Bo ngHongUaMauNHNhung

 

 

Bông hồng ứa máu

 

 

 

 

Có lẽ những người bạn thật sự, hiểu nhau bằng linh cảm.

 

Ba tháng trời tôi không hề viết cho ngài một chữ, tỏ ra một dấu hiệu ḿnh tồn tại trên đời, cũng không.

Ngay sau buổi chiều duy nhất đến nhà ngài, tôi lặn một hơi, như thể cưỡi lên lưng một con cá voi khổng lồ vô h́nh, bơi ra biển.

Ngài gửi cho tôi một lá thư có vài chữ rụt rè, không đầu không đuôi, muốn hiểu thế nào cũng được. Sau này tôi mới biết, đấy là một trong những đặc điểm của các đạo sĩ, không bao giờ viết dài, không bộc lộ một chút xúc cảm nào, lá thư ngắn gọn đến nỗi, làm người đọc ngơ ngẩn v́ cảm giác, ḿnh bị ruồng bỏ…

 

Lúc đó tôi mặc kệ, v́ quá nhiều việc xảy ra với ḿnh. Nhưng một đặc điểm nữa của các đạo sĩ, là không kệ họ được, kiểu ǵ rốt cuộc vẫn phải quay lại đàm thoại với họ, một phần v́ họ tiếp tục tồn tại trong tiềm thức của ḿnh, dù muốn hay không, mặt khác, nếu một kẻ đă biến thành phù thủy như tôi, kiểu ǵ cũng phải liên hệ với các đạo sĩ.

 

Tôi không hề hay, ḿnh đă tiến hóa thêm một bước trên thế gian, khi trở thành phù thủy. Một người bạn, đi theo một szektár nào đó, trước khi chúng tôi nói lời chia tay không hẹn gặp lại, đă thẳng thừng bảo tôi đúng là một phù thủy - v́ không giống cô, và những người sống cạnh, và có nhiều đặc điểm giống phù thủy.

 

Nếu thích đơn độc, không tham dự vào đám đông và có một niềm vui duy nhất là sách vở, được gọi là phù thủy, có thể cũng có lư. Nhất là khi trong đống sách vở đó, rất nhiều sách viết về cây cối, các loài hoa, các cây thuốc, về lịch sử các tôn giáo, về nguồn gốc các loại bói toán, về những thói quen di chuyển của chim, hay về : những loài cá có đặc điểm ǵ dưới đại dương, hoặc tại sao có các ngày lễ cổ xưa ghi trên lịch.

 

V́ ưa thích đọc mọi loại sách, tôi thấy ḿnh khá nhiều lúc lơ lửng trên chín tầng mây, suy nghĩ toàn những điều kỳ dị. May tôi chỉ nghĩ, chứ không nói ra, nên nh́n tôi bên ngoài, người ta chỉ thấy tôi là một phụ nữ ít lời, lẳng lặng, có vẻ trầm ngâm dưới cặp kính, nhưng thực ra tuyệt đối không thờ ơ, thậm chí, rất ân cần nếu có người hỏi tới.

 

Nhưng nếu ai hỏi, tôi đang nghĩ ǵ, chắc câu trả lời của tôi, sẽ làm người khác lùi ra sau chút ít v́… lo lắng.

 

Chẳng hạn: tôi đang nghĩ, trên quả đất này, nối các ḍng sông lại với nhau, để thành một ḍng duy nhất chảy ra biển, sẽ thấy những bến sông chạy dài, mỗi bến  là một cảnh tượng khác hẳn nhau: chỗ này đám phụ nữ đang giặt, đập những cái chiếu và quần áo bôm bốp xuống mặt nước, nước bắn tóe lên trắng muốt, long lanh dưới ánh mặt trời. Chỗ kia người ta đang chuẩn bị thiêu một cái xác được buộc chặt vào một cái bè, mùi hương trầm thơm nghi ngút và tiếng khóc rỉ rả như dế nổi lên xung quanh. Lại chỗ này nữa, người ta quẩy những thùng tôn, thùng gỗ xuống bến, lấy nước về ăn, về nấu… nghĩa là chẳng có ǵ xa lạ, và khó khăn, ai cũng có thể nh́n thấy người khác đang làm ǵ trên ḍng sông ấy.

 

Bức tranh sinh hoạt trên trái đất hiện ra trước mắt tôi bằng phẳng, như trên một miếng đất cực kỳ rộng, nhiều hoạt động cùng xảy ra một lúc, chỉ ở những địa điểm khác nhau. Ḍng sông duy nhất với những bến sông khác nhau trên trái đất, là một ví dụ minh họa cho cách nghĩ, chẳng cái ǵ đứng một ḿnh riêng rẽ, của tôi.

 

Tôi nh́n thấy quả đất này là một quả trứng, toàn bộ những ǵ đang có bên trong đều nối liền, dựa dẫm vào nhau, nếu chắp dài nó thành một đường thẳng, nhưng không thể nhét vào quả trứng ấy được, nên phải cắt vụn, đặt cạnh nhau.

 

C̣n con người trong đó, giống như lũ kiến, hồi bé khi tôi và lũ em đặt một cục gạch nhấp nhô vào trong chậu nước, rồi bắt cơ man nào là kiến, thả lên, lũ kiến chạy lăng xăng, nḥm ngó quanh quẩn nhưng không dám tḥ chân xuống nước. Mấy chị em nằm, ḅ, ngồi, ngổn ngang quanh chậu, say mê nghĩ cách tiêu khiển với lũ tù binh bị giam cầm: thả một chiếc lá làm thuyền, đặt dăm ba chú kiến lên, thả một cánh hoa sen, trên đặt một hạt gạo, đây là nơi dành cho những nàng công chúa kiến, hoặc lấy thêm một cục gạch nhỏ khác đặt vào chậu,  lấy đũa cả làm cây cầu nối hai bên tù ngục, để lũ kiến cuống quưt di chuyển từ bên này sang bên kia, khiến cả người lẫn kiến đều không biết chán.

 

Con người, nếu bằng con mắt nh́n xuống trần gian của thượng đế, có khác ǵ lũ kiến bị quy định này đâu? May mắn, họ sẽ là lũ kiến ở nơi có một cây cầu, đi lại dễ dàng, c̣n không, sẽ bị chôn chân suốt đời, ở một chốn trơ trụi nào đó.

 

Thượng đế là ai ư? Là tất cả những ǵ vô h́nh mà ta sẵn ḷng tin: những câu chuyện cổ tích, những chuyện ma quỷ, những thần thoại về các vị thần, những truyền thuyết về thiên nhiên, về con người. Nếu không tin vào những điều này, làm sao có khái niệm về phù thủy, cũng như, làm sao tin nổi con người đă hành hạ giới phù thủy như thế nào, khi họ chỉ có mỗi một tội là hiểu biết hơn loài người?

 

 

Tôi trở về thành phố quê hương của ḿnh, vào một chiều thu. Mang trong vali một mụ phù thủy bằng vải đen, đầu chít khăn nâu, cưỡi chổi. Từ bé, tôi đă không thích búp bê, chỉ thích phù thủy. Khi lớn lên, có điều kiện hơn, tôi bắt đầu tích lũy phù thủy các loại, treo đầy nhà. Và đi đâu cũng mang theo một mụ phù thủy, như bạn đường.

 

Căn nhà trong thành phố của tôi đặc biệt yên tĩnh. Dân cư khu này phần lớn từ quê lên, nên họ bố trí nhà cửa giống hệt dưới quê, mặc dù đây là một khu nhà tập thể bốn tầng, chỉ xây trong thành phố. Các hộ ở tầng đất chiếm lấy một mảnh không gian, rào dậu lại, biến nó thành một mảnh vườn hoặc mảnh sân, tùy hứng chủ nhà.

 

Căn hộ của tôi trên gác, được hưởng ân huệ phần ngọn, hai cây cau trồng giữa sân tầng đất, cứ b́nh minh, mặt trời lên, những tàu hoa cau trắng nơn mịn màng tỏa ngào ngạt, hương thơm chui vào tận gối. Đúng năm giờ sáng, chú gà trống gầy đét dưới sân sẽ nhảy lên một cái ǵ đấy -mà tôi chưa kịp khám phá- cất tiếng gáy rộn ră tưng bừng đến nỗi, trong giấc mơ bực bội, tôi chỉ ước giá cho ngay nó vào nồi.

 

Thành phố này là nơi tôi sống từ khi c̣n bé, và xa nó, đi rất xa, rất lâu, khi lớn lên. Nhưng lúc nào tôi cũng ngong ngóng quay về gặp lại. Thành phố này như một góc vạt áo của thượng đế dễ tính, cho phép tôi gói gắm, mang theo tất cả những ǵ tôi yêu mến, quen thuộc từ thuở thơ ấu. Để khi về, tôi chỉ việc lần lượt đi gặp lại những ngóc ngách thân yêu ấy, như thể ra đi chỉ để tích góp nhớ thương, và quay về, chỉ để rải thương nhớ. H́nh như đấy là mục đích duy nhất của những chuyến ra đi?

 

Những con phố, tôi thuộc làu làu từng xó xỉnh, chưa bao giờ thấy xa lạ, cho dù người ta xây, sửa, thêm vào, bớt đi, những chi tiết không gian. Có lẽ cái hồn của phố đă lộ ra trước mắt tôi, ngay khi tôic̣n nhỏ, lúc mải miết kiếm t́m, khám phá cả tuổi thơ lẫn môi trường sống quanh ḿnh. Mọi ư đồ cải tạo của con người chỉ đọng lại trên bề mặt của phố, c̣n những ǵ thật sự chứa trong hồn của nó, chỉ t́m được, bằng toàn bộ sự chăm chú, và nhẫn nại, như thể phải vạch từng cái lá, mới nh́n thấy những đường gân mảnh dẻ của cành.

 

Chẳng ai có đủ thời gian và sự kiên nhẫn để t́m lại linh hồn của thành phố. Trừ giới phù thủy và các đạo sĩ, những người v́ đọc quá nhiều sách, suy ngẫm quá lâu trong những đêm mất ngủ, đă luyện cho ḿnh sự kiên nhẫn tuyệt đỉnh, đạt tới mức phẳng lặng trong suy tưởng, không náo nức, bồn chồn trước bất kỳ sự việc ǵ. Dường như không cần t́m, họ vẫn nh́n thấy linh hồn của thành phố, xưa và nay, bằng linh cảm tri thức chắt lọc từ kiến thức.

 

Một buổi, từ nhà ngài, một đạo sĩ làm nghề họa sĩ ra về, tôi sửng sốt nhận ra sự khác biệt của cư dân tôi gặp trong thành phố. Từ những đôi mắt của họ.

 

Rất nhiều đôi mắt trống rỗng, không nói lên bất cứ khát vọng cũng như cảm xúc nào thuộc về con người. Những đám người mang cặp mắt kiểu này khá đông, họ vội vă tiêu khiển kiếp sống ngắn ngủi của họ, như của một loài phù du cây cỏ, bằng cách tiêu thụ những đống hàng hóa chất trong thành phố, loại hàng hóa cũng vội vă được chế biến, không mùi vị, không trọng lượng, và cũng chẳng có tên gọi.

 

Mắt một đám cư dân khác, lại chất chứa quá nhiều cảm xúc khác nhau, khiến người ta muốn hay không, cũng phải buộc ḷng quan sát.

 

Có một loại cảm xúc như kẻ bị giật ḿnh, che dấu dưới vẻ bâng quơ, xa vắng. Những người này, mang dáng dấp của những kẻ lơ đễnh, thể xác làm việc này, ở đây, nhưng linh hồn và cảm xúc đi tận đâu đâu mất. Có thể lúc đầu, đấy chỉ là một bản năng tự vệ, chống lại sự vô nghĩa của công việc họ đang làm, sau dần dần trở thành thói quen. Tuy đôi lúc, ánh mắt họ mơ màng, khi họ bất thần quên hiện tại của ḿnh, như trong cơn vô thức, ḍ dẫm quay lại t́m điểm xuất phát của cuộc đời là tuổi thơ.

 

Công việc của họ, giống như một hư cấu vô duyên của trí tưởng tượng lười biếng. Họ bận bịu với việc chăm sóc những thần tượng.

Thần linh thường vô h́nh - bệ phóng cho các dạng khẩn cầu thành tâm của con người - nhưng, quả là điều lạ: giữa thành phố dựng lên một ngôi đền thật hùng vĩ, bên trong sừng sững bức tượng to gấp trăm ngh́n lần người thật, một nguyên mẫu con người, được phong thánh và trở thành thần linh ngay ở thời hiện tại, không cần sự kiểm chứng lâu đời cần thiết của lịch sử.

 

Những thần linh hiện tại chưa kịp tạo ra truyền thuyết, truyền thuyết cần thời gian, để xóa đi những thực dụng ru ngủ, để phớt lớp mù sương lên những bài học đạo đức trắng trợn, để dân gian tha thứ, cho phép chỉ lưu lại những ǵ được gọi là tinh hoa trong ḷng người.

 

Những kẻ canh ngôi đền này, đều mang dáng vẻ băn khoăn. Như thể biết ḿnh có một nhu cầu cụ thể nào đấy, biết chắc mười mươi, nhưng vẫn không dám tin và khẳng định, đúng là ḿnh đang có nhu cầu ấy. Và v́ thế cứ băn khoăn, khiến các nhu cầu của họ trở thành lập lờ, không hiểu cái nào là thực, cái nào là giả.

 

Một cái ǵ đó nhắc họ, nên về nhà ngủ th́ tốt hơn, là ngày ngày chăm bẵm một ngôi đền giá lạnh, đọc những bài hịch rời rạc, chắp vụng về những chữ cái khiên cưỡng, mang những nội dung ngơ ngẩn không thể hiểu được, cho đám dân thành phố, cũng không hiểu v́ sao vẫn thích đến nơi đây -có thể chỉ v́ nhu cầu đám đông tụ họp, có thể v́ trí ṭ ṃ muôn thuở của loài người- ngay cả với những điều họ đă biết từ đời tám hoánh.

 

Khi đă rời thành phố đi xa, tôi thỉnh thoảng đọc trên trời, đôi ḍng chữ nói về những hoạt động trong ngôi đền ấy: vị thánh giá lạnh trên tượng đài, cần truyền tải những sợ hăi tương lai, của những kẻ chăm bẵm ngôi đền cho dân chúng - một đám đông khổng lồ tươi vui, cung kính, bước vào đền, vái lạy với vẻ ngoan ngoăn phục tùng, nhưng vừa ra khỏi cửa, đám đông ấy cười phá lên và mải miết chạy theo những thú vui, mà họ vừa chợt nghĩ ra, trong nhịp điệu sống ngày thường của họ.

 

Lại có một đám cư dân kỳ lạ khác, mang những cặp mắt rất buồn, như những chú hươu con bị bắt, bị giam trong cũi, đăm chiêu ngóng đôi mắt buồn đau đớn, nhớ về cánh rừng vĩnh viễn xa, trong một chiều  hoang vu không đề pḥng. Đám người buồn phiền này đi lại, làm việc, sống trong thành phố, vật vờ như những bóng ma lặng lẽ, mệt nhoài v́ đau đớn kiệt sức, v́ giữ im lặng không phiền lụy người khác, tuy đôi khi họ rất vui vẻ và hài hước, họ giống những tia nắng cuối cùng chập chờn, mờ ảo chiếu lên tường, lấp lánh rực rỡ tựa bụi vàng, trước khi vụt tắt ngấm. Họ khiến khách thập phương rảo bước ngang qua ṭ ṃ nh́n theo, suy ngẫm, ngắm những đôi mắt buồn thẳm và tự hỏi: tại sao đớn đau không làm người ta chết?

 

Đám người này trái ngược hẳn với một lớp cư dân hớn hở khác, tôi thường gặp ở những nơi sang trọng. Đám hớn hở này ăn mặc cầu kỳ, với những thời trang quái gở, khiến đẳng cấp hoặc xuất xứ của họ luôn bị nhầm lẫn. Đám người hớn hở này hệt như những đám rêu nhợt nḥa lan rộng, lúc đầu ẩm ướt, xanh ŕ ven hồ nuớc, quanh ngôi đ́nh, sau đột nhiên- như có phép lạ- trân trọng rơi vào những tủ cá quảng cáo đắt tiền nhất, làm nền cho đám cá vàng vui tươi, bơi lội tung tăng dưới ánh đèn neon.

 

Có những chiều thu muộn, sương mù đột ngột phủ vây thành phố, từ tầng thượng một siêu thị cao cấp, nh́n ra cái hồ đẹp nhất trung tâm, ngắm nườm nượp xe, người vô tận nối nhau đi, bỗng phát hiện : những ǵ nh́n, nghe, chứng kiến, trong cuộc sống ta đang tham dự, giống như một vở chèo thiếu diễn viên, bởi vậy, tùy theo cảnh đóng, một diễn viên lúc vào vai người, chút nữa vào vai ma, hoặc biến thành vua chúa. Một thứ vở diễn không cần chuẩn, thôi dùng lối cách điệu bắt buộc của nghệ thuật, không thèm yêu mến trí tưởng tượng của sáng tạo bản năng, mà hoàn toàn phụ thuộc vào ông trùm gánh hát đă quá già lẩm cẩm, nhưng không chịu nằm nghỉ, mà vẫn tiếp tục đ̣i ăn, hút, uống, và bắt diễn những cái tích ấu trĩ ông ta thuộc ḷng.

 

Đấy là lúc người ta chiêm nghiệm cuộc sống hiện tại bằng con mắt đạo sĩ - những người đă thôi ngạc nhiên từ lâu, đă dẹp bỏ nỗi bất b́nh, sự đau khổ, cũng như những nỗi quằn quại vô hướng. Các đạo sĩ đọc sách và suy ngẫm, mày ṃ t́m kiếm trong đêm đen, của nỗi nhàm chán u mê hàng ngày một cái ǵ đấy, một tia sáng mảnh, sắc như nước, có thể cắt, nghiền, xuyên qua mọi vật, v́ họ nh́n đâu trong thành phố, cũng thấy những cái nút vô h́nh chặn đứng, hoặc làm chậm lại các ḍng chảy.

 

Những đạo sĩ này ở rải rác trong thành phố, đôi khi tụ tập thành một nhóm nhỏ, nhưng đại đa số cô đơn trong những góc làm việc miệt mài không ai buồn để ư. Họ vẽ tranh, viết văn, làm sách, soạn nhạc, dạy học, thậm chí ban ngày họ có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của cuộc sống, kể cả lao động chân tay, chỉ đêm đêm, hoặc chỉ đôi khi, họ khoác lên ḿnh tấm áo đạo sĩ. Họ nhận biết linh hồn của thành phố, của cuộc sống và những con người đô thị, họ tỉnh táo nên b́nh thản, biết trước cái ǵ sẽ xảy ra, âm thầm, họ giúp đời bằng cách chặn bớt những tai họa hiện tại, để sự chịu đựng của dân đô thị ít đi.

 

Những điều giúp đời, thể hiện trong tác phẩm của họ, có thể bằng chữ, bằng kư hiệu, bằng đường nét, bằng màu sắc, chứa đựng những nội dung dai dẳng bền bỉ nào đó của những di sản xa xưa, bản thân những tác phẩm này như có phép thuật: lần đầu tiên ngó vào, đọc, xem, ta không hiểu, nhưng đột nhiên một ngày, mở ra xem lại, ta hiểu hết.

 

Giống như cây phải đủ độ ẩm của đất, của nước, của ánh nắng, mới nảy mầm, đâm chồi, ra hoa, kết quả. Lớp đạo sĩ này như thể sa xuống từ bầu trời, đầy các v́ sao, trong một đêm, thành phố thoắt bỗng nhiên lặng lẽ. Hoặc họ tách ra từ các tia nắng sớm, chạm vào đồ vật, biến thành người, tỏa ra mọi ngơ hẻm, chẳng ai quan tâm. Từ bất kỳ góc nào của cuộc sống trong thành phố, cũng có những cặp mắt đạo sĩ rơi theo, chiêm nghiệm, ngắm nghía, suy tưởng. Họ nhận ra những cá nhân, những linh hồn vất vưởng trong cô đơn, trong lẻ loi t́m kiếm, trong miệt mài suy nghĩ, và họ t́m đến, để giúp đỡ, hoặc kết bạn.

 

Bởi v́ nơi nào có con người xuất hiện, nơi đấy cần những điều kiện giúp họ tiến hóa, chỉ tiến hóa, nghĩa là thay đổi, con người mới không bị tiêu diệt. Các đạo sĩ -với tri thức mang theo từ di sản xa xưa- đến ở lẫn với loài người và giúp đỡ họ, v́ thế.

Tôi đă quen, kết bạn và trở thành bạn bè thân thiết với nhiều đạo sĩ trong những ngày t́m kiếm.

 

Một hôm tôi đi lang thang, t́m lại những hoài ức tuổi trẻ bông lung trong thành phố. Mỗi kỷ niệm tuổi trẻ của tôi, đều hoặc bị găy một góc, hoặc bị bao phủ bởi màn sương vô h́nh, hoặc bởi góc nhớ dành cho nó trong năo nhất định không chịu hoạt động. T́m được một địa điểm gợi quang cảnh thanh b́nh một thời, tôi chỉ thấy ḿnh trơ trọi, v́ các nhân vật cùng tham dự hoặc đă chết, hoặc trôi về nơi đâu, tôi không biết nữa.

 

Bởi thế, có phải đôi khi,  ta có cảm giác, đời ḿnh là những mẩu phim cắt vụn, khó chắp đúng vào với nhau, v́ để riêng từng mẩu, đều độc lập và có thể bắt đầu ngay từ lúc ấy. Bởi v́, ngay cuộc sống hiện tại của chúng ta, mặt cắt ngang của một mẩu đời sống vũ trụ, cũng chỉ là những nốt sáng độc lập, sát cạnh nhau, lấp lánh những mảng màu riêng biệt. Đấy có phải v́ cuộc sống hiện tại của ta hôm nay đây, đang chứa đựng những tiềm năng đổi thay bí ẩn, mà nỗi sốt ruột của con mắt thường hữu hạn, không nh́n thấy cả một quá tŕnh đang tự chuyển ?

Tôi hay lang thang đi bộ trên hè phố quen xưa, vừa ngắm nghía những dăy nhà quen thuộc, vừa ḥa cùng hơi thở thương mến của những hàng cây xanh, vừa nghĩ miên man như thế.

 

Đúng lúc ấy tôi gặp một chàng trai, bạn học thuở nhỏ. Chàng vất vưởng như bóng chiều mải chơi, không chịu chia tay trần thế, trở về nhà sau dăy núi. Sau này tôi mới biết linh cảm của ḿnh là đúng: thân xác chàng mang một căn bệnh tượng trưng của thời đại, căn bệnh do nỗi vất vả chạy theo thời thế, và sao nhăng chính linh hồn ḿnh, nên những ǵ tôi bắt gặp trong tấm thân vất vưởng ấy, chỉ c̣n là chút cô độc, ră rời và ưu tư, như những phiền muội cần ra đi từ lâu của bóng nắng hoàng hôn vật vă, khi đêm tới.

 

Thành phố của tôi, sau những trận vật vă chết đi sống lại của chiến tranh, đói khổ, tàn phá, từ từ hồi sinh. Nhưng không đợi cái cơ thể yếu mềm đầy những vết thương phục hồi theo thời gian, nỗi khát sống đă biến cơ thể ấy thành một con rồng quái đản bảy đầu, chỗ run rẩy tấm thân non trẻ để giữ cái đầu mải lắc lư theo điệu nhạc vui tươi tiệm quán, chỗ oằn oại không thể ngóc cao một cái đầu khác, hau háu ngóng về phía những hang động phảng phất vị lửa luyện vàng, chỗ khác, tấm thân chưa lên da non từ những vết thương cũ, giờ máu ứa ra từ những vết thương mới khác, mang tên những căn bệnh khác nhau. Bảy cái đầu con rồng nhân tạo này nh́n quanh quất đi muôn hướng, và phun lửa ph́ ph́ ra môi trường xung quanh, lúc cơn giận hoặc cơn đói, hoặc cơn thèm khát của nó nổi lên.

 

Tôi lang thang cùng chàng bạn học, khắp xó xỉnh phố phường, đi t́m kỷ niệm thuở thơ dại, như thuở ta bước vật vờ trên thảm cỏ thu bát ngát, ngắt những bông cúc vàng dịu dàng, những cúc trắng li ti như tia nước, những mảnh mai thủy tiên sà trên lối công viên một chiều tan học sớm tạt vào, khi nhặt những quả bàng uơm vừa thơm vừa ng̣n ngọt, hay lúc thổi búp đa thành một khoảng trong vắt, căng phồng những niềm vui.

 

Tôi và chàng gật gù trong những quán cafe muộn quá nửa đêm, hay tinh mơ b́nh minh, thành phố chưa thức giấc, hối hả lục lọi t́m lại quá khứ, vội vàng như thể sắp hết thời gian, một kẻ như muốn từ biệt thế gian vật chất h́nh hài, kẻ kia, trước khi cưỡi chổi bay lên vầng mặt trời nóng bỏng, t́m kiếm nốt con đường dẫn đến các v́ sao.

 

Suốt một cuộc hành tŕnh dài t́m về thành phố quê hương, phủ màn sương mờ, bí ẩn man dại, chỉ trong những giây phút cuối cùng, ngồi bên người bạn học thuở ấu thơ, nghe nhạc trong một quán người đông đặc, trong một giây duy nhất, tôi bỗng rỏ giọt nước mắt xuống ngực chàng, trong nỗi xót thương người khác lớn hơn cả ḷng thương xót với bản thân, như muốn làm tan giá băng cô độc, mà chàng tưởng rằng, cả cuộc đời chàng sẽ chỉ biết đến, cảm giác ngày mỗi rét buốt hơn mà thôi.

 

Phút ấy, từ cửa sổ bên lâu đài ven hồ trong thành phố, ngài đạo sĩ, đă nh́n thấy từ rất xa. Không đành ḷng trước vẻ khổ đau của cô phủ thủy, mà ngài quen biết từ thời c̣n thiếu nữ, đạo sĩ căng vải lên khung trời rộng, vẩy cành cọ ướt đẫm nước mắt của sưong đêm, vẽ tặng cô một bông hồng ứa máu.

 

Hăy khóc nốt đi em -đêm nay- để sớm mai bay lên phía mặt trời, trên con đường vũ trụ vĩnh cửu của sự sống, hái lượm muôn v́ sao b́nh yên, rải xuống thành phố yêu xưa…

 

(2009-05-01. HN)