Nam Dao giới thiệu
Đọc Nguyễn Khải, tôi buồn và ân hận.
Buồn, là cái thân phận nhà văn '' hậu thuộc địa''.
Và ân hận: xưa, lâu lắm rồi, từ đầu những năm 80, tôi có ''đụng'' Nguyễn Khải, mời rượu nhưng anh bảo anh không bao giờ uống rượu. Rượu vào lời ra, tôi nói thế th́ anh đừng viết về chuyện uống rượu như trong ''Gặp gỡ cuối năm'', đă là nhà văn xin anh chớ viết về những điều anh không biết, không trải nghiệm, viết chỉ để phục vụ những mục đích ngoài văn chương… Từ đó, Nguyễn Khải đối vớí tôi là một nhà văn '' khéo'', và v́ thế tôi ít đọc, không giao thiệp. Năm 2006, Nguyễn Duy, Bùi Ngọc Tấn ... rủ tôi đến thăm Nguyễn Khải đang ốm. Tôi từ chối... mặc dầu Nguyễn Duy nhắc chuyện '' rượu'' ngày xưa rồi bảo'' ông ấy thay đổi lắm rồi!''. Tôi vẫn chỉ mỉm cười, đáp: các anh đi chơi cho vui, tôi bận. Thế là chẳng ai đi !
Biết tin Nguyễn Khải mất, tôi không vui không buồn. Khi thấy chỉ có cái Hội Nhà Văn phúng viếng tang lễ, tôi cũng thờ ơ, mặc dầu tôi biết Nguyễn Khải là một nhà văn, nói kiểu ‘’Hà Nội ngoài Văn Miếu’’, không ''xoàng''.
Hai hôm vừa qua, tôi đọc bút kư này của anh: đúng là một lời trăn trối. Và tôi ân hận hai năm trước đă không có ''sức'' cởi ḷng ḿnh khỏi tiên kiến, không đi thăm anh ấy, dẫu chỉ một lần, lại là lần cuối, trong lúc anh ấy có lẽ đă hoàn tất bút kư chính trị này!
Tôi xin giới thiệu Tuỳ bút chính trị cuối cùng của nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008), và nỗi ân hận, cũng cuối cùng, về sự hẹp ḥi của ḿnh.
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người ră ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đă loè nhoè, chả rơ ḿnh đang đọc cái ǵ. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đă tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ v́ chả c̣n nhớ họ viết cái ǵ trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng th́ rất mừng nhưng tôi đă nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đă tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng kư ṭng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xă quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào, giờ đă biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài G̣n hôm nay. Lại nhớ tới những dăy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhăn, mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xă như cái làng lớn, đi một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người v́ toàn người quen cả. Năm chục năm sau, trở lại cái thị xă của tuổi mới trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đă hơn hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đă hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đă là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn c̣n ba người quen cũ, một người là Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc sống quân ngũ. Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. C̣n hai người kia đều mới mất ở tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen, c̣n lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đă già, đă nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, tṛ chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đă xong một việc có làm ǵ cũng không thể vui. V́ tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nh́n những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nh́n thẳng vào mặt ḿnh để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh ḿnh hoặc ngồi sau ḿnh. Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông v́ ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa h́nh thức vừa khó chịu v́ chỉ có người lănh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nh́n đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ c̣n nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ v́ phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ?
Trong mấy ngày xuống xă vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh th́ xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có ǵ ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xă, xă cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện ǵ anh cũng bảo không biết. Ở xă ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đ́nh, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nh́n tôi nhưng không hỏi ǵ, chào cũng không, mắt nh́n cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng ǵ với anh chủ nhà, tạt qua chốc lác rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xă. Lại một ngạc nhiên nữa ! Mấy ngày sau lại về một xă thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đă ba chục năm tôi đă đi đi về về xă đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xă chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xă nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xă bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đă ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện ǵ cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của ḿnh một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính ḿnh cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, v́ mọi vật liệu đă sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện sui sẻo, buồn bă của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xă nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xă theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được tṛ chuyện với người đă được xă giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xă. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xă bị ghẻ lạnh th́ tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xă được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút kư “Mất toi một cuốn sách”. Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nh́n th́ trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đă biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải v́ cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói ḿnh thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào ḷng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người th́ sao ? Là v́ họ c̣n thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử tế. Mà tôi th́ có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh, trước hết là biết giễu ḿnh, theo dơi từng bước đi, từng câu nói của chính ḿnh bằng cái nh́n của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt. Sau ḿnh đến người, tôi cũng hay nh́n ra cái khía cạnh buồn cười ở người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào. Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra th́ c̣n vô vàn chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm ḿnh trong khi diễn tṛ th́ họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn có cái ḿnh không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà c̣n là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái tṛ cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xă hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều ṿng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi v́ họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ư, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những ǵ sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nh́n lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị ǵ.
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất v́ nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành tṛ cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn th́ trước sau sẽ biến thành tôn giáo. V́ tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lư, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xă hội đă phải đội lốt tôn giáo để tồn tại th́ mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lănh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xă hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. H́nh ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm ǵ, nói ǵ, nghĩ ǵ đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lănh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đă bị đốt cháy, đă thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài. Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ t́m đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công tŕnh một đời của riêng ḿnh. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lănh tụ để có thêm ḷng tin vào những lư do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nh́n, cách đánh giá của riêng ḿnh, đă được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào ḍng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nh́n nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng ḿnh trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó th́ c̣n sống tiếp làm ǵ, c̣n viết tiếp làm ǵ nên một số đă phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đă trở thành ư nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xă hội. C̣n một số nhỏ v́ không làm nghề ǵ khác ngoài cái nghề văn chương nên đă đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đă quy định, cũng có đôi lúc đă tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những h́nh tượng nghệ thuật quá đẹp đă trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều th́ tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm c̣n trẻ.
Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đă quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng ḿnh để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. V́ số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lănh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xă hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát ǵ, v́ chiến tranh đ̣i hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lănh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ th́ cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. Đến thời hoà b́nh th́ chỉ c̣n dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đ̣i hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái ḿnh đ̣i là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ? Nhưng người dân phải t́m ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện ǵ để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể ḿnh là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền th́ chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm ǵ nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu t́nh đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng ḷng của ḿnh tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức th́, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ c̣n đợi ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất b́nh của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội v́ nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đ́nh vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết th́ làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. V́ nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng măi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “ mặc kệ nó ”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc ǵ không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân ḿnh. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đă tự tách ra khỏi nó để t́m lại ḿnh. Nhưng cách t́m lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, c̣n tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xă hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rơ. V́ nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được
Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói ǵ tới ư thức cá nhân trong mỗi con người. Ư thức cá nhân là ư thức về cái riêng biệt của ḿnh, về cái có thể cống hiến của ḿnh cho cộng đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá trị cá nhân chỉ được nh́n nhận, được tôn vinh ở những xă hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xă hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, v́ đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xă hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó v́ không được thoả măn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản. Vậy các công dân của chế độ xă hội chủ nghĩa th́ sao ? Chả có ai kêu ca ǵ. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir Dudinzev / Владимир Дудинцев - chú thích của Diễn Đàn] viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh ḿ [Не хлебом единым - chú thích của Diễn Đàn] bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đă viết sai v́ các nước xă hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buưt, trong công viên, đứng xếp hàng từng dăy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút ch́m đắm trong sự đọc họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của ḿnh, của đồng loại, t́m lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng ḿnh. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào ṿng quay của trăm ngàn công việc chả có nghĩa lư ǵ ngoài sự mưu sinh để tồn tại. Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một ḿnh, ngẫm nghĩ một ḿnh, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của ngành của giới đă choán hết phần thời gian c̣n sót lại… Cuộc sống tập thể đă nhấn ch́m cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đă xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời b́nh. Lúc nào cũng có kẻ thù ŕnh rập đâu đó để t́m cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà b́nh. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề pḥng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại c̣n viết văn làm thơ được !
Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê b́nh văn học của cái thời gọi là thuộc địa đă trở thành những tên tuổi lớn tồn tại măi măi trong ḷng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? Không chỉ trong văn chương mà c̣n cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đă trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà c̣n có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống ṇi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xă hội có thêm nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, h́nh thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đă được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của ḿnh, dẫu c̣n yếu ớt nhưng đă gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xă hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách th́ thân bại danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. C̣n những vương triều phong kiến dẫu được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xă hội hủ lậu và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu c̣n trị v́ Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đă quá cũ kỹ th́ vẫn cứ thua, có khi c̣n thảm bại hơn v́ ḷng kiêu hănh bệnh tật của họ. Cách tổ chức xă hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt v́ đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nh́n thấy đám đông chứ không thể nh́n ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. C̣n thời bây giờ là một xă hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau v́ những tham vọng không được ḱm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp h́nh thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trang hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng ḷng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại v́ lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của ḿnh, thắng thua tự ḿnh gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “ bản lai diện mục” của chính họ.
Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xă hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp th́ trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. V́ trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng ḷng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức. C̣n những người làm các nghề khác, chả dính dáng ǵ đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng ḿnh chẳng hạn. Đă độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, v́ mỗi học thuyết đều có phần đạo lư của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đă được lư tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. Tôi có một bà cô sống ở Hà Nội suốt thời Pháp tạm chiếm, là dân cũ của Hà Nội, sau này giải phóng được một năm, bà than thở với tôi, nghĩ rằng sống với cách mạng th́ dễ mà hoá ra rất khó. Bà bảo chính phủ ǵ việc lớn không lo toàn lo việc vặt, từ cách ăn mặc, cách yêu đương, cách nuôi dạy con cái là những việc người dân tự biết cách lo, tự biết cách học, lo không nổi th́ đă có dư luận xă hội lo giùm, từ cổ tới nay vẫn thế mà. Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sỹ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sỹ chúng tôi cũng “ sống không dễ ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ th́ chỉ có hai chủ đề : căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh : công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu : đỏ là quân ta, đen là quân địch. Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc măi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán ḿnh. Tài đă kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một ṿng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị th́ sớm nắng chiều mưa) là đă mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ th́ c̣n ǵ là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả c̣n biết lối nào mà lần. Văn chương đă đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có c̣n cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả c̣n ai nhớ tới ḿnh nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết th́ văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ ? Nghĩ lại cũng chả có ǵ phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những ǵ do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ ! Tất nhiên vẫn có nhiều công tŕnh của trí tuệ thuộc về cơi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ năo con sâu cái kiến, ngước nh́n những cái đầu khổng lồ ấy làm ǵ cho thêm buồn ra. Hăy viết những ǵ trong cái tầm nh́n tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “ tự hào dân tộc ” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đă từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hănh rằng dân tộc họ đă sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi ! Mà rồi sao nhỉ ? Là như mỗi chúng ta đều đă được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy !
Nhà văn Dư Hoa, một cây bút đang nổi của văn đàn Trung Quốc, trong lời cuối sách của tiểu thuyết Huynh đệ (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2006), ông có viết đại ư, trong lịch sử thế giới từ thời Trung Cổ đến thời hiện đại phải trải qua 400 năm. C̣n ở Trung Quốc từ thời cách mạng văn hoá, cả đất nước ch́m sâu trong bóng đêm trung cổ với thời bấy giờ với bao nhiên thay đổi đến chóng mặt để đất nước Trung Hoa nhanh chóng bước vào đội ngũ các đại gia của G8. Cái khoảng cách vời vợi giữa hai thời đại ấy đă được rút gọn trong có 40 năm. Rằng hay th́ thật là hay nếu chỉ nh́n vào toàn cục, vào cả dân tộc. Nhưng nếu nh́n vào từng cá nhân, những cá nhân không được chuẩn bị từ căn cơ trong lịch sử, trong văn hoá, trong truyền thống và nhất là trong nhân cách làm người th́ cái rút gọn trong mỗi cá nhân sẽ dẫn tới đâu ? Theo ư tôi là các cá nhân ấy sẽ rất dễ bị GĂY khi gặp phải sóng to gió lớn. V́ cái lơi của nó chưa đủ cứng, chưa đủ bền, chưa đủ những tố chất về di truyền, về giáo dục (rất cần có thời gian) để ứng phó hữu hiệu với những thay đổi quá nhanh của môi trường sống. Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng ḷng hay không bằng ḷng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là ḷng người không thuận th́ mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào. Và càng lạ hơn là những tổ chức kinh tế được xem là lạc hậu, là phản động của một thời vẫn có muôn vàn cơ hội để tái sinh và xem ra c̣n tồn tại rất lâu dài.
Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lăo thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đă ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được h́nh thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp tŕnh diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xă hội lư tưởng do người cộng sản lănh đạo. Ông Romain Rolland th́ khen không hết lời, c̣n ông André Gide th́ chê từ đầu đến cuối. V́ một ông chỉ nh́n có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. C̣n một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai v́ họ không thể giữ được tính độc lập trong t́nh cảm và phán xét. C̣n cá nhân th́ cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.
Một xă hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của ḿnh trên trang giấy là một xă hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nh́n ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước ḿnh đă bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đă có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. Rồi tranh chấp đường ống dẫn dầu và các mỏ dầu, các căn cứ quân sự và các vùng biển có hạm đội. Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên v́ Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên v́ xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. Lúc giận nhau th́ nghĩ nông cạn thế, c̣n b́nh tĩnh lại th́ giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử v́ họ đă là người một nhà non một thế kỷ, đă cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đă cùng nhau sinh con đẻ cái, đă pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính ḿnh, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một h́nh thức liên minh b́nh đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xă hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xă hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài ḷng của mỗi cá nhân.
Gần đây tôi có được đọc hai cuốn sách hay. Một cuốn là Bàn về tự do của John Stuart Mill, một triết gia người Anh viết từ năm 1859, cách ta một thế kỷ rưỡi. Một cuốn là Tư duy tự do của Phan Huy Đường, một nhà nghiên cứu học thuyết Mác có tên tuổi ở Pháp viết vừa mới đây. Khoảng mươi năm nay tôi đọc tiểu thuyết không vào, cả của ta, của Tàu lẫn Tây, cả sách mới dịch, mới xuất bản, cả sách của các đại gia của những thế kỷ trước. Năm c̣n trẻ đọc thấy hay, bây giờ già rồi nh́n trang sách cứ dửng dưng v́ nó không chịu ăn nhập vào những trải nghiệm cá nhân của tôi, không mở ra trong tôi một cách tiếp cận mới với hiện thực, không làm bùng cháy một điều ǵ đang c̣n ẩn sâu trong đáy tiềm thức khiến tôi phải choàng thức chợt nhận ra một vỉa sáng tạo mới vừa thoáng xuất hiện. Hai cuốn sách trên, một cuốn do bạn cho mượn, một cuốn t́nh cờ mua được ở nhà sách v́ cái tên của một tác giả tôi vốn quan tâm. Tôi đọc say mê cả hai cuốn như thời trẻ được đọc một cuốn tiểu thuyết hay, tất nhiên là khó đọc hơn tiểu thuyết nhưng đă thích lại có trải nghiệm bản thân hướng dẫn, không hiểu được đầy đủ th́ cũng hiểu được cái đại thể. Nhiều ư của bài viết này là được cảm hứng từ hai tác giả đó.
Năm tôi 60 tuổi, khi viết về một bà cô đă ngoài tám chục mà c̣n rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, bà vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất ḷng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xă hội. Tôi đă viết nếu bà cụ được trời cho chứng sống đến trăm tuổi mà vẫn c̣n sáng suốt ắt hẳn bà sẽ biết mọi bí mật của then máy tạo hoá. Thật ra là tôi nói về tôi đấy, có hơi bốc đồng nhưng tôi tin là tôi sẽ biết được con người nhiều hơn nếu tôi được sống lâu hơn, không cần trăm tuổi, chỉ cần 90 là đủ, miễn là vẫn giữ được một cái đầu bén nhạy như bây giờ, sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính ḿnh. Năm ấy tôi đă hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại. Các cuộc cách mạng xă hội ở nước ta trong suốt ba chục năm đều hỏng cả, đều phải làm lại từ đầu, tất nhiên là theo hướng khác, mà kết quả vẫn vừa chậm vừa dây dưa. Nguyên do là các nhà lănh đạo muốn rút gọn những công việc của trăm năm thành chuyện chỉ làm trong mấy năm. V́ họ chưa hiểu đầy đủ con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, cái cuộc sống không có chiến tranh, không có cách mạng xen vô, cái cuộc sống trôi đi lặng lẽ của muôn đời. Nghĩ rằng người Việt Nam của hôm nay đă khác nhiều với người Việt Nam trước năm 1945 là một cách nghĩ rất thiển cận, tự gây cho ḿnh nhiều ảo tưởng trong việc trù liệu những việc phải làm để kiến tạo một xă hội dân chủ và văn minh. Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi ǵ trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng măi dưới nắng để nghe lănh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật ḷng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đă thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế v́ người dân c̣n đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp t́nh nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. C̣n đă thành vợ thành chồng th́ chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần ǵ những thuyết lư dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống b́nh yên, được tính việc cá nhân và gia đ́nh trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống măi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xă hội và các giá trị thay đổi soành soạch th́ c̣n biết đằng nào mà sống. Vả lại các cuộc cách mạng ấy chả đem lại bất cứ lợi lộc nào, cho bất cứ giai cấp nào. Chỉ có những mất mát thôi, người giàu th́ mất cơ nghiệp được kiến tạo từ nhiều đời, người nghèo th́ mất những chỗ dựa cạy, có thể mất cả công việc kiếm sống mỗi ngày để được làm chủ một cái rỗng không. Có thực mới vực được đạo, đă đói ăn th́ ngay đến cái tư cách làm người cũng không thế có nói ǵ đến đạo. Thành thử cái chủ trương rất quyến rũ, rất “văn nghệ”, nhất là với giới tri thức, của chủ nghĩa Mác “cải tạo thế giới, cải tạo con người” hoá ra chuyện không đâu, nói cho vui, bây giờ người ta cũng hay nhắc đến để chế giễu một học thuyết xă hội chứa đầy những hoang tưởng.
Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xă hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xă hội thay đổi. Nên mới gọi nhà văn là “ kỹ sư tâm hồn ” ! Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lư của họ. Họ có quyền yêu ḿnh hoặc ghét ḿnh , tôn vinh ḿnh hoặc nguyền rủa ḿnh, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “ tải đạo ”, “ giáo dục ” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại chính người viết cũng không có ư định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của ḿnh, những trải nghiệm đau đớn của ḿnh, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự ḿnh ngậm ngùi với ḿnh, ứa lệ với riêng ḿnh. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. V́ không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đă chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái ǵ xa lạ với bản tính của ḿnh, với thói quen của ḿnh, nói một câu, với những ǵ làm nên lai lịch của ḿnh, chả sớm th́ muộn đều bị đào thải để ḿnh lại được trở về với cái nguyên gốc. Tôi được biết có một cụ linh mục yêu nước và cấp tiến được cách mạng tín nhiệm mời lên khu làm việc cho kháng chiến thời đánh Pháp. Những khi ngồi một ḿnh cụ vẫn rất buồn v́ ở trong rừng không có nhà thờ để cụ đi lễ và làm lễ. Cụ nhớ Chúa, nhớ bày chiên và nhớ cả những lời nói của đấng chăn chiên với bày chiên trong công việc của mỗi ngày. Khi cụ sắp mất cụ thiết tha yêu cầu được một linh mục đang coi sóc một xứ đạo nào đó tới rửa tội và xức dầu Thánh cho cụ. Lại một chuyện khác, khi tôi được tiếp xúc với một vị lănh đạo cấp cao của Đảng khi ông đang c̣n làm việc, quả thật tôi đă từng nghĩ ông là con người kiểu mẫu của một xă hội tương lai, chả nói ǵ, nghĩ ǵ về ḿnh, tất cả cho tổ quốc, cho sự nghiệp, cho nhân dân. Nhưng rồi ông bị mất chức v́ không được bầu lại vào uỷ ban trung ương của Đảng, một chuyện rất bất ngờ với nhiều người. Khi đại hội công bố kết quả bầu cử, nghe nói ông đă oà khóc, rồi khóc thầm lén tới mấy năm, không đi đâu cả, không gặp ai cả v́ tự cho ḿnh đă bị sỉ nhục, đă mất hết danh dự. Lại là một con người khác, tầm thường hơn cái lúc c̣n đeo tấm bài ngà rất nhiều. Con người mặc nhiều lớp áo là con người giả, con người đă bị lột truồng mới là con người thật. Con người đă bong một lớp sơn phủ kín chỉ c̣n trần lại cái lơi của nó mới là thật. Cái vỏ có thể luôn luôn thay đổi nhưng cái lơi muốn thay đổi phải mất có khi gần một đời người. Ấy là chỉ dám nói là có thể thay đổi chứ không dám nói chắc là sẽ thay đổi. Chỉ v́ con người ta không chịu thay đổi theo những tiêu chuẩn đă được quy định hoặc theo mức tăng trưởng thu nhập tính theo đầu người. Sự phát triển của con người theo chiều hướng tích cực phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống tự do và dân chủ để tự nó khẳng định chính nó, tự nó đánh thức mọi tiềm năng sáng tạo đang nhen nhóm ở trong nó. Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hăy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. Nó sẽ biết cách tự điều chỉnh để thích ứng dần với mối quan hệ mới một cách có lợi nhất.
Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lănh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi ḍng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xă hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm không có một cuộc biểu t́nh nào được tổ chức để phản đối một chính sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời huy động nông dân vào các hợp tác xă nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đ́nh công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất b́nh liền bị giập tắt ngay. V́ người lănh đạo đă nhận định rất đúng rằng, nhân dân ta rất tốt, rất dễ bảo, bỗng dưng họ dám nói xược, dám đ̣i hỏi này nọ là do có mấy thằng cán bộ về hưu bất măn cầm đầu. Cứ nhắm mấy thằng đó mà đe, nếu cần th́ bắt là đâu vào đấy ngay. Quả nhiên thế thật. Tức là người cầm quyền chả coi dân chúng vào đâu. Họ chỉ sợ các cá nhân hiểu nhiều biết rộng, rất khó bắt nạt, là hay bày tṛ xúi giục thôi. Giống hệt cái thời c̣n vua c̣n Tây, kẻ cai trị rất sợ người cộng sản v́ họ là kẻ hay gây rối. Đă là người cầm quyền với nước ta th́ xưa là thế nay vẫn là thế, người dân vẫn sống dưới chế độ chuyên chế chứ chưa bao giờ được biết chế độ dân chủ là ǵ, đâu là dân chủ tư sản. Đă chuyên chế là chuyên chế làm ǵ có sự phân biệt chuyên chế tư bản với chuyên chế vô sản.
Người cộng sản rất kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng lại chính từ các nước xă hội chủ nghĩa mà cái tệ sùng bái cá nhân đă nảy sinh. V́ lănh tụ của học thuyết cũng là lănh tụ của quốc gia. Họ lên cầm quyền không do phiếu bầu mà do tín nhiệm sẵn có của các tín đồ với giáo chủ. Giáo chủ là nhân vật tối linh, thuộc về thiêng liêng nên những ǵ của thế gian không thể ràng buộc ông ta được. Ông ta cầm quyền không có niên hạn v́ ông phải phục vụ nhân dân cho tới lúc chết. Ông không phải tự phê b́nh và cũng không ai dám phê b́nh ông v́ ông là biểu tượng của quốc gia, của Đảng cầm quyền, đứng trên hiến pháp và mọi luật pháp. Ông là người tự do hoàn toàn so với nguyên thủ các quốc gia dân chủ khác. Các cấp dưới từ trung ương tới địa phương cũng là những người có nhiều tự do nhất ở các ngành, các bộ và các địa phương họ cầm quyền. Là các lănh chúa trong các lănh địa của họ. Chả ai dám xâm phạm nếu c̣n muốn giữ cho ḿnh một chút tự do cỏn con. Một xă hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả măn trong mọi nhu cầu là cái xă hội ǵ đây, là xă hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư ?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đă khó nghe, lại c̣n viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao ? Ngượng th́ vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút th́ nuôi vợ con bằng ǵ ? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán ḿnh cho quyền lực được hoàn toàn. Năm đất nước mới thống nhất vào Sài G̣n được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. C̣n ḿnh th́ đủ thứ sợ, sợ gặp người thân v́ chưa rơ họ có liên quan ǵ với Mỹ nguỵ ? Nói cũng sợ v́ nói thế là đúng hay sai ? Đến vẻ mặt của ḿnh cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đă ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo ǵ mà “ quê một cục ”. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền kinh tế công nghiệp tư bản, dẫu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống tư bản, vẫn là những người đă được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. C̣n ḿnh là sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đă được làm chủ nhân ông nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế nào ! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng không thể rẽ tắt. Ḿnh cũng đă đi tắt suốt mấy chục năm, rất tiếc là lịch sử không công nhận cái lối đi ấy. Tôi c̣n sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt ḿnh v́ cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử !
Các đảng cộng sản đều coi phê b́nh và tự phê b́nh là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú : “Vừng ơi, mở cửa ra !”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang. Các nước xă hội chủ nghĩa vẫn đọc to câu thần chú ấy trong nửa thế kỷ mà cánh cửa vào tương lai vẫn đóng chặt. Mất thiêng rồi chăng ? Quả là đă mất thiêng v́ người hô không hề tin một chút nào vào cái khả năng kỳ diệu của nó. Nếu tin vào phê b́nh và tự phê b́nh th́ Stalin đă không chế ra các vụ án chính trị man rợ để tiêu diệt các đối thủ vốn là tay trái tay phải của ḿnh trong những năm đó. Nếu tin vào câu thần chú ấy th́ Mao Trạch Đông đă không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, c̣n những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lăng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê b́nh và phê b́nh nhau một cách sốt sắng giả dối. Và ai nấy đều tự bằng ḷng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào. Bởi vậy khi ông tổng bí thư của Đảng mới được bầu, trong cơn phấn khích đổi mới sinh hoạt đảng, đă phát động một phong trào tự phê b́nh và phê b́nh rộng khắp toàn đảng, các đảng bộ trong cả nước đều nhiệt liệt hưởng ứng, đều nhắc lại với ḷng nhiệt thành hiếm có trong các bài diễn văn có đảng tính cao của họ. Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. V́ chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hăn, càng tự tin, c̣n người tố tội càng lúc càng dè dặt, hăi sợ. Kỳ quái nhỉ ?
Các tín đồ của học thuyết Mác đều rất tin môi trường xă hội và hoàn cảnh cá nhân có ư nghĩa quyết định tới sự h́nh thành tính cách con người. Một địa phương có nhiều phong trào cách mạng tích cực ắt phải sản sinh ra nhiều tập thể tốt, một tập thể tốt sẽ sinh ra nhiều cá nhân tốt. Con người là một thực thể vật chất nên không thể thoát ly những điều kiện vật chất đă cho phép nó tồn tại. Nhưng nó c̣n là một thực thể sinh học, một thực thể tinh thần, tâm linh, văn hoá bao gồm lịch sử cá nhân và ḍng họ ở trong nó. Nó cũng không thể biết hết nó, không thể biết hết những phản ứng bất thần trong chính nó khi vấp phải những đối nghịch trong cuộc sống. Nên cái thế giới tinh thần, tâm lư của con người là rất đa dạng, phức tạp, có muôn vàn lối đi ngoắt ngoéo. Từ thời con người có ngôn ngữ để giao tiếp, có chữ viết để lưu lại, có văn chương để bày tỏ những bí mật của riêng ŕnh, nó vẫn không ngớt than thở là chả biết được bao nhiêu về ḿnh và đồng loại. Con người vẫn nguyên vẹn là một bí mật mênh mông, sâu thẳm như từ thủa nguyên sơ vậy. Người cộng sản phải kiêu ngạo lắm mới dám bày cái tṛ chỉnh huấn phê b́nh để lănh đạo một cách chuẩn xác cái phần khó nắm bắt nhất trong con người. V́ nó biến hoá, nó phù du như mây như gió vậy.
Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng th́ thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính ḿnh. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đă làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nh́n được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đă bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. Nhiều tập hồi kư của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần c̣n nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa h́nh thành, cái què quặt, cái buồn cười đă được kiềm chế đúng lúc, đă được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp c̣n có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa ḿnh với ḿnh bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch v́ nó đă bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, v́ chiến trường ở ngay trong ḷng ḿnh, ḿnh vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nh́n bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng ḿnh, cả đời họ sống trong tự măn, trong u mê, bất thần mời gọi hăy nh́n lại ḿnh, hăy nh́n lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác ! Ông tổng bí thư đă mở một cuộc chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.
Một đảng, một thể chế chính trị lấy phê b́nh và tự phê b́nh làm vũ khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không c̣n dùng được nữa th́ các mâu thUẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào ? Đảng đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu t́nh quần chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều chỉnh mọi sự rắc rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra ? Vẫn có cách, là phải tạo ra một t́nh h́nh chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xă hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. C̣n khi đă có chuyện bất thường xảy ra th́ chỉ có một biện pháp : đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái v́ có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lư lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vănh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ c̣n bày ra những cuộc chiến cung đ́nh như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đă làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông th́ người cầm quyền biết thở bằng ǵ !
Tập thể không làm ra văn chương v́ nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự măn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. V́ văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiêng kêu của con người để đ̣i lại những ǵ c̣n thiếu : thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. C̣n mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều măn nguyện th́ tôn giáo không c̣n, triết học không c̣n, và tất nhiên văn chương cũng không thể c̣n. Nó sẽ chết v́ bị ngạt, v́ không c̣n những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những ǵ mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai th́ cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. V́ thượng đế đâu cần những con ḍi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối ḿnh và dối người của những con người đă phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. C̣n hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con ḍi rồi. Chả lẽ những con ḍi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca !
Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm c̣n trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven băi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn th́ ḿ hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm. C̣n thức ăn ư ? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đă hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đă trưởng thành, tôi có được một pḥng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay. Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vănh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đă ngoài bảy chục tuổi, đă có đầy đủ những ǵ tôi khao khát, có thể nói c̣n hơn cả khao khát. Tôi đă sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đă nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam th́ cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu c̣n năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đ̣i hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đă giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đă hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ th́ chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con ḍi có ǵ là khác mà phải phân biệt !
Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận buồn nên mới 14, 15 tuổi đă nh́n đời như một ông già. Tức là một cái nh́n không mấy lạc quan. Cái xă hội tôi đang sống không mấy hoàn hảo, những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc với những ǵ không hoàn hảo tới mức gặp những ǵ quá đẹp, quá chu toàn tôi đều ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh ấy là mẹ tôi. Bà đă qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời chồng trước mọi sự đều tốt đẹp, ông ấy c̣n trẻ, có địa vị trong xă hội, nhà giàu, lấy nhau được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở với nhau được ba năm phải bỏ. Đời chồng sau th́ dở, dở cả mọi đằng. Bố tôi cũng c̣n trẻ, làm tham biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đă có vợ và hai con nên phải làm lẽ và lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng số, là đă an phận, nhưng lại lo bố tôi sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này gây thêm phiền phức cho cái gia đ́nh chính thức của ông. Hai anh em tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những ǵ nhận được từ tuổi thơ măi măi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi. Nh́n bên ngoài tôi có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại thuộc về con cái của những gia đ́nh nghèo, lại chả có thế thân ǵ nên rất biết phận, cho th́ nhận, không cho cũng không đ̣i, chỉ cầu không có ai quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu sớm, lúc trẻ th́ thay anh hầu hạ mẹ, về già th́ đi chợ nấu cơm, giặt quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười nhẫn nhục, bằng ḷng với những ǵ ḿnh có. Tôi th́ khác, một cuộc sống bên ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền người khác và chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong cũng có nhiều tham vọng, làm quan hay làm anh nhà giàu th́ không dám v́ tôi không có bản lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi chỉ có một ao ước duy nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài tôi tự biết, tôi phải sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được một hai cuốn sách hay, mà cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ không thể hay ở mọi thời. Tôi tự nhận tôi là người có một con mắt bên trong và một cái tai bên trong từ nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng những người khác họ yêu ḿnh hay ghét ḿnh. Càng lớn tuổi cái khả năng tự xét ḿnh của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đă nhận ra cái lợi của phép giấu ḿnh. Trang Tử đă nói : Con chim bay cao th́ tránh được tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu th́ tránh được cái hoạ bị khói hun.
Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế độ chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một cách trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với nhiều người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh Pháp với nhiều người là rất dài, với tôi lại rất ngắn v́ tôi được sống trong niềm vui, trong những cái khác thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ quan tuyên huấn của quân khu đều xuất thân từ các gia đ́nh viên chức nhỏ, địa chủ nhỏ, được ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu học đă có những thói quen, những nền nếp của cuộc sống thị dân từ nhỏ. Họ rất thích quan sát những phản ứng của tôi khi phải đối mặt với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến. V́ nh́n ngoài tôi như một thư sinh con nhà quư tộc chưa từng biết cái thiếu cái khổ là ǵ. Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều được đánh giá phải có nhiều nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế. Tôi vẫn sống như xưa kia, ngày xưa th́ bị chê bị chửi, bây giờ lại được khen, được tuyên dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, c̣n biết cái thiếu là ǵ cái khổ là ǵ. Nếu so sánh th́ trước kia tôi chỉ là con số không, c̣n bây giờ tôi đă có một cái tên kư dưới các bài báo, đă được nhiều ông anh trong cơ quan nhờ vả, đ̣i hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi đă được tách ra khỏi đám đông để tự bằng ḷng ḿnh và có cả chút ít “ kế hoạch riêng ” cho ḿnh nữa. C̣n các anh hơn tôi dăm bảy tuổi th́ đă có nhiều thứ để so sánh những cái “ đă có ” trước kia và cái “ đang có ” bây giờ. Cái “ đang có ” của dân tộc th́ nhiều, c̣n cái “ đang có ” của cá nhân như chả c̣n được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và xă hội, triết học và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan hệ giao tiếp xă hội được dạy bảo từ thuở c̣n thơ nếu dùng lại cứ vênh váo, buồn cười thế nào trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh tế, tôn trọng người khác là cách sống của anh tiểu tư sản. Ḷng thương người không đúng chỗ cũng được xem như biểu hiện của một tính cách nhu nhược, không đáng tin cậy. C̣n những câu đùa thông minh, kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là một cách chế diễu của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc chỉnh huấn tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần những vẻ riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái ḍng chảy chung, vào cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh ḿnh. Đại để cái riêng của mỗi chúng tôi đă bị cái chung nuốt dần như thế. Tôi th́ sao ? Tôi đă có một may mắn lớn v́ tôi thuộc về số đông, một quần thể vô danh tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến. Cách mạng Tháng Tám đă nhất loạt giải phóng họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội cho họ phát triển những tài năng riêng của ḿnh, chủ yếu trong lĩnh vực quân sự để kịp thời phục vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông trong họ chỉ mới biết đọc biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất nhanh cách xây dựng một quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho công việc tham mưu, tác chiến, hậu cần v́ họ đă có được một ông thầy lư tưởng là quân đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong thế chiến 2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đă trở thành cái nôi đào tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả những tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến nhất của xă hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh người chỉ huy quân sự là h́nh tượng đẹp nhất, lăng mạn nhất v́ họ là con người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ nhất, c̣n con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong nhiều trường hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. C̣n những năm xây dựng chủ nghĩa xă hội th́ con người lư luận có nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của học thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và có quyền quyết định sự sống chết của nhiều người. Chính là trong những năm này mới sinh ra nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn cười nhưng thời ấy nó đă chôn sống nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực v́ họ đă tỏ ra ngờ vực sự đúng đắn của tư tưởng chính thống.
Một nửa nước đă được độc lập nhưng ḷng người tan nát v́ tài sản một đời chắt chiu của họ đă bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản ǵ ngoài cái đầu được tư duy tự do, th́ cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, v́ từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “ Nhân Văn Giai Phẩm ”. Một dân tộc đă làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nh́n ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đă thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xă hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tṛng vào cổ cái ách của một học thuyết đă mất hết sức sống. Dân ḿnh sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngă đến vậy !
Một xă hội tan nát, ḷng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đă hết ḷng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái ǵ để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lănh đạo cách mạng yêu cầu.
Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm tràn đầy niềm vui. Nh́n vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi được. Nhưng cũng những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là những năm đầy lo lắng, hăi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có thật, những trang viết của tôi vào những năm ấy là rất thành thật. Nhưng nước mắt của người khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết, có được chứng kiến. Tôi nên nghiêng ng̣i bút của tôi về phía nào. Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của t́nh cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người ḿnh. Nó đă bảo sai là sai, không có thứ lư luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ v́ sự măn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, c̣n khi người nghèo đă thành giàu, người hèn được bước vào thế giới phú quư, trai gái phải chịu nhiều năm chia ĺa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đă kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của măn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. Nhưng người lănh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lăng mạn ấy đă làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê b́nh văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám căi, hăy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp ḿnh thôi.
Một xă hội không tự hiểu ḿnh, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu ḿnh, vàng thau, phải trái, cao quư ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh này, v́ nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách quan hơn, có hiệu quả tích cực trong quá tŕnh chủ động thích ứng với mọi đổi thay của môi trường sống và môi trường xă hội. Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lănh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xă hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy ” ! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rơ rệt ở cấp lănh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đă mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “ gỗ ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được ǵ v́ không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước c̣n người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lư tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối ĺ lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ v́ người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi ǵ cũng là một phép giữ ḿnh. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đă trở thành nói để không giao tiếp ǵ hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền th́ biết là nhân dân đang rất bất b́nh về nhiều chuyện, nhân dân th́ biết người cầm quyền đang nói dối, nh́n vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hăy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, c̣n ḿnh là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Ḿnh cứ làm theo ư ḿnh và ḿnh cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi kư của các nhà văn hoá, của những người hoạt động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp của họ càng nhỏ th́ cái ư nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có tên th́ bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên th́ bao trùm rộng khắp nhưng cũng không có h́nh thù rơ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là ai mà truy cứu.
Trong cái bối cảnh xă hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều đánh mất cái cá nhân của ḿnh cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là chuyên viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lư cùng với những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời thế khác nhau. Nhưng đọc hồi kư của các nhà văn cũng nhạt nhẽo lắm, họ chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những bậc đàn anh và bạn bè trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt, chuyện sinh hoạt và chả đả động chút nào tới thời thế, tới những bức xúc về thời thế và cái nghề của ḿnh trong thời thế. Tính hiện thực và tính lịch sử của một thời rất mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ư nghĩa truyền đạt những giá trị đích thực của một thời tới các thế hệ đến sau hầu như không có. Đó là điều rất đáng tiếc, v́ nếu các chứng nhân không nói ǵ cả th́ lịch sử cũng không thể cất lên tiếng nói chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối phủ lên, quên lăng phủ lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ c̣n lưu lại những cột mốc của các chiến công, c̣n cuộc chiến thầm lặng đă làm tan nát nhiều con người để con người được là chính ḿnh, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một ḍng họ măi măi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại th́ chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.
Dầu không nói đến, không được phép nói đến th́ cái ḍng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lănh vực này, lúc ở lănh vực khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại th́ đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào v́ vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xă hội, từ một xă hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự ḥa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xă hội ngột ngạt v́ cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả th́ số phận những cá nhân sẽ ra sao ?
Hăy nh́n vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rơ. Họ vừa thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nh́n cái ánh sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đă có cơ hội sải những bước chân dài khi đă bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga măi măi là một siêu cường v́ những thử thách lớn nhất của một dân tộc là chiến tranh và cách mạng nước Nga đều đă trải qua mà vẫn tồn tại v́ đất đai mênh mông của ḿnh và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó cả vật chất lẫn tinh thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như thế nhưng trước mắt th́ không thể. Lư do rất đơn giản, kinh tế có thể phục hồi nhanh nhưng con người phải có thời gian dài hơn nhiều nó mới có thể lấy lại những ǵ đă mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô Viết đă bị co hẹp lại rất nhiều dầu họ vẫn được sống, được học tập và lao động trong những điều kiện của một xă hội văn minh. Chỉ đáng tiếc cái văn minh của họ là một nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh nhân loại, dựa trên những tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận, không thể tiến hoá. Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đă mất dần thói quen suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách phản kháng và bảo vệ chân lư, con người quen sống trong đám đông, trong tập thể, trong bầy đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xă hội để tạo ra những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lư khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. V́ những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, c̣n những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất nhàn nhă nếu quốc gia ḿnh cầm quyền được tổ chức giống như trại lính, ông ta sẽ có dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết, vừa có cái bây giờ lại có cả cái sau này. C̣n phải lănh đạo một xă hội dân sự của các công dân tự do th́ có hàng trăm công việc đ̣i hỏi phải được giải quyết mỗi ngày, mà cách thức giải quyết cũng rất phức tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải được tranh luận b́nh đẳng, phải thương lượng, phải luôn luôn thay đổi những chủ trương mà dân chúng không bằng ḷng. Và mọi việc làm đều phải tuân theo hiến pháp và được xă hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn báo chí. Chẳng những người lănh đạo phải bị kiểm tra những công việc thuộc về chức năng của họ mà c̣n bị theo dơi rất nghiêm ngặt mọi sinh hoạt thuộc về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về đạo đức. Ở những xă hội văn minh th́ người cầm quyền bị rất nhiều luật lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, c̣n dân chúng th́ được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng tốt, càng có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xă hội được tổ chức như thế th́ vị trí cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người có cái TÔI mạnh mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có ư thức vun trồng những nét đặc sắc của riêng ḿnh, cái vẻ đẹp của riêng ḿnh và con của cháu thành những gia đ́nh nổi tiếng, những ḍng họ nổi tiếng làm cột chống cho một quốc gia. Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh v́ nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đă tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người c̣n nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đă xem nó như vật bất thường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đă bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không ? V́ tiềm lực tinh thần của mọi cá nhân được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng vững chắc nhất của mọi thiết chế chính trị. V́ c̣n nó ta có thể vững tin sẽ vượt qua mọi sóng gió bất thần của thời thế để măi măi tiến về phía trước.
Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/5/2006