bỏ lại lời giải thích về từng loại người sáng tạo, mà quay về với vấn đề hiện thực của người nghệ sĩ. Thoạt đầu có vẻ chủ quan. Chỉ sau cùng mới thấy ông đă làm đúng, bởi vai tṛ của tâm lư học chấm dứt, tiếp đến chính là hiện thực của người nghệ sĩ.
Con người, ông viết, trong cuộc sống thường nhật sống trong một hiện thực đầu óc tỉnh táo. Trong cái hiện thực này từ nền tảng thỏa thuận chung, giá trị, kư hiệu, ư nghĩa và h́nh thức của mọi người như nhau. Con người thực tế, thương gia, thày giáo, nhà chính trị, luật sư, nhân viên hành chính, không ngoại lệ, đều là những thực thể kém hiệu quả. Không chỉ từ quan điểm sáng tạo tri thức.
Bởi- Jourdain tuyên bố: cái công việc một thương gia thực hiện không làm cho nhân loại lớn thêm một milimet, không biết thêm ǵ về thế giới, cuộc sống không đẹp hơn và cũng chẳng khoái trá hơn. Tại sao thế?
Phải chăng bởi v́ giữa công việc và sự sáng tạo khác hẳn nhau về bản chất? Phải chăng chỉ có sự sáng tạo có hiệu quả, c̣n công việc th́ không? Phải chăng công việc không là ǵ khác ngoài là sự phục hồi cái không hiệu quả? Và công việc đă chứng minh cho một cuộc đời của những người đúng là cuộc sống của họ hoàn toàn vô nghĩa. Điều này nghe thật phù hợp. Nhưng vấn đề không phải chỗ đó.
Nhà thương gia, luật sư, người nông dân sống trong hiện thực, một cách hoàn toàn, từ trong ra ngoài, hiện thực đến tận xương. Nhưng cái hiện thực này hoàn toàn vô hiệu quả. Tại sao? Bởi v́ nó tan ră ra thành ngày tháng, giây phút, thành các nhiệm vụ, một cách như thế nào đó thiếu hẳn một chất kết dính, gắn bó, một sức mạnh tạo ra h́nh thức từ đời sống.
Khi đời sống bắt đầu kết tủa, tạo thành h́nh thức, khoác lên bộ mặt và cá tính, khi thời gian bắt đầu mang ư nghĩa, cuộc sống bắt đầu có nội dung, có phương hướng và vẻ đẹp, từ giây phút ấy con người bắt buộc bước ra khỏi cái thế gian có hiện thực đầu óc tỉnh táo.
Jourdain cho rằng có những sự kiện lớn xảy ra với con người, khiến họ dừng lại ở đó, và tất cả những ǵ sau đó xảy ra với họ, cùng lớn lên, ḥa nhập và tinh lọc trong cái ṿng sự kiện cảm nhận đó. Hiện thực đối với những người này không bao giờ c̣n trong cái nghĩa hiện thực như đối với các sĩ quan chẳng hạn.
Đây là những kẻ mơ mộng, những kẻ giàu trí tưởng tượng. Những nghệ sĩ. Và chừng nào một kẻ như vậy- chưa có một sự kiện xúc cảm trọng tâm, lớn lao, tác động đến sâu thẳm tính cách cá nhân, làm rung động trái tim nó, chừng nào cuộc sống và số phận của nó chưa bắt đầu kết tinh giữa cái ṿng sự kiện cảm nhận nảy mầm đâm chồi này, chừng đó nó chưa bắt đầu nh́n nhận tất cả bằng một cái nh́n khác: tất cả, từ một sự kiện cảm xúc, để ngẫm nghĩ, so sánh kinh nghiệm, nhưng khi nó vẫn chưa sáng tạo, chưa lập dựng h́nh thức, chưa t́m thấy chất liệu kết dính lớn lao, một sức mạnh duy tŕ vững chắc, chừng đó con người vẫn chưa phải là một nghệ sĩ.
Cái gọi là sự tỉnh táo lư trí đối với người nghệ sĩ là một sự trả thù. Phán xét sự việc như một nhà đại lư bất động sản không mang lại ư nghĩa ǵ cho họ. Bởi vậy từ quan điểm lư trí tỉnh táo nhà đại lư bao giờ cũng thực tế, nhưng từ phương diện hiện thực đích thực ông ta luôn luôn phi thực tế. Hiện thực với nhà đại lư là thế gian, là tiền, là quyền hành, là tiện nghi, nhưng người nghệ sĩ ở trong hiện thực ấy luôn luôn xa lạ, đơn điệu và điên rồ.
Nhưng không điên rồ không có nghệ thuật. Thậm chí một cuộc sống (gọi là) hiệu quả cũng không có luôn. Bởi v́, đây mới là điều quan trọng nhất: sự phi thực tế của người nghệ sĩ chỉ là ngộ giác của điên rồ; trong thực tế đấy mới chính là hiện thực thực tế nhất. Thế giới của nhà đại lư chỉ ngỡ là h́nh ảnh thực tế mà thôi.
Làm thế nào lại có nghịch lư này? Sự việc như sau: Cái có hiện thực, là cái mang tính chất cảm nhận. Tất nhiên. Bởi v́ đối với chúng ta chỉ có một hiện thực duy nhất là cảm nhận riêng của chúng ta. Chúng ta không biết tư ǵ về những sự việc khác của thế gian.
Trong thế giới của nhà đại lư không có những cảm nhận. Chỉ là ngộ giác, bởi vậy nó rơi xuống thành từng mảnh rời, như vụn bánh hoặc như cát. Cái h́nh ảnh mà nhà đại lư mang trong ḿnh về thế gian cũng vụn vặt, không h́nh dáng, hoặc không hiện thực. Thế gian thực sự không như nhà chính trị hoặc nhà thương gia nhận biết, trong hiện thực, như nó có, như là nó, mà như người nghệ sĩ nhận biết.
Tại sao? Bởi v́ người nghệ sĩ nhận ra thế gian như một cảm xúc, như một sự căng thẳng, một h́nh ảnh, một vở kịch. Thế giới của nhà thương gia đầy rẫy hoang tưởng và giả định, bởi v́ nhà thương gia sống một cuộc đời không hiện thực, bởi phi cảm nhận; c̣n người nghệ sĩ, số phận của nó từng trải, hay nói cách khác v́ xây dựng số phận từ hiện thực, nó nh́n thấy tất cả.
Cứ như vậy tác giả dẫn giải đến công tŕnh nghiên cứu thứ ba: liên hệ giữa sự kiện cảm nhận với dạng nghệ sĩ tinh thể, và thế giới phi hiện thực với dạng nghệ sĩ sâu sắc.
Nghệ sĩ cổ điển là người có sự cảm nhận lớn, nh́n thấu suốt thế giới một cách tinh túy, nhào nặn h́nh thức như bản thân nghệ sĩ cho là đúng. C̣n nghệ sĩ lăng mạn nh́n thấy sự khuấy động phi h́nh dáng của các sự vật vụn vặt.
Cổ điển không là ǵ khác ngoài: trật tự, vũ trụ, cái đẹp.
Lăng mạn không là ǵ khác ngoài sự lộn xộn, khuấy đảo và hỗn loạn.
Điều sau cùng có vẻ như là hiện thực, nhầm! Sự hỗn loạn không thể hiện thực hơn vũ trụ. Thậm chí: chúng ta đang sống trong trật tự của vũ trụ. Sự sống hỗn loạn là hiện thực, đấy là nhận định của các nhà đại lư, những kẻ tin vào cái hiện thực như họ thổ lộ.
Công tŕnh nghiên cứu này c̣n tiến thêm một bước nữa. Nó tuyên bố: nghệ thuật cổ điển là hiện thực, là tham dự, là trong sáng, cho nên thụ động. Lăng mạn là đam mê, là đau khổ, bởi vậy đây là điều tích cực.
Gần như có thể định nghĩa như sau: chỉ kẻ đau khổ mới cần phải hành động. Nhưng chỉ kẻ không thấy mới đau khổ. Và chỉ kẻ không sống trong thế giới hiện thực mới không thấy.
Đây là định nghĩa chính xác nhất có thể của người nghệ sĩ lăng mạn: phi hiện thực, bởi không thấy rơ ràng; bởi không thấy, nên đau khổ- bởi đau khổ, nên cần phải hành động. Đây là nguyên nhân của sự năng động không bờ bến, của sự chạy trốn, sự bồn chồn, bối rối.
Người cổ điển trái lại, họ thấy, bởi vậy họ thực tế, b́nh thản và không cần hành động, họ thụ động. Kẻ ở thế cao không phải là người hành động và chiến thắng, mà là kẻ thấy và mỉm cười. Bởi v́ thấy nhiều hơn là hành động. Luôn luôn đă và sẽ là như thế.
„ Không phải đạt đến mục đích, khi ta đă hoàn toàn cạn kiệt
mà khi ta đă t́m ra cái vô tận”
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung
(Budapest. 2011.05. 29)