THÁP BABEL
Kinh Thánh là một trong những cuốn sách cổ nhất. Cho dù không thể biết những sự kiện ghi trong sách có thực hay không, nhưng nhiều chứng cớ khảo cổ học cho thấy một phần những sự kiện này hoàn toàn có thật. Thật không ngờ, nhưng rơ ràng là như vậy, ví dụ tháp Babel, chính Thượng đế đă nghiền nát nó.
Theo Kinh Thánh người ta bắt đầu xây dựng tháp Babel ở Baybilon theo lệnh nhà vua Nimród. Nhà vua muốn thiết lập quan hệ với các vị thần sống trên trời, và khát vọng lớn nhất của Ngài là có thể đàm thoại với các sinh linh siêu việt.
Câu chuyện này rất lâu không hề có chút cơ sở khảo cổ học nào chứng minh, cho đến tận cuối những năm 1800 ở khu vực thuộc Irak ngày này đột nhiên lộ ra một vương quốc từ trước tới nay chỉ nằm trong huyền thoại. Đấy là những mảnh di tích c̣n lại ở Sinear mà nhiều văn bản cổ đă nhắc đến.
Đây là một vương quốc- theo kư ức thời ấy-nơi có một công tŕnh vĩ đại độc nhất vô nhị: người ta xây một cái tháp cao đến tận trời xanh để liên kết với các thần linh. Những bằng chứng tay cầm mắt thấy đă chứng minh: tại đây người ta quả thật đă t́m thấy những tàn tích của tháp Babel, những nền tảng của một ṭa nhà có nhiều bậc thang, xây theo h́nh kim tự tháp từ gạch nung.
Điều lư thú là Alexander đại đế từng chinh phục cả thế giới cũng kể lại rằng khi đến miền Cận Đông, chính mắt Ngài đă nh́n thấy những mảnh tàn tích c̣n lại của tháp Babel mà Kinh Thánh từng nhắc đến. Nhưng chúng ta đều biết, trong lịch sử không chỉ Alexander đại đế đối mặt với những bằng chứng này.
CÁC CHỨNG CỚ KHẢO CỔ HỌC:
Những chứng cớ t́m thấy trùng lặp với các sự kiện Thánh kinh, cho phép tin rằng tháp Babel từ trước tới nay chỉ được tin như một truyền thuyết quả là một câu chuyện có thật. Chất liệu xây dựng tháp đúng như được miêu tả trong Kinh Thánh một cách tường tận- những viên gạnh nung được lấy từ đất cát mà sau này với thời gian xuất hiện từ đấy những tinh thể thạch anh. Theo một số nhà bác học, chất liệu này là một bằng chứng về ư đồ muốn trao đổi thông tin với thần linh. Theo h́nh dung của Charles Dyer ṭa tháp xây từ những viên gạch có chứa nhiều tinh thể thạch anh này như một trạm thu khổng lồ tạo ra một radio thu thanh lớn. Rất cần lưu ư đến một điều, trên phù hiệu ở áo ngực hay trên dải mũ của các linh mục thời cổ luôn đính các viên đá thạch anh. Ṭa tháp, như một trạm thu thanh lớn phải chăng như một thiết bị thông tin từ các linh mục, các vị vua, hoặc giáo chủ?
Sự h́nh dung này được nhiều người tán đồng và về mặt kỹ thuật cũng khó mà nói đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Mộ giả thuyết đặt ra trong sự h́nh dung này: ư muốn liên kết với các thần linh từ việc xây dựng tháp Bábel khiến một giống ṇi khác không tán đồng, và giống ṇi này bằng vũ khí của ḿnh đă phá đổ cái thiết bị nhận- phát trông tin vĩ đại này.
Một nhà khoa học có tên Roger Oakland bằng những nghiên cứu nghiêm túc đă chứng minh rằng, quả thật tháp Bábel như một thiết bị radio vĩ đại, có thể giúp con người nhận được những lời nhắn gửi từ những hành tinh, những v́ sao xa xôi bởi những tia sáng rất xa từ vũ trụ. Câu hỏi đặt ra là tri thức này từ đâu tới để một dân tộc nhất định hàng nhiều thế kỷ trước, bằng những kỹ thuật tiếp cận kỹ thuật của thời đại nguyên tử đă thử t́m cách thiết lập mối quan hệ với những thực thể xa xôi khác, với thần linh, với Thượng Đế? Phải chăng có sự giúp đỡ của một giống loài khác cùng thời với họ?
Ngành khảo cổ học đă t́m ra nhiều bằng chứng như thể muốn giúp đỡ trả lời những câu hỏi trên. Tàn tích của một vương quốc chưa bao giờ xuất hiện đă được t́m thấy, tàn tích của di tích Sineár, cách thành Bagda khoảng 75 km, đây là di tích của một cái tháp có tuổi thọ khoảng 5000 năm, với những viên gạch nung chứa lượng tinh thể thạch anh rất lớn. Tàn tích của cái tháp này cùng khu vực xung quanh nó, ṿng đai Etemenankhi quả thật là một bằng chứng lịch sử. Cuộc tranh luận tiếp tục nổ ra trong các ngành khoa học khác nhau về đề tài: câu chuyện tháp Bábel chứa bao nhiêu phần hiện thực, có thể h́nh dung được hay chăng sự thật sau khi các thần linh đă phá đổ ṭa tháp này, loài người trước kia thống nhất nói cùng một thứ tiếng đă tản mạn ra khắp thế gian, và từ đó nói bằng các ngôn ngữ khác nhau, chia thành các chủng tộc giống loài khác nhau.
NGÔN NGỮ HỌC VÀ DI TRUYỀN HỌC- GỐC RỄ CHUNG
Theo rất nhiều người giả thuyết trên rất có thể h́nh dung và càng ngày càng có nhiều chứng cớ để chứng tỏ. Như chúng ta biết hiện tại có khoảng 5000 thứ ngôn ngữ trên thế gian. Gia đ́nh ngôn ngữ lớn nhất là hệ Indoeuropa, bao gồm khoảng 100 loại ngôn ngữ. Tiến sĩ giáo sư ngôn ngữ học John Oliver và nhiều nhà ngôn ngữ khác đă nghiên cứu hàng năm trời, và chỉ ra: càng đi ngược lại thời gian trước, các ngôn ngữ càng giống nhau.
Trước Công nguyên khoảng 3000 năm, nghĩa là cách đây 5000 năm, khi ṭa tháp được xây dựng lên- những dấu vết khác biệt từng có trong cùng một lúc….điều này có nghĩa rằng rất có thể loài người đă từng nói chung một thứ tiếng duy nhất. Nhưng, vậy th́ sao với các giống loài người khác nhau?
Tiến sĩ sinh học Richard Bliss cho rằng, ngay trong một thế hệ duy nhất cũng xuất hiện những đột biến di truyền, nền tảng của sự xuất hiện các loài, các chủng loại khác nhau.
Tiến sĩ nhân học Steven Collin khơi gợi sự chú ư đến một nhận định rằng nhân học hiện đại cũng dựa vào nền tảng biến cố ghi trong Kinh Thánh, rằng nhân loại sau nạn Hồng Thủy đều từ một khu vực duy nhất nằm giữa những con sông Mesopotamia tản ra khắp nơi, cách đây 5000 năm trước, mà dấu vết lần theo của sự kiện này cho thấy những bằng chứng chia phôi của một nhân loại trước kia thống nhất từ những dấu vết bên ngoài, đến những đặc điểm di truyền học.
Những tín đồ của thuyết du hành cổ "Ancient astronauts" cho rằng tháp Bábel rất có thể là một công cụ truyền thông của những người ngoài hành tinh từng đến thăm trái đất. Giả thuyết này dựa vào những dấu tích khảo cổ thu được từ giống loài người lạ, những kẻ có đôi mắt khổng lồ, mặc những trang phục kỳ dị, nhưng chắc chắn không mang dạng h́nh con người, thường nh́n chúng ta từ những bức vẽ hoặc các bức tượng.
Phải chăng tất cả chỉ là sự đùa giỡn của trí tưởng tượng của con người hay là một hiện thực đă từng xuất hiện trên thế gian?
Nguyễn Hồng Nhung sưu tầm và dịch từ nguyên bản tiếng Hungary
( Bp. 2018. július 21.)