Ngựa nản chân bon
Gió vi vu làm nền cho lời ca thánh: ...” Nhờ công ơn lân tuất của Chúa ta, Đấng đă từ cao cho “Mặt trời mọc” đến thăm viếng. Và soi sáng cho những ai c̣n ngồi trong u tối và trong bóng chết, để dắt chúng ta trên con đường an lạc. Lạy Chúa xin cho các linh hồn được yên nghỉ muôn đời và được hưởng ánh sáng ngh́n thu. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta th́ dù có chết sẽ được sống lại, và ai sống mà tin ta th́ không phải chết đời đời”.
Vị linh mục đọc kinh Lạy Cha... và rảy nước thánh lên chiếc quan tài đóng vội bằng gỗ ván thuyền. Vợ người quá cố khóc thảm thiết, và lúc bấy giờ lời cầu nguyện lại làm nền cho tiếng khóc. “Lạy Chúa, xin thương người quá cố này là tôi tớ Chúa. Xin đừng theo việc làm mà phán xét họ, họ vốn một ḷng một ư với Chúa. Lại nữa, khi c̣n sống họ đă ở cùng đoàn thể các tín hữu, với một ḷng tin tưởng thành thực. Xin v́ ḷng nhân từ Chúa, cho linh hồn Giu-se hợp đoàn thể cùng các Thiên Thần Chúa trên trời. Nhờ Chúa Ki Tô, Chúa chúng con. Amen”.
Quả phụ nín khóc. Dường như một lúc nào đó, tạm quên đau khổ nàng lắng nghe lời ca thánh, và bất chợt nhận thấy lời nguyện chung gần gũi với nỗi lo lắng và niềm mơ ước riêng tư. Hoặc niềm đau xót đă đến chót vót, khiến nàng bàng hoàng ngơ ngác, như người đă lên đến ngọn đỉnh trời, lo âu nh́n vực thẳm quanh ḿnh, không biết làm ǵ nữa giữa chốn mây khói bàng bạc và gió thổi. Vị linh mục tiến thêm một bước để làm dấu thánh giá lên quan tài... “Lạy Chúa xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên muôn đời, và được hưởng ánh sáng ngh́n thu. Xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên. Amen. Mong cho linh hồn này và linh hồn mọi tín hữu, nhờ ḷng lân tuất Chúa được nghỉ ngơi bằng an. Amen”.
Đă đến giờ hạ huyệt. Từng nắm cát rơi rào rào trên tấm ván thiên, lâu lâu có lẫn tiếng sỏi rơi khô. Góa phụ lại nức nở khóc. Chẳng mấy chốc bên băi đáp phi cơ trực thăng lập chon von trên sườn núi có thêm một ngôi mộ. Những người đưa tang lần lượt xuống núi, ḷng nặng trĩu đẩy bước chân mau.
Chờ cho góa phụ về xong, vị linh mục mới cởi áo lễ và mời mấy người bạn thân về láng ḿnh uống trà. Họ vui vẻ nhận lời, mỗi người có lư do hoàn toàn khác nhau. Viên trung úy từng học ban triết ở đại học Văn khoa trước khi bị động viên muốn bàn với linh mục vài vấn đề thuộc tín lư đạo Thiên Chúa liên quan tới cái chết và sự phục sinh. Ông nhà giáo muốn có dịp đưa ra nhận xét về ư nghĩa tang lễ. Cụ cán sự công chánh hồi hưu muốn quên một ám ảnh khó chịu và muốn thưởng thức trở lại vị trà thơm Đài Loan sau mấy tuần uống trà HCR nhạt thếch.
Họ cùng vui vẻ xuống núi. Trong khi vị linh mục lui cui xuống bếp nấu nước sôi, ba người bạn cởi áo ngoài, ngồi chờ trên những chiếc ghế làm bằng thân dừa cắt từng đoạn ngắn. Trời hôm ấy hơi bức, nên họ ăn mặc hết sức “thoải mái”. Người nào cũng vận quần đùi. Cụ cán sự công chánh mặc chiếc áo thun tay cánh mầu xanh dương, trước ngực vẽ hai đứa trẻ cầm vợt vũ cầu với hàng chữ “Joanna is my childday friend”. Lúc được tàu khoan dầu vớt, cụ bỏ quên áo nhà binh rách lưng dưới ghe nên một thủy thủ Tây Đức phải nhín bớt phần quà Noel gửi cho con trai giúp cụ đỡ rét. Ông nhà giáo có lẽ cũng gặp cảnh huống tương tự nên mặc cái áo polo trắng có in h́nh một cô gái Hawaii tóc đen dài quấn lơ là tấm khăn vải hoa thật sặc sỡ. Cô gái đứng cười lẳng lơ dưới gốc dừa, trong khi ông giáo phải cười ngượng nghịu mỗi lần có ai nh́n chăm chú vào ngực ḿnh. Viên trung úy th́ giữ được cái áo treillis cho đến tận cầu tàu đảo tị nạn, nhưng luật lệ ở đây không cho phép mặc đồ nhà binh, nên anh phải cởi áo nộp cho cơ quan quản lư trị an và xin một áo may-dô có vẽ chiếc trực thăng trên hàng chữ đỏ viết vội Ku Ku Camp. Vị linh mục đem nước sôi nấu trong lon pâté hộp lên. Ông cũng mặc quần đùi, khoác thêm cái áo sơ mi trắng cũ. Ngồi chờ nước trà quanh cái bàn gỗ ép xiêu vẹo, cả bốn trở thành những người b́nh thường. Khó ḷng đoán được quá khứ, nếu chỉ nh́n mái tóc dài và cách ăn mặc của họ.
Viên trung úy ghiền cà phê không tha thiết mấy với chuyện uống trà, dù là trà Đài Loan thượng hảo hạng... nên không chịu kiên nhẫn chờ. Vị linh mục vừa ngồi xuống, anh đă vồ vập hỏi:
- Lúc giảng kinh trên thánh đường, Cha có nghe chị ấy kể lể những ǵ không?
Cụ cán sự công chánh ngăn lại:
- Chầm chậm đă nào! Trà chưa đượm đâu. Vội ǵ!
Linh mục do dự chưa biết phải theo phái già hay phái trẻ. Ông quay về phía nhà giáo, bắt gặp ánh nh́n khuyến khích. Linh mục cười rồi đáp:
- Có chứ!
Anh trung úy liền hỏi:
- Cha có bực ḿnh không?
- Không.
Ông giáo ṭ ṃ hỏi:
- Chị ấy nói ǵ thế?
Linh mục đáp thay cho anh trung úy:
- Lúc ấy tôi đang hát: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta th́ dù có chết cũng sẽ sống lại, và ai sống mà tin ta th́ không phải chết đời đời” - “Góa phụ”, xin lỗi, phải nói cho đúng hơn là “chị ấy” vật vă bên quan tài kêu khóc “Em đă cầu nguyện liên tiếp bao nhiêu ngày mà Chúa có cho anh sống được đâu! Làm sao sống lại đây, anh ơi là anh!” Họ chỉ mới yêu nhau, và trốn cha mẹ dắt nhau sang đây trước khi làm lễ cưới. Chị ấy chưa nhận phép bí tích, chưa hiểu ư nghĩa sự sống lại.
Ông nhà giáo quên cả tính e dè cố hữu, chen vào hỏi:
- ở chỗ riêng tư xin hỏi thật Cha: Cha có tin ở sự sống lại không?
Câu hỏi bất ngờ gây thích thú cho mọi người, kể cả vị linh mục.
Ông chậm răi đáp, giọng tâm sự:
- Tôi cũng xin thật thà đáp các bạn rằng đức tin đến với tôi không theo đường thẳng; lúc vào chủng viện tôi không đặt câu hỏi ấy. Tôi c̣n nhỏ tuổi, vào chủng viện hay không, có nghĩa đơn giản là vâng lời bố mẹ hay cưỡng lại. Tôi là một đứa con ngoan. Sau nhiều năm học giáo lư, tôi dần dần hiểu tầm quan trọng của câu hỏi, nhưng câu trả lời c̣n mập mờ. Nếu tôi tiếp tục ở lại chủng viện, có lẽ lư do chính là tôi sợ làm điều khác thường, điều gây ra tranh luận hoặc tệ hơn nữa là gây tai tiếng. Cuối cùng tôi xác quyết rằng có. Các bạn thấy đấy, nếu không khẳng định với tất cả niềm tin, tôi đă trở thành một người tu xuất rồi.
Thấy nét mặt viên trung úy có thoáng ngờ vực, linh mục hỏi:
- C̣n anh, anh tin không?
Trung úy đáp ngay:
- Cha đừng phiền. Tôi không tin. H́nh như Feuerbach hay Marx có nói rằng tôn giáo luôn luôn mang tính chất của nữ tính. Tôi không nhớ rơ ai nói v́ sau mấy năm, mớ kiến thức triết học ít ỏi đă rỉ sét cả rồi. Nhưng câu nói trên th́ nhất định đúng.
Vị linh mục mỉm cười bao dung, lắc đầu chầm chậm:
- Rắc rối đấy. Không tin có sự sống lại th́ sẽ không trả lời được nhiều câu hỏi hóc búa mà thiết thân: “Từ đâu ta đến đây? Sống để làm ǵ? Chết rồi sẽ về đâu? Ư nghĩa của bao nhiêu bất công đau khổ trên quăng đời ngắn ngủi?...”
Viên trung úy không chờ thêm được, cắt lời vị linh mục:
- Những câu hỏi vô ích! Tại sao phải hỏi vậy? Chính cách đặt câu hỏi như thế là dấu hiệu của nữ tính hoặc của tuổi già. Người Pháp có một cách phân biệt tuổi già và tuổi trẻ, sức-mạnh-tự-tin và sự-yếu-đuối-chịu-đựng thật hay. Gặp một bức tường chắn lối đi, tuổi trẻ xem đó là một “Obstacle à franchir”, tuổi già lại xem như một “Surface à étudier”. Không nên trở lại những điều đă rồi như “từ đâu ta tới đây?” Đau khổ ư? Bất công ư? Hăy gắng thu xếp ngay trong đời này chứ đừng nhờ vả hoặc hứa hẹn lần hồi. C̣n cái chết? Tôi đoán được ư Cha: Chỉ có Thiên Chúa ban sự sống nên cũng chỉ có Thiên Chúa mới quyết định sự chết và cho sống lại. Không. Không. Chính con người dựng tượng Chúa th́ con người có thể quyết định được cái chết. Điều quan trọng là dám hay không. Tôi cho rằng những người thực sự tin ở ḿnh là những kẻ dám tự vẫn. Không chọn được lúc và nơi sinh ra, th́ ít nhất cũng dám chọn cho ḿnh lúc và nơi chết đi!
Không khí tranh luận có vẻ căng thẳng. Cụ cán sự hồi hưu vội nói:
- Tuổi trẻ th́ lúc nào cũng thế, nhưng kinh nghiệm do lớp già chúng tôi thu thập được bằng cuộc đời thăng trầm, không phải đáng vất cả đâu. Chúng tôi đă từng u đầu v́ nhiều bức tường cao, nhiều lần v́ hăng tiết vịt, rồi mới cẩn thận “nghiên cứu” nó. Tôi dịch étudier thành chữ “nghiên cứu”, có đúng không nhỉ?
Nhà giáo cười lớn rồi bảo:
- Cụ dịch hay lắm. Thâm lắm! Cụ mỉa mai khéo quá! Nhưng ta uống trà đi chứ. Nguội mất!
Linh mục chủ nhà nhớ lại phận sự của ḿnh, cười xuề x̣a rồi mời:
- Các bạn uống trà đă. Mời cụ, mời anh. Trung úy uống trà đi. Chuyện đâu c̣n có đó. Tôi xin trả lời trung úy về chuyện tự vẫn, sau khi ta thanh toán xong “ấm” trà này. Xin cụ đừng cười. Tôi vẫn thường khoe với các giáo hữu cái rề sô tự tạo và cái “ấm Thiết Quan Âm” đặc biệt HCR này.
*
Rán thu xếp mọi sự trong đời này? Ai lại không muốn thế. Tôi cũng mong ước như trung úy. Và tôi tin rằng những con người dùng đồ đá thời tiền sử cũng khao khát “thu xếp” gọn gàng cuộc đời ḿnh với các phương tiện thô sơ. Chúng ta không biết họ có t́m được cách nào không, nhưng những di tích khảo cổ t́m thấy chứng tỏ họ chỉ t́m được một nền văn hóa tạm phù hợp với đời sống thực tế, c̣n những điều khó khăn, họ cũng hẹn lần hồi hay nhờ vả đến thần linh. Từ bấy đến nay biết bao thế hệ đă sống cuộc đời của họ trên quả đất này, và theo chỗ tôi biết, loài người vẫn chưa “thu xếp” xong. Triết lư, thần học thường nhắc đến chữ ĐạO. Con đường của nó luôn mời gọi sự khai phá, mời gọi khởi hành. Cho nên những cuộc tranh luận về sự sống và phục sinh khó ḷng đi cho đến một kết luận được mọi người công nhận. Con đường “đạo” để cất chân bước và sống trọn với niềm thao thức chân thành, chứ không phải cho kẻ đứng bên lề “nghiên cứu” lạnh lẽo. Tôi dài ḍng như vậy để giải thích v́ sao thay v́ dùng lư luận, tôi lại kể một câu chuyện để trả lời trung úy. Không. Tôi giới hạn trong vấn đề nhỏ thôi. Vấn đề tự vẫn để xác lập sự cao cả tự tín của con người. Tôi cũng xin nói thêm rằng câu chuyện này tuy có thực nhưng vẫn giống với chuyện tiểu thuyết. Nó không vraie, mà vraisemblable. Tôi xin dịch là “dường như có thực”, được không cụ? Tôi nhấn mạnh hai tiếng “dường như” v́ những điều người vợ nói với tôi, các bản thảo, sách vở người chết để lại, quang cảnh căn pḥng trên gác xép lúc tôi đến, cùng những t́m hiểu của tôi sau này qua sách báo ở thư viện đều là những chứng liệu mờ ảo, có thể như thực theo nhận định và khả năng tổng hợp yếu kém của tôi, nhưng chưa chắc đúng là sự thực nếu chính người chết hồi sinh và đứng ra kể lại cách “thu xếp” của ḿnh. Tiện hơn hết các bạn xem đây như một thứ dụ ngôn.
Hồi ấy tôi vừa được đổi về giáo xứ X. Công việc của một Cha xứ mới đến giáo xứ lần đầu bề bộn như thế nào, các bạn tưởng tượng được rồi. Ṭa giám mục địa phận cho phép vị Cha xứ tiền nhiệm ở lại giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi một thời gian, nhưng thú thật, vị ấy đi rồi, tôi cảm thấy bối rối. Giáo dân chiếm một nửa dân số ở vùng này, và v́ ở sát một căn cứ Mỹ, nên thành phần dân chúng hết sức phức tạp. Gần giống như một đống rác vậy. Nhưng là rác Mỹ c̣n nhiều thứ phế thải đáng giá, nên ruồi nhặng tứ phương dồn về đây. Gái điếm, ma cô, trộm cắp, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ. Ṭa giám mục phải đổi vị Cha xứ tiền nhiệm về địa phận khác v́ Cha “cứng” quá, muốn mọi người phải sống đúng theo tinh thần Phúc âm, kể cả các quan chức nên va chạm nặng với chính quyền địa phương. Nhà cửa dựng vội quanh khu quân sự Mỹ th́ luộm thuộm, sặc sỡ một cách lơa lồ với đủ thứ bảng hiệu tiếng Mỹ như Steak house, Laundry shop, Bar, Car washing, Room for rent. Các bạn đừng cười, có cả bảng quảng cáo “Beautiful roommate for you” nữa. Theo lời khuyên của Cha tiền nhiệm, tôi bắt đầu tổ chức lại các hội đoàn và b́nh thường hóa các sinh hoạt phụng vụ. Những giáo dân đến tiếp xúc với tôi, đúng như trung úy nói, hầu hết là đàn bà. Gái điếm bị lính Mỹ bỏ ngang đến cầu cứu Chúa. Mà gái điếm ế khách toan hoàn lương cũng có. Không thiếu những bà mẹ lo lắng thấy con sa vào cám dỗ, hoặc những người vợ xanh xao mất chồng. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi tập hát cho ca đoàn nhà thờ th́ một người đàn bà ốm yếu, mặt hốc hác, mắt thâm quầng hớt hải đến t́m. Tôi nghĩ thầm: “Lại thêm một bà mẹ mất con nữa đây”. Người đàn bà vừa gặp tôi đă qú xuống van lơn trong nước mắt:
- Con van Cha! Xin Cha đến ngay cho! Nhà con đang hấp hối. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con!
Tôi vội đi ngay. Căn nhà ván ọp ẹp nghèo nàn nhưng không thuộc vào loại “ăn xỗi ở th́” như những Laundry shop, Bar, Room for rent vây quanh. Thoạt nh́n tôi đă đoán chủ nhà thuộc loại công chức nghèo lỗi thời, quyết giữ nếp nên kiên nhẫn đi ngược gió. Loại nhà hạng tiểu công chức ở phố huyện như các bạn thường thấy: một cửa lớn và hai cửa sổ lá sách không lắp kính, phía trước có hàng rào gỗ thấp ngăn con nít ra đường, bàn ghế gỗ loại chắc và rẻ ở pḥng khách, cái tủ chè đựng vài cái ly, bộ chén tách, hộp trà, đôi lọ thuốc cấp cứu gia dụng... Chỉ nội việc giữ nguyên gian pḥng khách cổ lỗ bám bụi truyền thống chứ không sửa thành room for rent cũng đủ chứng tỏ “khuynh hướng bảo thủ” của chủ nhà. Tôi có thiện cảm ngay. Tôi chỉ hơi ngờ ngợ khi nh́n quanh không t́m thấy bàn thờ Chúa.
Người đàn bà dẫn tôi qua một cửa ngăn có treo tấm màn cửa đă hoen ố cũ kỹ. Gian sau tối om và ẩm mốc. Ngay sau cửa ngăn có một cầu thang bằng gỗ dẫn lên gác xép. Người đàn bà thấy tôi dọ dẫm bước, liền nói:
- Xin lỗi Cha. Để con đi thắp đèn.
Tôi quen dần với bóng tối nên đáp:
- Khỏi cần. Cha đă thấy rơ các bậc cấp rồi.
Người đàn bà đi sau vẫn chưa yên tâm, run run nhắc:
- Cha vịn vào thanh gỗ kẻo ngă.
Tôi leo thang chầm chậm, ṭ ṃ đưa mắt nh́n xuống pḥng sau. Ngoài hai chiếc giường con hẹp màn gối bừa băi, gian giữa chứa toàn sách là sách. Không có tủ kệ ǵ cả. Một miếng ván kê lên hai viên gạch, thế rồi trên đó chồng chất so le hết lớp sách này đến lớp sách khác, cao quá tầm người. Tôi khựng lại. Nếu người đàn bà không đẩy lưng tôi giục giă, giọng pha lẫn sợ sệt:
- Xin Cha lên nhanh cho. Nhà con nằm trên đó.
Có lẽ tôi đă dừng lại để ngắm khung cảnh lạ mắt bất ngờ ấy rồi.
Lên khỏi thang gác, tôi c̣n gặp bất ngờ khác lớn hơn. Gác xép thoáng khí hơn tầng trệt, cũng chồng chất toàn sách. Ánh sáng chiều tà dọi từ cửa sổ phía tây nhuộm vàng mọi thứ, kể cả người đàn ông đang nằm ngửa trên sàn gác. Quanh ông, sách vở, giấy tờ vất lung tung. Người vợ không dám lên khỏi cầu thang, ló đầu sợ sệt hỏi:
- Thưa Cha, nhà con c̣n sống không?
Tôi vội bước đến chỗ người chồng nằm. Người đàn ông đă già, khoảng trên dưới sáu mươi. Hai mắt trợn. Lưỡi thè ra, nước miếng c̣n đóng bọt hai bên mép. Đũng quần ướt. Tôi đâm hồ nghi. Chăm chú nh́n kỹ chỗ cổ áo, tôi thấy có vết bầm tím xây xát quanh cái cổ xanh xao. Tôi vội ngước lên trần nhà, hy vọng ḿnh đoán sai. Nhưng không. Một đoạn dây thừng c̣n treo lơ lửng, khẽ lay động khi có gió thổi. Tôi thất vọng, hơi giận khi quay lại nói với người vợ:
- Ông ấy thắt cổ tự vẫn mà!
Người vợ đă lên khỏi cầu thang, đứng nép vào vách ván.
Đoán được tâm trạng của tôi, bà ta phân bua:
- Nhưng nhà con chưa chết. Hơn nữa, lúc c̣n sống...
Người vợ ngập ngừng, rồi dừng lại. Có lẽ bà chợt thấy câu nói của ḿnh có mâu thuẫn vô lư. Tôi cúi xuống đưa tay sờ lên chỗ trái tim người chồng. Không cảm thấy ǵ cả. Sờ lên tay chân. C̣n mềm nhưng bắt đầu lạnh. Khuôn mặt khắc khổ bất động, cái nh́n trợn trừng mờ đục, vừa giận dữ vừa chới với. Tôi quay lại nói dứt khoát:
- Ông nhà chết rồi!
Người vợ bật khóc nức nở, rồi sụp xuống qú bên cạnh tôi. Giọng bà hối hả thống thiết:
- Con van Cha. Cha hiểu giùm con. Không phải con lừa dối Cha. Lúc con lật bật cắt dây đem nhà con xuống, nhà con vẫn c̣n thở. Nhà con có lầm bầm ǵ đó, con nghe h́nh như nhà con muốn xưng tội. Trước đây đôi lần nhà con cũng có ư đó. Thế nào nhà con cũng viết đến bản thảo. Xin Cha tin con. Con van Cha. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con. Con van Cha! Con lạy Cha!
Nói xong, người vợ khóc lớn hơn. T́nh cảnh tôi thật khó xử. Rơ ràng người đàn ông này đă tự ư quyết định cái chết của ḿnh, đă cướp đoạt quyền năng Thiên Chúa, đă “dám chọn cho ḿnh lúc chết và nơi chết” như trung úy vừa bảo. C̣n cái ư định muốn xưng tội từng viết đâu đó trên tờ bản thảo nào đó nằm lây lất khắp gác xép, th́ đáng ngờ lắm. Làm sao cho khỏi đi ngược với tín lư? Nếu không có những chồng sách và khung cảnh “ngược gió” đầy khắc kỷ vừa gây thiện cảm cho tôi, có lẽ tôi đă từ chối dứt khoát từ lúc đầu. Tôi mới về một giáo xứ lạ và phức tạp, các bạn hiểu cho, tôi cần giữ một số nguyên tắc. Tôi do dự chưa biết phải làm thế nào; chỉ v́ chất khắc kỷ ấy đă thuyết phục tôi. Cuối cùng khuôn mặt xanh xao thống khổ và đôi mắt van lơn của người vợ khiến tôi nhượng bộ. Tôi hỏi tên thánh của người chồng. Người vợ mừng rỡ cho biết tên Bao-ti-xi-a. Tôi làm phép giải tội. Nhưng làm xong, tôi lại sợ đă làm điều trái với Phúc âm. Hy vọng c̣n lại của tôi là sẽ t́m được ư muốn xưng tội của người chết giữa đống bản thảo. Tôi đă đoán không lầm. Người chết là một nhà văn, một nhà tư tưởng từng xuất bản nhiều sách và đăng nhiều bài tiểu luận trên tạp chí.
Việc đầu tiên của tôi là hỏi cặn kẽ về nguyên do cái chết. Người vợ được thỏa nguyện nên lấy lại đủ b́nh tĩnh để nghe và đáp. Cho đến chiều hôm trước, người chồng chưa tỏ điều ǵ khác thường. Mái tôn rỉ sét, mưa dột vào gian giữa tầng dưới, nên người vợ thấy chồng cặm cụi xếp dọn lại đống sách cũ, không lấy làm ngạc nhiên. Ông xuưt xoa tiếc rẻ những cuốn bị thấm nước hoặc bị mối đục, rồi bê hết những cuốn sách quí có đóng b́a da gáy in chữ vàng lên gác. Cẩn thận hơn, ông đem chiếc ghế đẩu theo để làm giá. Những hành động đó b́nh thường, hoàn toàn b́nh thường. Người chồng thức khuya, vật vă khổ sở với đống bản thảo. Chuyện đó cũng b́nh thường nốt. Điều bất thường duy nhất là buổi sáng, người chồng cứ thấp thỏm chờ đợi cái ǵ, lâu lâu nhắc người vợ sao đă trưa chưa đi chợ. Người vợ hẹn chiều. Người chồng ậm ừ khó chịu, rồi im lặng. Lúc 2 giờ, người chồng dặn vợ nếu đi chợ nhớ mua cho ông bánh thuốc lào loại 888. Dù thức ăn c̣n đủ đến sáng hôm sau, người vợ bắt buộc phải ra chợ huyện. Lúc trở về, ông đă thắt cổ tự vẫn rồi.
Tôi thắc mắc:
- Tại sao chồng sách quí lại đổ vương văi thế kia?
Người vợ có vẻ lo âu, ngập ngừng nh́n xác chồng một lúc như ngại người chết nghe thấy, rồi mới đáp nhỏ:
- Nhà con không dùng cái ghế đẩu. Nhà con xếp chồng sách cho cao, leo đứng trên đó để...
Bà liếc nh́n đoạn dây thừng đong đưa, mặt xám xanh, không nói tiếp được. Tôi hiểu. Thật khéo chọn cách chết. Đúng là “cái chết chín chắn hàm súc” của một nhà tư tưởng suốt đời nhọc nhằn với đống sách vở. Tôi đưa mắt nh́n chiều đổ của đống sách quí. Đúng lắm. Sách đổ theo một chiều, cái chiều người chồng đă lấy đà ẩy ngă chồng sách kê sau khi đưa cổ vào tḥng lọng. Tôi ṭ ṃ muốn xem những cuộn sách được lựa chọn làm chân đế cho cái chết tự nguyện. Các bạn đoán thử xem những cuốn ǵ!
Biết vị linh mục muốn áp dụng kỹ xảo của những tay kể chuyện nhà nghề, ưa chọn chỗ hấp dẫn nhất làm phút giải lao, ba người kiên nhẫn chờ nhà tu chầm chậm uống hết ca nước trà. Viên trung úy mất kiên nhẫn trước tiên, nên hỏi vội:
- Ông ta là nhà tư tưởng ư? Cha cho biết tên được không?
Linh mục đáp:
- Rất tiếc, như đă nói từ đầu, tôi muốn giữ nguyên cái chất vraisemblable của câu chuyện. Những cuốn sách quí tôi t́m thấy ngay dưới chân xác chết là bộ Tứ Thư bằng chữ Hán, kinh Viên Giác và Lăng Nghiêm do Viện Phật Học Nam Việt xuất bản, bản Đạo Đức Kinh xuất bản tại Hồng Kông, Nam Hoa Kinh do Nhượng Tống dịch, bản dịch kinh Coran bằng tiếng Pháp, bộ Tư Bản Luận của Karl Marx, bộ Luận Về Lịch Sử của Toynbee, cuốn sách mỏng: Bài Học Lịch Sử của Ariel & Will Durant, cuối cùng, dĩ nhiên phải có bộ kinh Cựu và Tân Ước. Trung úy thấy đấy, một người đă bỏ cả đời đọc đi đọc lại bao nhiêu cuốn kinh sách để gắng trả lời các câu hỏi bức thiết “Ta từ đâu đến? Sống làm ǵ? Chết về đâu? v.v...”, để gắng “thu xếp” hoặc t́nh nguyện t́m giùm cho loài người cách “thu xếp”. Ông ấy t́m được ǵ chưa? Lúc đó tôi cũng hỏi như vậy. Tôi quay lục t́m đống bản thảo bừa bộn. Đọc kỹ các tựa đề và số thứ tự ghi ở góc trên mỗi xấp bản thảo, tôi mới khám phá ra nhiều điều thú vị khác. Không, các bạn yên tâm. Lần này tôi không bắt các bạn làm thầy bói nữa đâu. Hóa ra đống bản thảo chỉ có vẻ bừa bộn bề ngoài. Đọc kỹ, tôi thấy tác giả đă xếp riêng từng khóm, mỗi khóm luận về cùng một loại đề tài. Kỹ lưỡng hơn, trong mỗi loại có xếp thứ tự các bài viết theo thời gian. Bài viết xưa nhất viết năm 1940 về phong trào đấu tranh của thợ mỏ Cẩm Phả. Bài mới nhất “viết” một ngày trước khi tự vẫn, xếp vào loại siêu h́nh học, chỉ đơn giản là một trang giấy học tṛ với một dấu hỏi và một dấu than lớn nét run run bằng mực viết nỉ. Tôi đă đoán như thế này, không biết các bạn có đồng ư không. Nhà văn đă chuẩn bị kỹ cho cái chết của ḿnh, chuẩn bị trong sáng suốt và tự chủ. Từ nhiều hôm trước, ông đă lục và đọc lại tất cả những bài ḿnh viết từ gần 40 năm nay, đọc thật kỹ rồi mới phân loại, ghi số. Thu hoạch kết quả suy nghiệm bao nhiêu năm, ông mới “viết” bản thảo sau chót. Một dấu hỏi, và một dấu than. Ông quyết định t́m cái chết. Ban đầu ông định t́m cái ghế đẩu, và muốn vợ con bạn bè c̣n ở lại khỏi hiểu lầm, ông xếp chồng sách quí và xấp bản thảo ngay ngắn bên cạnh cái ghế. Nhưng tới lúc leo lên ghế để thắt tḥng lọng, nhà văn chợt t́m ra một chân lư. Những chuẩn bị cẩn thận vừa làm có ư nghĩa ǵ trước cái chết? Sách quí ư? Nó có giúp ông hiểu ǵ thêm về cuộc đời? Những điều ông suy luận ư? Nó “thu xếp” được ǵ cho ông và cho đồng loại? Ông tự thấy lẩm cẩm. Ông nhấc cái ghế đẩu đặt vào góc pḥng, quyết định dùng chồng sách thay vào. C̣n bản thảo, làm ǵ bây giờ? Đây mới thực là máu thịt, là mồ hôi nước mắt của đời ông! Ông muốn vất tung tóe cho xứng với dấu than trong bản thảo cuối. Nhưng niềm kiêu hănh tuyệt vọng của người cầm bút ngăn ông lại. Ông vẫn vất chúng đi, từ trên chồng sách quí. Nhưng vất theo từng xấp, từng loại! Những bài báo và sách của nhà văn về sau tôi t́m đọc ở thư viện quốc gia xác nhận dự đoán của tôi. Nhà văn đă gặp bế tắc về tư tưởng. Ông hăm hở mở đường, nhưng về già th́ gặp tuyệt lộ. Điều đáng yêu (hoặc đáng thương tùy theo lượng bao dung của từng người) là đến phút chót, ông ấy vẫn hy vọng cách chết của ḿnh mang một message, một thứ sứ điệp nào đó.
Cụ cán sự hồi hưu hỏi:
- Rồi Cha có t́m được bản thảo ghi ư muốn xưng tội không?
Vị linh mục đáp, thật trầm tĩnh:
- Có, tôi t́m ra ngay.
Đoán biết ba người bạn chờ đợi, linh mục tiếp:
- Tôi t́m ở dấu than của bản thảo cuối cùng.
*
Điều dễ đoán là ngay sau khi vị linh mục dứt lời, viên trung úy giành nói trước:
- Xin Cha đừng buồn. Tôi xin nói ngay là tôi không đồng ư với cách suy luận của Cha. Cha vừa nói hành động cuối cùng của nhà văn đó đáng yêu hoặc đáng thương tùy theo lượng người; Nếu tôi không lầm, Cha cho là đáng thương chứ ǵ? Tôi cho thật đáng yêu! Đáng kính! Cha đă lầm lẫn ở một số điểm quan trọng thuộc phương pháp luận. Tuy Cha có cẩn thận không dám xác định câu chuyện vừa kể là có thật, là vraie, mà chỉ vraisemblable, dường như có thật. C̣n xa với “dường như có thật” lắm lắm! Cha quan sát khung cảnh gác xép để tưởng tượng ra diễn tiến cái chết, rồi dùng các bản thảo đọc vội lẫn sách báo do người chết viết để kiểm chứng. Phương pháp ấy không thể tái tạo sự thật được. Này nhé, những ǵ chúng ta cảm thấy, nghĩ ra phần lớn đều mông lung, phức tạp. Khi định được ư, ta đă loại bỏ không thương tiếc một số yếu tố không phù hợp với lư trí, hoặc ước lệ xă hội. Rồi từ lúc định ư cho đến lúc viết thành chữ, ta lại phải đơn giản hóa, hệ thống hóa để người khác hiểu được. Chữ viết là một thứ đồ nguội, tệ hơn nữa, một thứ đồ hộp có chỉ dẫn tỉ mỉ cách pha chế cho tiện lợi đối với kẻ phàm tục lười biếng. Cái nóng hôi hổi đang bốc hơi, cái c̣n chảy máu không thể diễn ngay thành chữ. Cho nên đọc những ǵ người ta viết để t́m hiểu họ là điều đáng ngờ. Nếu vạn bất đắc dĩ không có cách nào khác th́ chỉ nên tin những ǵ họ viết vào ba thời điểm sau đây: thứ nhất là những tác phẩm thời niên thiếu, lúc họ chưa nổi danh nên chưa tự uốn nắn bản ngă v́ cái hào quang giả tạo. Tôi tin những ǵ Marx viết lúc c̣n trẻ giá trị gấp mấy trăm lần bộ Tư Bản Luận. Thứ nh́ là những ǵ họ viết lúc về già. Khổng Tử thú nhận đến 70 tuổi mới hiểu đôi chút về lẽ Dịch. Có lẽ lúc ấy “Ngài” nhớ lại cái thời cắm cúi san định Thi, Thư, Lễ, Nhạc, sẽ không khỏi đỏ mặt v́ tự thấy lẩm cẩm quá. Thứ ba là những ǵ họ nói họ viết lúc rong chơi. Rong chơi th́ khỏi cần làm dáng làm bộ với ai nữa, có nói điều ǵ cũng khỏi sợ đồ đệ chộp lấy ghi thành kinh lưu cho hậu thế. Con người thật của Khổng Khưu chỉ hiện ra khi ông ao ước thấp lè tè, ao ước được tắm một phát ở sông Nghi, hóng mát ở đền Vũ Vu, rồi dang tay hát nghêu ngao mà về. Ngoài ba thời điểm đó ra, những ǵ một người viết đều có tính cách bất thấu quang, đều opaque.
Nhưng thôi cứ tạm nhận như ư Cha, là ông ấy tuyệt vọng trước khi tự vẫn đi. Con người ở cảnh tuyệt lộ đă đáng thương chưa? Thưa cha, chưa. Ngược lại, ngay trong trường hợp bế tắc, tuyệt vọng, cái chết tự ư vẫn hết sức cao cả.
Bắt chước Cha, tôi xin kể một câu chuyện có thực.
Vị linh mục bẻ lại:
- Có thực theo tiêu chuẩn ǵ? Theo những điều anh nghe, hay theo lời đồn đại?
Trung úy đáp:
- Theo những điều tôi thấy. Cha yên tâm, tôi cố gắng hạn chế các suy luận chủ quan, để chỉ c̣n những dữ kiện thô, chưa trau chuốt. Hồi ấy ṿng pḥng thủ cuối cùng ở Xuân Lộc đă vỡ, Sài G̣n ở trong t́nh cảnh tuyệt vọng hoảng loạn. Ông Thiệu từ chức giao ghế cho cụ giáo già sau khi hứa sẽ ở lại với “anh em binh sĩ” chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng. Không biết cụ giáo có chống gậy lên Tân Sơn Nhất tiễn gia đ́nh người bạn chiến đấu hay không; có lẽ cụ mệt quá, chán cho nhân t́nh thế thái không hợp lẽ Quốc Văn Giáo Khoa Thư quá, nên cụ vội trao ghế lại cho Big Minh. Ông Minh vơ đầu này vơ đầu kia vẫn không đủ người lập nội các, định gọi điện thoại mời ai th́ đă nghe chị sen anh tài xế người đó đáp là ông chủ đă xách va-li lên Tân Sơn Nhất rồi. Kẹt nhất là bộ quốc pḥng. Giao cho ông tiến sĩ luật cái bộ súng đạn, Big Minh không yên tâm chút nào. Chất nổ, xe tăng, máy bay đâu có chịu học luật! Nh́n quanh chỉ toàn các tướng về vườn lâu nay chuyên mở tiệm nhảy đầm, nuôi gà, làm thầu khoán. May c̣n có “anh cả Trường Sơn” ḍng dơi hoàng tộc để giao khoán cái tổng tham mưu. Anh cả lên tivi chửi bọn chuột nhắt hèn nhát không lo đánh đấm mà chỉ lo trốn, rồi ngay hôm sau, chính anh cả cũng làm chuột nhắt. ở các bến tàu, sân bay, thiên hạ chen chúc nhau, nếu cần dày xéo chém giết nhau để t́m một chỗ ra đi. Lính ră ngũ vất quần áo súng đạn đầy hai lề xa lộ, chỉ mặc độc cái quần đùi thất thểu qui cố hương. Cướp bóc lan tràn khắp phố phường. Cái cảnh chợ chiều ấy, các bạn đă chứng kiến tận mắt, tôi khỏi cần phải dài ḍng. Tôi chỉ nhắc sơ lược để lưu ư các bạn rằng hồi ấy chúng ta hoang mang cùng cực, không có lấy một chút ǵ để tin tưởng nữa. Cùng thất trận, nhưng chúng ta khác xa với t́nh cảnh dân tộc Đức và Nhật năm 1944, 1945. Họ c̣n được niềm kiêu hănh. Các sĩ quan Nhật mổ bụng tự vẫn với lương tâm b́nh yên và một niềm tự hào ngút ngàn. Chúng ta hồi đó có ǵ? Không có ǵ cả. Ngoài ḷng trung thực ra, chúng ta không có ǵ làm vốn để dám lên tivi chửi bới “lũ chuột nhắt”, mà cũng không đê tiện đến nỗi chửi xong vội vă cuốn gói ra đi. Không biết các bạn thế nào, thú thực hồi ấy, tôi dùng dằng bất quyết. Ra đi th́ không muốn. ở lại th́ e ngại. Cuối cùng phải t́m đủ lư luận để trấn an ḿnh. Nào là ḿnh chỉ là hạng sĩ quan nhép ngồi bàn giấy, không tội t́nh ǵ phải lo sợ. Nào là thà làm cái xác chết bón cho cây Việt Nam hơn là làm kẻ tha hương lơ láo! Đất nước thống nhất rồi, Nam Bắc một nhà, bây giờ ta có dịp “nối ṿng tay lớn”. Một ông bạn thi sĩ của tôi làm ngay bài thơ tả khoái cảm lúc ngồi xe lửa hạng nhất có couchette đi du lịch từ Sài G̣n đến tận “Mục Nam Quan”, đến mỗi ga vẫy tay chào những người anh em thân ái, đùa với em bé, hàn huyên với cụ già, tay bắt mặt mừng với đôi mắt rướm lệ. Chung chung th́ bọn chúng ta đều lăng mạn như vậy cả. Hoặc bỏ ra đi, hoặc ở lại với cái “mộng thanh b́nh”. Không như Nhật năm 1945, rất ít người nghĩ đến chuyện tử tiết! Tử tiết để làm ǵ? Cho ai? Cho những ông tướng chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng à? Hay cho cụ giáo? Cho Big Minh? Phải có một niềm tin sắt đá vào cái ǵ đó, hoặc một niềm kiêu hănh cao cả nào đó, người ta mới tử tiết được chứ! Cho nên tôi hết sức kinh ngạc khi nghe tin một số tướng tá ở vùng 4 đă tự vẫn chết, sau khi căn dặn cấp dưới chuẩn bị kỹ thủ tục “bàn giao” theo lệnh tân Tổng thống. Người dễ dăi vô tư tiếc rẻ giùm họ. Việc ǵ tự làm khổ thân thế! Sao không khôn ngoan như anh cả Trường Sơn? Người ưu tư th́ hoang mang. Nhưng bao nhiêu chuyện đổi đời dồn dập đến sau 30-4-75 khiến thiên hạ không c̣n tâm trí đâu nghĩ đến họ nữa. Lâu lâu nhớ lại, họ thấy thương, và phục, một cách mơ hồ thuần cảm-tính.
Nếu không tận mắt chứng kiến một cái chết tương tự, có lẽ tôi cũng giống như bao nhiêu người khác. Hôm ấy là 2-5-75, ba anh em tôi, một đứa hải quân lái tàu tuần duyên ở Nha Trang, một đứa phi công AD6, một đứa chiến tranh chính trị quân đoàn 1, may mắn đoàn tụ ở Sài G̣n trước ngày 30-4, sáng hôm ấy mở cả caisse Champagne (Champagne dân hôi của khuân từ kho lương thực Mỹ ở quân cảng về bán rẻ rề ở chợ Tân Định, mỗi chai 300 đồng), cắt nguyên một cái đùi jambon (cũng nhăn hiệu Mỹ cùng xuất xứ) ra nhậu mừng ḥa b́nh và đoàn viên. Chúng tôi hân hoan, “hồ hởi” chờ đợi một ông anh tập kết ra Bắc năm 1954 sắp về. Thằng em hải quân định về Cần Thơ mua vườn, đào ao nuôi cá. Thằng lái AD6 muốn lên cao nguyên khai hoang, hai vợ chồng sẽ sắm đôi ngựa để chiều chiều thắng yên phi trên đồi cao nh́n xuống cảnh thung lũng như những lúc nh́n từ buồng lái AD6. Thật khôi hài mà cũng thật cảm động! Nhậu xong, chúng tôi dứt khoát với quá khứ bằng cách đem hết đồ nhà binh, thẻ bài, mũ măng cân đai ra hỏa thiêu. Mẹ chúng tôi cười chảy cả nước mắt. Thôi, thế là từ nay hết thấp thỏm lo âu mỗi khi nghe tin chiến sự! Qua được bao năm bom đạn mà lũ con trai c̣n trở về đầy đủ, chẳng những thế, không đứa nào bị thương tật, c̣n phước nào lớn hơn! Chúng tôi đèo nhau trên hai chiếc Honda đi xem phố xá. Cờ đỏ, khẩu hiệu vải đỏ, bảng cơ quan nhà nước màu đỏ. ở đâu cũng đỏ ối. ở đâu cũng chói ḷa. Chúng tôi ra đường Lê Lợi. Người chật như nêm. Xe hơi, xe Honda phun khói mù mịt, chờ thật lâu ở các ngă tư mới nhích được một bánh. Người đi bộ th́ xúm quanh các toán bộ đội, xe tăng. Thấy đi xe bất tiện quá, chúng tôi gửi xe đi bộ. Mệt, khát, tôi đề nghị vào Givral t́m cái ǵ để uống. Hai đứa em đồng ư ngay, nhưng trong tiệm kem cũng chật cứng. Các bạn nhớ, dân Sài G̣n hồi đó vung tiền qua cửa sổ v́ những cuộc nhậu nhẹt lu bù. Sợ chẳng mấy chốc tiền cũ không xài nữa, hoặc nghe nói cách mạng chủ trương sống tiết kiệm khắc khổ, không ăn bây giờ về sau lại tiếc. T́m không ra ghế, chúng tôi qua công viên trước Quốc Hội đứng đợi. Hai pho tượng thủy quân lục chiến vẫn chỉ mũi súng vào cái nhà hát vắng đào kép. Tôi đang trỏ lên ngọn cây trước Quốc Hội bảo các em:
- Nếu những cây này biết nói và viết, th́ chắc chúng đă trở thành những nhà viết sử tài ba.
Th́ một người đàn ông khoảng 40 tuổi mặc áo mưa mầu xanh đậm loại không quân đến gần chúng tôi. Cậu lái AD6 tưởng gặp một xếp lớn cùng binh chủng, sửa lại thế đứng để chờ chào theo thói quen quân kỷ. Nhưng không! Người đàn ông không quen biết ǵ với chúng tôi cả. Qua khỏi ghế đá chúng tôi ngồi, ông ta tiến đến chỗ bục đặt tượng, ngước nh́n hai anh thủy quân lục chiến một lúc. Thằng em hải quân của tôi khôi hài:
- Chắc là một người anh em vừa từ Bắc vào!
Tôi hỏi:
- Sao biết?
- Trời bức người đông thế này mà mặc áo mưa là một sự lạ. Loại áo nhà binh này, dân Sài G̣n đang giấu hoặc đốt đi không ai dám mặc. Chỉ có “người anh em” vừa mua được chiếc áo tốt mới dám mang đi khoe phố mà thôi!
Chúng tôi cười, phục đứa em thông minh. Người đàn ông khác thường trở thành mục tiêu quan sát của chúng tôi.
Ông ta đứng nh́n hai pho tượng khá lâu, rồi nh́n quanh như có ư chờ đợi ai. Nét mặt ông khắc khổ, lo lắng. Tôi đoán ông đi lạc, không biết đường về cơ quan. Nếu không có ḷng tự ái của kẻ thua trận, có lẽ tôi đă tiến tới gần chỉ dẫn giùm lối về cho người anh em rồi. Làm thế th́ c̣n mặt mũi nào! Mới hai ngày đă sợ sệt quị lụy với kẻ chiến thắng đến thế sao! Hai đứa em tôi cũng nghĩ như vậy, nên cả ba chúng tôi vẫn ngồi nguyên chỗ cũ.
Người đàn ông nh́n quanh quất một lúc, rồi đứng nghiêm, nh́n thẳng về phía quốc hội. Ông ta mở cái gói giấy từ đầu vẫn kẹp ở nách bên phải ra. H́nh như tay ông hơi run. Chúng tôi càng ṭ ṃ hơn. Đang cúi xuống mở nút dây buộc, đột nhiên ông ngước lên nh́n thẳng về phía chúng tôi. Ánh nh́n đầy thảng thốt ngờ vực. Tôi sợ ông ta khó chịu v́ chúng tôi ṭ ṃ, nên nh́n tránh đi nơi khác. Hai em tôi cũng vậy. Lúc tôi quay lại, đă thấy ông ta đội cái mũ két sĩ quan lên đầu và đang cởi hàng nút cái áo mưa. Lạ thật! Ông ta điên chăng? Vài người dạo phố bắt đầu ṭ ṃ thắc mắc như chúng tôi. Người đàn ông cởi áo mưa thật nhanh, và khi ông ta vất chiếc áo mưa xuống, chúng tôi đều sững sờ: Ông ta mặc nguyên bộ lễ phục của sĩ quan chuyên nghiệp đào tạo từ trường sĩ quan cảnh sát, với quân hàm trung tá vàng chói. Không để cho chúng tôi ngạc nhiên lâu hơn, ông đứng thẳng người, mắt nh́n thẳng về hướng quốc hội, và rút súng lục từ túi quần ra tự bắn vào đầu. Tiếng súng nổ nhỏ thôi, nhưng ba anh em chúng tôi đều bàng hoàng sợ hăi. Tôi bật đứng dậy. Viên trung tá ngă ngửa ra, nằm thẳng, đầu hướng về phía quốc hội. Thân ông oằn lên một chút, rồi nằm trở lại thế ngửa, hai chân dăn ra. H́nh ảnh cuối cùng tôi thấy được là hai chân người hấp hối cố gắng... cố gắng hết sức để khép lại cho đúng thế nghiêm.
Người hai bên phố ùn ùn kéo đến. Chúng tôi sợ rắc rối nên chạy qua phía Givral, cố t́m cho được một chỗ để vừa giải khát cho đỡ hồi hộp vừa quan sát tiếp chuyện sắp tới. Khách đă bỏ đi nhiều nên cả ba chúng tôi t́m được chỗ ngồi. Nhưng có ai dọn kem cho chúng tôi đâu. Bên kia cửa kính hiệu kem sang trọng có máy lạnh, chúng tôi chỉ thấy toàn lưng với lưng. Có tiếng xe cứu hỏa hú c̣i. Đám đông sợ hăi chạy dạt xa hai pho tượng. Nhờ thế, tôi mới thấy xác viên trung tá đă được phủ bằng một tấm vải trắng. Tấm vải hơi ngắn, nên chỉ phủ được thân người và cái đầu. Đôi chân người chết khép chặt, mũi giầy thẳng lên bầu trời đúng theo thế nghiêm. Về sau tôi được biết tấm vải là cái khăn phủ bàn của hiệu kem Givral.
Ông giáo nghe đến đó, cảm động kêu lên:
- Thật là oái oăm! Tại sao có sự trùng hợp kỳ lạ vậy?
Vị linh mục hỏi:
- Ông nói ǵ thế? Cái ǵ trùng hợp?
Ông giáo chờ cho bớt xúc động rồi đáp:
- Phải. Đúng là một sự trùng hợp oái oăm! Cha thử tưởng tượng xem. Trên tấm khăn trải bàn hiệu Givral ấy, đă dính bao nhiêu nước mồm nước dăi của bọn đào kép từng gấu ó nhau trong cái nhà hát lớn. Đứa này tố đứa kia buôn thuốc phiện. Đứa kia tố đứa nọ buôn lịch cởi truồng. Đứa ngụy ḥa, đứa thân cộng. Đứa bảo không có đàn ông làm sao có đàn bà. Đứa bảo không có đàn bà làm sao có đàn ông. Đứa đ̣i quyền đái ngoài đường. Đứa đ̣i thừa nhận con hoang. Tấm khăn bàn ô nhục ấy phủ được khuôn mặt và thân thể người chết, nhưng có phủ được đôi chân nghiêm chỉnh đâu. Viên trung tá tự vẫn trước quốc hội v́ c̣n nghĩ khi kéo qua Givral giải lao, chúng chỉ làm bẩn được tấm khăn liệm nhỏ xíu. Chúng không lấy thúng úp voi được!
Anh trung úy không ngờ câu chuyện kể của ḿnh có ư nghĩa lớn lao như vậy, đỏ mặt v́ sung sướng lẫn ngượng ngùng. Anh thêm tự tín khi nói tiếp:
- Câu chuyện của tôi chỉ có vậy, thưa cha. Chỉ là một số những ghi nhận c̣n thô, xù x́ không trau chuốt. Tôi không dám nhận cách suy diễn lư thú của bạn nhà giáo, v́ nó tượng trưng quá. Tôi chỉ nghĩ đơn giản thế này: dù ở trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hành động tự sát của ông trung tá vẫn xác định trọn vẹn được ư nghĩa cuộc đời ḿnh. Cha từng hỏi: sống để làm ǵ? Vâng! Tôi “thu xếp” câu hỏi đó lại, thành câu trả lời này: Không thể chấp nhận được cuộc sống không có ư nghĩa! Một tên đánh thuê có lẽ sống của tên đánh thuê. Kẻ phiêu lưu t́m ư nghĩa trong tư tưởng chủ năo: điều quan trọng không phải ở chỗ v́ sao ta bỏ đi, mà ở chỗ cái mới ta sẽ t́m thấy. Cái chết của viên trung tá khiến tôi liên tưởng đến cái chết của Mishima tác giả Kim Các Tự. Dường như (xin Cha nhớ cho đây là lần đầu tôi dám nói một điều “dường như có thật”) dường như viên trung tá muốn nhắn với bạn bè và kẻ thù của ông rằng: tuy thất bại, ông vẫn phải được kính nể như một địch thủ nghiêm chỉnh. Một cách “thu xếp” cuộc đời trọn vẹn đấy chứ, thưa cha!
*
Hai người đă phát biểu ư kiến của ḿnh. Nhiệt tín của nhà tu, ḷng đam mê tự tin của tuổi trẻ, cộng với sự quá khích háo thắng thường thấy trong các cuộc tranh luận, đă khiến vô t́nh họ trở thành những người đối địch không khoan nhượng. Những tiếng “thu xếp”, “dường như là có thật” trao qua trả lại hoài, cuối cùng thành tiếng mỉa mai. Vị linh mục và trung úy cũng nhận thấy điều đó, nên sau khi trung úy dứt lời, linh mục mỉm cười gật gù, tỏ ư chấp thuận một phần không nhỏ lập luận của đối thủ.
Tuy thế cụ cán sự hồi hưu vẫn chưa yên tâm. Cụ thích sự hài ḥa, ghét tất cả cái ǵ quá khích. Cho nên cụ sợ vị linh mục lại sắp nhập cuộc. Thấy nhà tu im lặng mỉm cười, cụ lại hiểu lầm rằng linh mục muốn biểu lộ ḷng rẻ rúng, khinh khi. Cụ muốn quay câu chuyện sang phía dễ dăi. Cụ cán sự hồi hưu hỏi ông giáo:
- Hồi trước ông làm ǵ mà thông thạo sinh hoạt ở quốc hội đến thế?
Ông giáo đáp:
- Trước tôi dạy học. Trường Nguyễn Trăi bên Khánh Hội, cụ biết chứ?
- Vâng. Tôi có mấy đứa cháu cũng học ở đấy. Ông siêng đọc báo lắm nhỉ?
- Không có đâu ạ. Bị bắt buộc đấy!
- Sao thế?
- Mấy năm Mỹ qua, vật giá lên cao quá. Đồng lương giáo sư không đủ sống. Nhà tôi lại hẹp, không có pḥng nào dư để sửa thành “room for rent”. V́ thế, tôi xin thôi dạy, ra làm quản lư trị sự cho một tờ nhật báo.
Biết thế nào ba người cũng hỏi, nhà giáo tiếp luôn:
- Báo Tranh Đấu, chắc cụ và Cha có đọc. Trung úy th́ tôi không dám hỏi, v́ báo tôi “già” lắm, thuộc phái thủ cựu. Tôi có cậu em rể làm chủ bút, nên giới thiệu giúp cho. Sau “giải phóng”, tôi khổ sở v́ tờ báo liên miên.
Trung úy hỏi:
- Sao thế?
- Tờ Tranh Đấu bị xếp vào loại phản động, mập mờ vuốt ve giới lao động mà thật sự là CIA của Mỹ. Các ông ấy bảo vậy. Khốn nỗi chủ nhiệm, chủ bút, các biên tập viên chính đều ra đi cả, c̣n trơ một ḿnh tôi ở lại. Tôi trở thành đầu têu của một “cơ quan t́nh báo” núp sau hoạt động báo chí. Cho đi tù là phải!
Măi đến lúc đó, ba người mới biết nhà giáo hiền ḥa ít nói đă từng nếm mùi tù đày khá lâu.
Cụ cán sự hồi hưu hỏi:
- Ông bị bắt năm nào?
- Năm 1976. Đợt hơn 200 nhà văn nhà báo bị bắt một lượt sau vụ nổ plastic ở công trường con Rùa.
Trung úy vội hỏi:
- A, như vậy cùng một lượt với Doăn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Nghiễm Mậu, Nhă Ca, Hồ Hữu Tường, Mai Thảo, Duyên Anh chứ ǵ?
- Phải. Nhưng Mai Thảo thoát được, măi về sau mới trốn khỏi Việt Nam qua Mỹ.
- Nghe nói có cả Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương?
- Thanh Tâm Tuyền tŕnh diện học tập theo sĩ quan chế độ cũ. C̣n Vũ Hoàng Chương bị bắt trước đó v́ một bài thơ.
Ba người bạn của ông giáo không ngờ t́m được một người am tường giới văn nghệ báo chí như vậy, họ thay nhau hỏi ông giáo đủ thứ chuyện.
- Vào đó họ tách riêng ra hay nhốt chung với ngụy quân ngụy quyền.
- Không. Ngụy quân ngụy quyền được “hưởng” chế độ học tập cải tạo, đầu tiên thuộc quân quản. Chúng tôi là tù một trăm phần trăm với đầy đủ lệ bộ: trát tống giam của bộ nội vụ, khám xét nhà, c̣ng số 8, xe đưa rước đến tận xà lim...
- Họ nhốt ở đâu? Chí Ḥa à?
- Đầu tiên ở Phan Đăng Lưu, trước mặt chợ Bà Chiểu đó. Sau một thời gian họ phân loại, mỗi người mỗi ngả.
- Họ phân loại cách nào?
- Họ phân loại sẵn từ trước. Các bạn nhớ là măi 1976 họ mới bắt. Như vậy ngoài tài liệu sách báo có sẵn trước 1975, họ c̣n hơn một năm để t́m thêm tài liệu, thu thập các bản báo cáo của cán bộ nằm vùng, dân xu thời nịnh hót, kẻ sợ hăi thái quá. Quá đủ thời gian để họ tính sổ nợ. Ngành nào tính sổ nợ ngành ấy. Có lẽ văn nghệ báo chí là ngành phức tạp, nên tính có hơi chậm.
- Rồi họ hỏi các ông những ǵ?
- Họ hỏi ít thôi. Chỉ bắt chúng tôi nghe th́ nhiều.
- Th́ vẫn những bài bản quen thuộc “Đất nước ta giàu đẹp, nhân dân ta anh hùng”. “T́nh h́nh và nhiệm vụ mới”, “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng...”
- Không. Họ xem chúng tôi như những tên “biệt kích nguy hiểm” trên mặt trận tư tưởng, nên muốn phanh phui cho ra “âm mưu thâm độc của Mỹ ngụy trên mặt trận văn hóa văn nghệ”. Nào cuộc đấu tranh quyết liệt giữa phe đế quốc tư bản với lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới; nào chính sách toàn cầu của đế quốc Mỹ. Chính sách ấy áp dụng riêng ở Việt Nam như thế nào, Mỹ đă ra lệnh cho ngụy quyền Sài G̣n làm những ǵ. Bọn chóp bu ngụy quyền nhận lệnh quan thầy Mỹ rồi ra lệnh cho bọn bồi bút ra sao. Cuối cùng đến phần chúng tôi: Viết bài báo đó theo lệnh tên CIA nào? Được trả bao nhiêu đô la? Cuốn truyện, bài thơ đó xuất bản đúng lúc Mỹ đang chủ trương “thay màu da cho xác chết” tức là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Giả vờ chống Mỹ, giả vờ đề cao t́nh tự dân tộc để phục vụ chính sách đó phải không? Đại khái chúng tôi nghe những lời như vậy. Cả một hệ thống lập luận đồ sộ từ chủ thuyết triết học “khoa học và tiên tiến” nhất. Nhờ nó mà cái âm mưu thâm độc nham hiểm về văn hóa văn nghệ của Mỹ bị vạch trần. Bọn bồi bút biệt kích các anh đă làm ǵ trong âm mưu ấy?
- Rồi ông trả lời ra sao?
- Tôi ngớ ra, miệng há hốc chẳng hiểu ǵ cả. Chẳng hiểu mà không dám hỏi, không dám căi, v́ cái hệ thống luận lư đồ sộ quá, tôi hăi hùng. Trời hỡi! Té ra việc bỏ dạy, làm kế toán kiếm thêm tiền chợ cho “má bầy trẻ hài ḷng” của tôi nằm trong một âm mưu thâm hiểm và bao quát cả toàn cầu! Tôi một mực kêu oan với cán bộ chấp pháp, thưa tôi chỉ lo trị sự kế toán như chạy mua giấy, trả tiền nhà in, trả nhuận bút theo phiếu chi của ṭa soạn, nhận tiền đăng quảng cáo... Họ khó chịu, bảo tôi vung tiền ra thuê bọn bồi bút viết chửi cách mạng, tức là một thứ cai thầu văn nghệ mà c̣n kêu oan. Họ hỏi ai ra lệnh cho tôi thôi dạy để gài vào ṭa báo, núp bóng sau cái dạng một thầy kư lẩm cẩm. Tôi bảo tôi chưa lẩm cẩm, và chính vợ tôi gài tôi vào ṭa báo. Họ bực quá, đuổi tôi về xà lim. Hai tháng sau, tôi gặp một cán bộ chấp pháp khác, chuyên viên về văn hóa văn nghệ thực dân mới được biệt phái qua bộ nội vụ để t́m hiểu, làm việc với chúng tôi. Anh này c̣n trẻ, ăn nói nhă nhặn, vừa hỏi vừa mời tôi hút thuốc thơm Phù Đổng.
- Anh ta có nói ǵ khác không?
- Khác chứ. Anh ta nói có sách mách có chứng. Anh đă đọc kỹ từ số 1 đến số 1092 của nhật báo Tranh Đấu, từ bài xă luận cho đến mục rao vặt. Anh ta phân tích cho tôi thấy các bài xă luận đă chuyển mục tiêu trong từng giai đoạn như thế nào, và các giai đoạn đó phù hợp với ba giai đoạn “chiến tranh cục bộ, chiến tranh toàn diện và Việt Nam hóa chiến tranh” trong sách lược xâm lăng của đế quốc Mỹ ra sao. Kỳ diệu hơn nữa là ngay cả mục rao vặt cũng biến đổi theo ba thời kỳ. Cũng may cho tôi là...
Nói đến đó, nhà giáo ngừng lại, cười bẽn lẽn. Vị linh mục hỏi:
- May là ông được trắng án chứ ǵ?
- Trắng sao nổi! Không phản động th́ ngụy ḥa. Không ngụy ḥa th́ ngụy dân tộc. Không ngụy dân tộc th́ đồi trụy. Không đồi trụy th́ nhảm nhí. Mà nhảm nhí, đồi trụy, ngụy dân tộc, ngụy ḥa lại là h́nh thức tinh vi hơn của phản động. Chạy trời không khỏi nắng đâu!
- Thế th́ may cái ǵ?
- May cho tôi là có mấy lần thằng em rể giận vợ hay càm ràm chuyện tiền nong, bỏ sở lên Đà Lạt chơi mấy ngày liền. Chủ nhiệm than quá, bắt tôi gánh mấy kỳ xă luận. Tôi phải đem báo cũ ra xào nấu chắp vá đến toát mồ hôi.
- Nguy rồi. Chắc họ chất vấn dữ lắm?
- Không. Tôi đề tên em rể tôi. Ṭa báo nào cũng vậy, ai viết mặc, nhưng cứ để tên một số người có thế, cho đỡ rắc rối.
Nhà giáo lại đỏ mặt lên, ấp úng thú nhận:
- Mấy bài báo đó bị anh chấp pháp chuyên viên cho là quan trọng, trích dẫn tùm lum tà la mới chết chứ! Anh ta bảo nó báo hiệu bước chuyển tiếp từ: “khuynh hướng phản động trực diện” của tờ Tranh Đấu qua “khuynh hướng ngụy dân tộc”.
- Ha ha! Ông viết ǵ trong đó mà quan trọng thế?
- Hôm ấy kỷ niệm Giổ tổ Hùng Vương. Tôi xào nấu lại bài “Cảnh quê hương đẹp hơn cả” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư học hồi c̣n nhỏ.
Cả bốn người đều cười. Cụ cán sự hồi hưu nhận xét:
- Ông chỉ nhún nhường giấu ḿnh, để khôi hài cho vui đấy thôi! Nghe ông luận giải từ cái khăn trải bàn hiệu kem Givral ra bao nhiêu lời chửi xéo bọn đào kép nhà hát lớn, tôi biết ông thâm lắm. Viết xă luận, phải biết!
Nhà giáo vội nói:
- Cụ dạy quá lời!
- Không quá lời đâu. Ông đừng vờ vịt. Tôi phải bắt ông trả nợ. Cha và anh trung úy đây đă phát biểu về chuyện tự vẩn. Bây giờ đến lượt ông.
- Đâu dám qua mặt cụ.
- Tôi đă có ư kiến rồi, nhưng để sau cùng. Ông nói trước đi.
Nhà giáo không có cách nào thoát, đành làm mặt nghiêm, và nói:
- Vâng. Tôi phải rán nói vậy. Kể lan man phất phơ, chứ lư luận chặt chẽ th́ chịu thua thôi!
Hồi đó trong trát bắt giam chúng tôi, bộ nội vụ có ghi rơ h́nh phạt tập trung cải tạo ba năm. Hai chữ “cải tạo” th́ anh em chúng tôi đều hiểu cả. C̣n “tập trung” th́ chịu! Hiểu theo nghĩa đen, chúng tôi an ủi nhau: “Thôi có anh em quen biết, có bó chân bó cẳng th́ cũng c̣n có người đồng cảnh ngộ hàn huyên đỡ buồn. Tập trung chứ có phải biệt giam đâu! Nghĩ thế nên mới vào Phan Đăng Lưu, tôi yên ḷng. Sau một thời gian chới với v́ cái hệ thống lập luận đồ sộ tôi vừa nói, tôi dần dần làm quen với cuộc sống mới. Riết rồi cái ǵ cũng quen, chắc các bạn đều đồng ư với tôi như vậy. Thời gian qua mau, thoáng một chốc đă đủ ba năm. Chúng tôi có một cách lập luận lẩm cẩm nhưng hữu hiệu: trước kia với bao nhiêu hiểu biết và ràng buộc của một người thường thường bậc trung, ḿnh chỉ có thể làm như vậy, bây giờ ḿnh trả nợ như vậy cũng đúng thôi. Lúc vui, chúng tôi c̣n bắt chước cách nói của giám thị hoặc cán bộ chấp pháp, thường đùa với nhau: trước gây tội lỗi như vậy v́ mù mờ, “phải thôi”, bây giờ chịu tập trung cải tạo, “tốt thôi”! Có thể nhiều bạn bè bên ngoài hoặc đă ra đi chờ đợi ở chúng tôi những hành động ngoạn mục, lẫm liệt, đại khái như cái chết của viên trung tá trung úy vừa kể. Tôi nghe nói ở Sài G̣n người ta loan truyền khá nhiều huyền thoại, theo ước mong của thiên hạ chứ không theo thực tế. Vài người trong chúng tôi được choàng ṿng hoa kiểu đó. Nhưng là người trong cuộc, tôi xin thành thật nói ngay rằng sự lương thiện không cho phép ai nhận bừa ṿng hào quang. Các bạn tính, chúng tôi có ǵ đâu để tỏ ra lẫm liệt? Trung úy vừa bảo lúc ấy giới nhà binh hoang mang tuyệt vọng, không có lấy một thần tượng hoặc một niềm tin để kiêu hănh. Giới chữ nghĩa chúng tôi cũng vậy. Tuy cùng cầm bút, nhưng chúng tôi khác biệt nhau về tuổi tác. Rồi do tuổi tác mà cách tham dự hoặc nhận định về lịch sử khác hẳn nhau. Lớp dấn ḿnh vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở tuổi đôi mươi rồi vỡ mộng vào thành như Doăn Quốc Sỹ, Vơ Phiến, vừa ấp yêu thời kỳ kháng chiến như một kỷ niệm đẹp, vừa viết văn chống cộng. Lớp trẻ lớn sau hiệp định Genève tán đồng huyền thoại kháng chiến của đàn anh nhưng khó chịu khi đọc văn chống cộng của họ, thầm chê họ lẩm cẩm. Lớp trẻ hơn nữa dồn hết sức chống Mỹ, và mơ màng một “cuộc cách mạng xă hội không đổ máu”.
Tóm lại thế hệ nào cũng thầm lặng khâm phục người Cộng Sản tuy họ cùng khốn khổ v́ cuộc chiến tranh do người Cộng Sản chủ động. Càng về sau, cái mốt chung của thời đại là khuynh tả. Tiến bộ, sáng suốt, nhân đạo, thuận chiều tiến hóa tất yếu, đồng nghĩa với khuynh tả. Chính tôi cũng vậy. Quay sang đề cao t́nh tự dân tộc, tỏ thái độ phản chiến hay hô hào bảo vệ đạo đức trước ảnh hưởng ngoại lai, đều là cái bóng của khuynh tả, và khuynh tả là cái bóng của sự khâm phục thầm lặng đối với bên kia. Trong lúc đó bên này có ǵ? Trung úy đă nói giúp tôi rồi. Thành thử khi bị bắt, chúng tôi tự an ủi: “Thôi, trước sau ǵ cũng phải trả nợ cho xong!”
Khốn nỗi người ta đ̣i nợ nhiều quá, chúng tôi tối tăm mặt mũi. Cái thân ốm của tôi gánh sao nổi món nợ của đế quốc toàn cầu? Chúng tôi bàng hoàng, rồi ấm ức. Cho nên đúng ba năm mà chưa được thả về, chúng tôi giận thật sự. Thế này là thế nào? Giấy trắng mực đen c̣n đó! Rơ ràng mặt đấy mặt này chứ ai! Làm ǵ bây giờ? Chẳng ai biết phải làm ǵ cả. Chống lại kẻ một lần ta lỡ khâm phục, khó lắm, khó y như đ̣i nợ một ông thầy học cũ. Các bạn tưởng tượng xem, ở trong cảnh huống ấy mà nghe tin một người có uy tín trong văn giới can đảm tuyên bố tuyệt thực để phản đối, bọn chúng tôi xúc động đến mức nào. Vừa hănh diện quàng vừa tự xấu hổ. ít ra cũng phải có một người dám làm một cái ǵ chứ! Anh em chúng tôi x́ xào bàn tán với nhau, vừa mừng vừa lo. Người bảo:
- Ông ấy làm tới đấy. Xưa ông ấy nổi tiếng bốc!
Người th́ bảo:
- Biết đâu là tin phịa để mua vui!
Có người lo:
- Ông ấy như lửa rơm. Bốc đó rồi x́u đó. Sợ không bền!
Người ta đem cả văn nghiệp ra để hy vọng hay lo lắng, và ai cũng có vẻ hợp lư cả. Đào bới bấy nhiêu cuốn tiểu thuyết th́ chứng minh cái ǵ không được. Huống chi tiểu thuyết có bao nhiêu loại nhân vật, dữ, hiền, khôn, dại, hào hiệp, bần tiện, hiền triết đạo tặc, thiên thần ác quỉ, kẻ dâm dục, người bất lực, hạng nào cũng đủ, mỗi hạng mỗi cách nói, chứng minh cái ǵ cũng có sẵn.
Chúng tôi chờ, dọ dẫm phản ứng của ban giám thị trại giam... Không phải chuyện phịa, v́ chính giám thị khu chúng tôi cũng xác nhận. Thật đáng mừng. Tin vui đi nhanh qua nhiều ngơ ngách. Có thể nói dù bị kiểm soát gắt gao, chúng tôi vẫn có thể thông báo cho nhau tin từng giờ:
- Giám thị đă xuống pḥng giam và tịch thu phần cơm anh ấy nhường cho bạn.
- Nhà bếp được lệnh bớt một phần cơm pḥng số 8. Chính giám thị xuống chia cơm.
- Anh ấy đă bị chuyển sang khu biệt giam. Từ nay việc lấy tin chắc khó!
- Người ta bắt đầu kiểm soát nước khu biệt giam. Chính giám thị đi chia nước chứ không giao cho ban trực nhật.
- Đă có lệnh không được mang nước uống cho anh ấy!
Mọi người bàng hoàng. Thế này là thế nào? Họ quyết bỏ mặc cho anh ấy chết khát ư? Nhịn đói th́ cuộc tranh đấu c̣n kéo dài được 10, 15 ngày. Có sâm, nhung, lê táo như các thầy Ấn Quang hồi trước kéo tháng này tháng nọ dễ dàng. Nhưng không uống ǵ cả th́ được bao lâu? Bắt đầu có nhiều lời bàn ra tán vào. Người lăng mạn quyết tin rằng anh ấy sẽ đi đến cùng, lẫm liệt, hào sảng như các nhân vật chính của anh ấy. Người hoài nghi xét lại: có thể, có nên dùng phương pháp đấu tranh bất bạo động đối với một chế độ cách mạng chuyên chính hay không? Người ba phải th́ quay sang lo cho sức khỏe vốn kém của anh ấy. Mọi người nóng ruột như đứng trên lửa. Chờ đợi khiến pḥng giam thêm nực, pḥng thêm tối. Chờ một ngày. Chờ hai ngày. Đến ngày thứ ba, th́ có tin chính thức đáng tin cậy từ khu biệt giam cho biết anh ấy xin ăn trở lại. Pḥng chúng tôi đột nhiên ồn ào như cái chợ. Mạnh ai nấy nói. Thế lày nà thế lào? Các bạn đừng cười. Tôi nhại câu nói liệu “Thế lày nà thế lào?” của giám thị khu B đến nỗi nhập tâm thành tật. Hỏi ǵ th́ hỏi, sự thật vẫn cứ là sự thật. Từ đó về sau, chúng tôi nhận được tin “hoàn toàn chính thức từ giới hữu trách có thẩm quyền” công khai loan báo. Tin nào cũng đều khiến chúng tôi đau nhói trong ḷng cả.
Cụ cán sự hồi hưu nói:
- Có khi chưa tới ranh giới sống chết, người ta vẫn hành động giống như một người b́nh thường với đầy đủ những cao cả lẫn hèn yếu. Theo kư họa của một người họa sĩ đương thời th́ hoàng hậu Pháp Marie Antoinnette vẫn cố tỏ ra bệ vệ hách dịch dù ngồi trên xe cây dẫn ra chỗ đặt máy chém. Một tử tội đi đến pháp trường vẫn cúi xuống phủi một vết bẩn trên chiếc áo đang mặc.
- Vâng. Tôi thấy phải hiểu anh ấy như một người b́nh thường. Thần tượng hóa anh ấy theo mong ước lăng mạn của ḿnh là lỗi của ḿnh, không phải lỗi anh ấy. Theo cách đó, tôi nghĩ không nên siêu h́nh hóa cái chết. Gán cho nó một ư nghĩ quá quan trọng là cái lỗi của tinh thần duy lư Tây phương. Tại sao không xem nó như một loại sinh hoạt của đời sống sinh vật y như t́m mồi, làm tổ, sinh con, bài tiết, thậm chí cắn mổ nhau để vui chơi hoặc tranh ăn. Quan trọng hóa cái chết thành ra làm hại nó. Đặt cho cái chết một mục tiêu, là làm hại nó lần thứ nh́. Cái lỗi của chúng tôi, và của cả anh ấy, là muốn dùng cái chết để làm một cái ǵ đó. Ta mặc cả với Thần Chết, ta so đo, ta ṿi vĩnh, c̣ kè thêm bớt. Ta tính đến chuyện thành bại. Cho nên khi thấy không thành công được, thấy chết chỉ thiệt thân, ta bèn dừng lại. Tôi nhớ lúc năy trung úy có bảo tuy thất bại, kẻ thù vẫn phải kính nể viên trung tá như một kẻ thù nghiêm chỉnh. Tôi đồng ư với phần sau câu nói, nhưng xin lỗi nhé, tôi bác bỏ phần đầu. “Tuy thất bại”. Tại sao nói chuyện thành bại ở đây? Gắn thêm cho cái chết một cái đuôi chỉ tổ làm vướng dáng đi tự nhiên của nó thôi! Giả sử bây giờ có ai bảo ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối ông Diệm, nhất định ta sẽ chê người đó là cận thị rồi!
Câu chuyện của tôi đến đây chấm dứt. Nếu là cán bộ chấp pháp, các bạn sẽ xếp nó vào loại nào: phản động? đồi trụy? ngụy dân tộc? hư vô chủ nghĩa? Chắc không nặng án thế đâu! Quá lắm chỉ thuộc loại nhảm nhí, tuy tôi vẫn nhớ nhảm nhí cũng là h́nh thức tinh vi của phản động”.
*
Nhà giáo vừa dứt lời, cụ cán sự hỏi liền:
- Xem cái chết là tự nhiên à? Anh sợ chết không, nói thực đi?
Ông giáo cười, quay hỏi vị linh mục:
- Cha sợ chết không?
Cha xứ nghiêm chỉnh đáp:
- Không. Tôi tin sự sống đời đời trong nước Chúa.
Ông giáo hỏi trung úy:
- C̣n anh?
- Chưa sợ. Tôi c̣n khỏe. Hơn tháng nay, tôi chưa phải bước chân lên bệnh viện lần nào.
Ông giáo hỏi ngược lại cụ cán sự:
- Thế cụ có sợ chết không đă?
Cụ cán sự hồi hưu đáp ngay:
- Sợ chứ!
Ông giáo bật cười lớn:
- Sợ chết sao c̣n dám vượt biên? Cụ luống tuổi rồi đi đâu cho khổ. Gió băo, tù tội, đói khát, sơ ư một chút là chết. Tại sao phải đi?
- Tôi sợ một cái chết khác ghê gớm hơn.
Ba người hơi thất vọng, đoán thế nào cụ cũng xổ một lô những lời chống cộng thật đúng bài bản, như “vô thần khát máu” như “tam vô chủ nghĩa” vân vân và vân vân. Họ đă nghe những thứ đó chán chê từ thời ông Diệm. Cụ cán sự để mặc cho các bạn thất vọng, từ từ uống cạn ca nước trà nguội, rồi mới nói:
- Tôi không sợ chết nói chung, nhưng sợ riêng một số cách chết. Chết đứng như Từ Hải, thảm mà oai. Chết mà đi như Dracula chỉ dùng để dọa con nít. Tôi luống tuổi, mặn ngọt chua cay của cuộc đời nếm tê cả đầu lưỡi, từng “nghiên cứu” cái chết kỹ lưỡng lắm, nên nghiệm thấy cái chết đáng sợ nhất là cái chết mà vẫn c̣n sống, sống mà vẫn chết.
Nhà giáo cười rồi hỏi:
- Nghĩa là ngắc ngư? Bị bại liệt à?
- Không, đây là một cách tự vẫn đặc biệt. Rắc rối quá phải không. Để tôi nói quách cho các bạn nghe cho rồi!
Tôi hơn các bạn những hai chục tuổi, từng sống dưới sáu chế độ: Pháp thuộc, Nhật thuộc, Tàu phù thuộc, Cộng sản thời kháng chiến, Chế độ quốc gia từ thời ông Diệm, à quên, từ Bảo Đại đến ông Thiệu, cuối cùng là Cộng sản sau 1975. Nếu kể HCR nữa th́ đến bảy. Anh em, bà con, con cái, bạn bè, lần lượt chết khá nhiều, mỗi người mỗi kiểu. Không thiếu những người tự t́m lấy cái chết, trong đó có một con trai của tôi. Các bạn đừng lầm. Tôi không kể về cái chết của nó đâu. Nó chết tầm thường, tự nhiên, một cái chết lăng xẹt v́ một con điếm thúi. Chuyện tôi sắp kể liên quan đến một người bạn cũng từng sống dai nhách như tôi vậy.
Ông ấy cũng là một nhà văn. Thời chúng tôi c̣n phải học “Nos ancêtres sont des Gaulois”, thú tiêu khiển hiếm lắm. Ngoài vài ba thứ cờ bạc bị nghiêm cấm, lũ học tṛ chúng tôi chỉ t́m vui trong thú đọc sách. Mà sách lại hiếm, khó mua khó mượn. Cầm được một quyển sách trên tay đă được các cô kính nể khâm phục lắm rồi. Huống chi là viết sách! Bạn tôi thuộc vào số ít con người đáng nể ấy, lúc chưa được hai mươi. Đă thế sách bạn tôi viết lại được trích giảng cho học tṛ thuộc ḷng. Tôi dám tin chắc rằng các bạn cũng đă thuộc ḷng đoạn văn của bạn tôi.
Mọi người đều ṭ ṃ hỏi:
- Cụ đọc thử xem?
Cụ cán sự hồi hưu chớp chớp đôi mắt lộ vẻ cảm động. Cụ nhớ lại cái thời xa xưa đă mất, run run đọc:
- “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều...”
Ba người cùng kêu ồ, nhà giáo ê a đọc tiếp:
- “Và trên không có những đám mây bàng bạc...”
Trung úy nói:
- Bài Ngày tựu trường của Thanh Tịnh.
Vị linh mục cũng nói:
- Trong tập Quê Mẹ. Bài đó nổi tiếng trong giới học tṛ chẳng kém ǵ bài La Rentrée của Anatole France. Cụ có quen với Thanh Tịnh à?
Cụ cán sự hỏi:
- Đấy. Cha vừa hỏi: “Cụ có quen với Thanh Tịnh à?” Gần xuống lỗ mà c̣n được hỏi như vậy, huống chi thời đi học được là bạn của Thanh Tịnh, mày mày tao tao với một “nhà văn”, ôi chao, hân hạnh biết chừng nào. Khỏi cần nói chắc các bạn cũng biết tôi đă bắt chước Thanh Tịnh từng dáng đi, điệu nói, cách để tóc, cách ăn mặc. Tôi c̣n lén viết một bài văn đặt nhan đề “Hôm khai trường” với đầy đủ lá rụng, mây bay, chơi diều, chơi bi, rồi chép sao nhiều bản gửi đi các báo ở Hà Nội, Huế, Sài G̣n. Tôi chuẩn bị đón nhận sự nổi tiếng. Sáng tác của tôi gửi đi mà chờ măi không có gửi lại. “Tài ba” của tôi bị các cặp mắt phàm tục đố kỵ ở các ṭa soạn lơ là, tội nghiệp thân tôi. Tôi tủi thân, đâm ra ganh ghét bạn. Ánh sáng của Thanh Tịnh làm mờ hào quang của tôi. Phải xa anh ta mới dựng sự nghiệp được. Thầy mẹ giúp tôi thỏa ước - v́ sau đó gia đ́nh tôi dời đến tỉnh khác. Cách mạng tháng Tám. Rồi tản cư. Tôi đă trở thành một thanh niên có bằng cao đẳng tiểu học. Tên nghe lạ phải không? Hồi ấy trung học đệ nhất cấp gọi là école primaire supérieure, đậu trung học đệ nhất cấp gọi là đậu bằng thành chung hoặc cao đẳng tiểu học. Trước Cách mạng tôi đang học dở ngành trợ giáo nên trong kháng chiến, tôi phụ trách một trường b́nh dân học vụ, rồi làm hiệu trưởng trường cấp hai. Chưa có thời kỳ nào tôi đam mê hào hứng với công việc ḿnh như thời ấy. Cảm và nói là một, nói với làm cũng là một. Bây giờ nghĩ lại thấy hồi đó ḿnh lăng mạn đến quá khích. Tôi tin tưởng tuyệt đối vào cuộc kháng chiến, nên làm ǵ tôi cũng xung phong hàng đầu. Chịu gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật là một niềm vinh dự. Cũng như các bạn cùng thế hệ, hai tiếng “độc lập” làm cho tôi say mê. V́ có độc lập sẽ có tất cả. Yêu nhau mà chưa lấy được nhau ư? Hẹn ngày độc lập. Lấy nhau mà không thể sống bên nhau? Hẹn ngày độc lập! Độc lập là cái ch́a khóa mở mọi cánh cửa, kể cả những cánh cửa có ổ khóa rỉ sét. C̣n giữ lại làm ǵ những tư tưởng ủy mị lỗi thời từng làm yếu đuối thanh niên, làm tŕ chậm cuộc đấu tranh giành độc lập. Chỉ cần nghĩ như thế chúng tôi lao vào cuộc cải tạo tư tưởng đầy dằn vặt, thống hối, lo âu, hoảng hốt. Ôi những đêm tự phê bên ánh đèn dầu sau giờ dạy học, những tháng ngồi trước trang giấy đáng sợ, để moi óc ghi lại tất cả những tư tưởng, cảm giác, hành động bạc nhược hèn yếu. Chúng tôi xưng tội công khai, khóc lóc, thống hối công khai. Cầm một cuốn tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là một cái tội. Chúng tôi đă nghĩ như vậy, và thù ghét cái bóng tiểu tư sản trong con người ḿnh một cách chân thành. Thưa cha nếu không sợ phạm thánh, tôi dám so sánh cái không khí thời đó giống với không khí của Phúc âm. Quả thật như vậy. Cũng có những “Đấng Cứu Thế” và những lời tiên tri. Cũng có hứa hẹn sự sống vĩnh hằng và sự xả thân, nghĩa là đầy đủ yếu tố cho một thời huyền thoại. Có kể như vậy các bạn mới hiểu sau 30 tháng 4, tôi ngơ ngác đến bậc nào khi thấy anh em bộ đội thản nhiên mua sách chưởng, sách Tự Lực Văn Đoàn bán solde ngoài hè phố để đọc. Kể cả quyển sách Quê Mẹ mà thời kháng chiến, tôi lănh phần mổ xẻ phân tích để lôi ra tính chất ủy mị, bạc nhược. Anh giáo sư, tôi phải bắt chước anh để hô hoán lên: “Thế lày nà thế lào!” Rồi tôi gặp hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Lạ thật. Tôi không hiểu ǵ hết. Hay lớp trẻ sau này có bản lĩnh hơn chúng tôi thời trước? Tôi nhận thấy họ hiền hậu, có học thức, lễ độ, nhưng ánh mắt không ngời lên, khuôn mặt không đăm chiêu, khắc khổ. Có lẽ họ có bản lĩnh thực! Bao nhiêu năm được đào tạo trong truyền thống cách mạng phải khác bọn trẻ ủy mị bị thực dân đầu độc chứ! Nhưng lập luận của tôi không vững. Tôi lần lượt gặp những nhà phê b́nh nghiêm khắc lên án sách chưởng Kim Dung nhưng mê truyện chưởng hơn mê gái. Phần nào trong ông ta mê “chưởng” và phần nào trong ông ta chửi “chưởng”? Khúc trên hay khúc dưới? Sao có thể cùng làm một lúc hai việc đối chọi nhau một cách thản nhiên? Nói ở chỗ thân mật khác hẳn chỗ công khai. Nghĩ chân thật nhưng viết phải theo bài bản, và điều ấy tự nhiên! Tôi c̣n nghe nói khi họp chi bộ, các đảng viên cũng được thoải mái hơn xưa nhiều, khỏi phải đăm đăm hoặc lên gân. Trước khi họp có kẹo lạc, thuốc lá, nước trà. Lúc đó ăn nói vung vít, kháo chuyện thoải mái về đủ thứ vấn đề. Hăng máu chửi cả thủ trưởng cấp cao cũng không sao. Chê Đảng vài điều cũng được nốt. Muốn hát nhạc ngụy? Được. Lật vài trang chưởng bỏ dở đọc tiếp? Được. Nhưng khi bí thư chi bộ nhắc: “Đến giờ rồi, các đồng chí vào làm việc” th́ vẫn những con người ấy nhưng khuôn mặt, lời nói, t́nh cảm, tư tưởng hoàn toàn đổi khác. Người vừa chửi thủ trưởng có thể hết lời ca tụng. Người vừa đọc truyện chưởng gay gắt lên án văn hóa thực dân mới. Người vừa nấu cám heo bằng điện nhà nước hô hào các đồng chí tiết kiệm của công, bảo vệ tài sản xă hội chủ nghĩa. Trời hỡi! Thế này là thế nào? Lớp trẻ khó hiểu quá đối với tôi. Họ phân thân rối mù nên tôi không biết lúc nào mới gặp đúng họ.
Tôi phải chờ các bạn cũ cùng thế hệ. May mắn cho tôi là vài tháng sau, nhân ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ chủ tịch, pḥng giáo dục quận (nơi con gái tôi làm việc) có tổ chức một buổi nói chuyện. Đề tài là Cuộc đời của Hồ chủ tịch. Báo cáo viên, trời ơi, may mắn quá, đúng là thần tượng thời trẻ của tôi, đúng Thanh Tịnh.
Trung tá Thanh Tịnh. Tôi hồi hộp chờ ngày gặp lại bạn cũ. Tôi t́m đọc lại cuốn Quê Mẹ để bồi hồi nhớ thời thơ ấu. Tôi tự trách tôi bất công. Tài ba tôi đâu có ra ǵ đâu mà đ̣i làm nhà văn! Đă thế, thời kháng chiến, lợi dụng lúc cách biệt, tôi đă “trả thù” bằng cách đem cuốn Quê Mẹ ra mổ xẻ, chê lên chê xuống. Tôi sẽ mời Thanh Tịnh về nhà, nài cho được một đêm nằm bên nhau rủ rỉ đủ thứ chuyện tâm t́nh. Bây giờ già rồi, c̣n ngại ǵ nữa. Tôi sẽ nói hết, thú nhận hết, từ việc lén viết bài “Hôm khai trường” cho đến việc lên án cuốn Quê Mẹ. Tôi sẽ không xưng tên ngay để sau buổi nói chuyện dành cho bạn một ngạc nhiên lớn.
Than ôi, chính Thanh Tịnh dành sẵn ngạc nhiên để tặng tôi. Thanh Tịnh già rồi. Thanh Tịnh nhà văn nhỏ nhẻ dễ thương thành Thanh Tịnh trung tá. Thời gian mà. Có ǵ đáng kinh ngạc đâu.
Nhưng tôi sững sờ khi Thanh Tịnh bắt đầu nói. Thiên hạ đồn không lầm. Thanh Tịnh đă thành báo cáo viên chuyên nghiệp chuyên ca tụng Bác Hồ. Đi đâu, lúc nào, bao nhiêu năm nay, Thanh Tịnh chỉ nói về đề tài ấy, gọt dũa luyện tập từng câu từng chữ, để ư đến cả cách nhíu mày, cách đứng nghiêm, mắt nh́n lên chiêm ngưỡng khi nhắc đến Bác. Nghe Thanh Tịnh báo cáo một lần, lần sau đến nghe nữa có thể đoán trước trung tá sắp khóc ở đoạn đó, sắp cúi đầu im lặng ở đoạn kia, sắp ưỡn ngực hô hào ở đoạn khác... Đúng là một cái xác ướp biết đi biết nói, quan trọng nhất là ca tụng không biết chán.
So sánh với các cung phi bị giam kín nơi lăng tẩm các vua chúa đă chết thời xưa, Thanh Tịnh c̣n may hơn nhiều. Nhưng một nàng cung phi mới bị ông hoàng si bỏ quên, đă dám nghĩ:
Dang tay muốn dứt tơ hồng
Bực ḿnh muốn đạp tiêu pḥng mà ra.
Thanh Tịnh có bao giờ dám nghĩ thế không? Than ôi! Thanh Tịnh, người bạn nhỏ của tôi, “địch thủ” của tôi, thần tượng của tôi, niềm mơ ước của tôi! Bạn không có cách tự vẫn nào dễ chịu hơn ư? Bạn đă chọn cách chết chậm chạp nhất, khắc kỷ nhất, chết mà vẫn sống, sống mà coi như đă chết. Bạn tự nguyện làm cái xác ứơp để dễ hầu cận một cái xác ướp khác.
Tôi bỏ về trước khi trung tá Thanh Tịnh kết thúc bài nói chuyện, ḷng hối tiếc không nguôi.
Cách tự vẫn tôi kể, nhạt nhẽo lắm phải không? Nó kéo dài quá, như một màn kịch vụng lê thê làm khán giả chê chán!
Nhà tư tưởng của Cha lấy thế đẩy ngă chồng sách là xong, để lại cả một lô messages, một lô sứ điệp. Ông trung tá đoành một cái, được bạn giáo già khen là thâm trầm. Nhà văn bỏ dở cuộc nhưng được bạn bè thông cảm. C̣n bạn tôi, than ôi, biết làm sao đây! So với các bạn, tôi chịu lỗi đă kể chuyện buồn và nản. Biết làm sao được! Trong Chinh Phụ Ngâm có câu:
Ḍng nước sâu ngựa nản chân bon.
Tôi có khác nào con “ngựa nản chân bon” ấy!! Gần kề bên ḍng nước sâu là cái chết, tôi phải làm ǵ? Lấy hết sức hí lên cho vang động núi rừng? Uống nước suối độc tù hăm bên cầu Nại Hà rồi lăn ra chết? Hay là nhảy đại qua vực để hy vọng đạp vó lên Mé Vĩnh Cửu?
Làm ǵ th́ làm, nhưng tôi nhất định không v́ “nản chân bon” mà làm con ngựa gỗ.
Tôi mệt quá rồi! Xin Cha cho tôi chút nước!
Linh mục rót khoảng nước c̣n lại trong lon pâté vào ca cụ cán sự già. Cụ bưng lên uống. Nước chảy qua hàm răng thưa, nhểu cả ra hai mép. Bàn tay cụ cán sự run run. Đến lúc đó, linh mục mới thấy một người trần thế muốn “thu xếp” cuộc đời ḿnh gặp thật lắm gian nan, nhất là những người trung thực. Linh mục thầm cầu xin: “Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và được hưởng ánh sáng ngh́n thu...”
./.