Dịch Sách

(Truyện Maeno Ryôtaku)

 

              Nguyên tác: Yoshimura Akira

                    Dịch: Nguyễn Nam Trân

 

「吉村昭」の画像検索結果

Yoshimura Akira (1927-2006)

 

 

Yoshimura Akira吉村昭 (1927-2006) là nhà văn Nhật Bản chuyên viết thể loại tiểu thuyết lịch sử thực chứng theo truyền thống của Mori Ôgai, Inoue Yasushi, Shiba Ryôtarô... Ông hay lấy những biến cố lịch sử cận đại làm đề tài. Đời văn của ông kéo dài suốt hai triều Shôwa (1926-89) và Heisei (từ 1989). Tác phẩm chính có “Đắm tàu” (Hasen), ” Chiến hạm Musashi” (Senkan Musashi) , “Trận đại địa chấn vùng Tôkyô”(Kantô Daishinsai), “Vượt ngục” (Hagoku), “Cuộc ám sát ngoài cổng Sakuradamon” (Sakurada mongai no hen)... .Ông đoạt được nhiều giải văn học danh giá như Giải Dazai, Kikuchi, Yomiuri ... Đặc biệt là một truyện  ngắn của ông được phóng tác thành phim (nhan đề Unagi hay Con Lươn, với diễn viên Yakusho Kôji) đă nhận giải thưởng cao quí Cành Cọ Vàng (Palme d’Or) năm 1997 tại Đại hội điện ảnh Cannes. Ông từng là chủ tịch Hội văn bút Nhật Bản. Bà Tsumura Setsuko (sinh năm 1928), vợ ông, cũng là một nhà văn nổi tiếng, đoạt giải Akutagawa năm 1965. Có giai thoại là hai vợ chồng tránh đọc văn của nhau để người này khỏi chịu ảnh hưởng người kia.

Tuy được xem như một tác giả văn chương đại chúng nhưng Yoshimura không rơi vào sự dễ dăi. Thường xuyên nghiên cứu tư liệu lịch sử rất kỹ lưỡng trước khi viết, nhiều khi bị phê b́nh là chi ly quá mức. Dù sao, qua sự kết hợp những chi tiết rườm rà đó, ông đă làm lộ diện yếu tính của thông điệp mà ông muốn gửi gắm đến độc giả.

“Dịch sách” (Truyện Maeno Ryôtaku) được giới thiệu sau đây trích từ tập “Truyện những người thày thuốc Nhật Bản” (Nihon ikaden, 1973) của Yoshimura Akira và đă được chọn làm bài tập đọc trong một giáo khoa thư quốc văn bậc trung học ở Nhật từ 1981.

Ngày nay, nếu mở từ điển ra tra chữ Kaitai shinsho (Giải thể tân thư) ta thường thấy nói đó là cuốn sách về giải phẫu học đầu tiên ở Nhật do Sugita Genpaku dịch từ tiếng Ḥa Lan vào năm 1774 với sự hợp tác của Maeno Ryôtaku, Nakagawa Jun.an và một số người khác. Tuy nhiên theo điều tra  thực chứng (nghĩa là có kiểm tra sử liệu) của Yoshimura Akira mà chúng ta thấy dưới đây th́ sự thật không hề đơn giản như vậy.

 

 

                             Một

 

Có tiếng ai gơ cửa phía nhà ngoài.

Maeno Ryôtaku[1] đang đọc quyển sách thuốc đặt trên án thư bỗng ngừng lại. Măi chăm chú vào những con chữ dưới ánh đèn leo lét, mắt ông đỏ hoe.

V́ say sưa đọc sách, Ryôtaku quên bẵng thời gian. Ông không nhớ chính xác bây giờ là giờ ǵ, chỉ biết rằng trời đă khá khuya.

Tiếng gơ cửa vẫn tiếp tục một cách rụt rè. Mấy khi có ai đến chơi giữa đêm hôm khuya khoắt thế này đâu!

Ryôtaku là thày thuốc của phiên Buzen Nakatsu (Fukuoka). Hiện ông đang tạm trú trong khu nhà ngang ở tư dinh Edo của lănh chúa phiên ḿnh là ngài Okudaira Masaka Ông đoán ṃ chắc có một người đồng hương bị bệnh cần cấp cứu.

Ryôtaku nghe như bà Binko, vợ ông, đă thức dậy và đi về phía cửa, cất tiếng hỏi nhỏ. Thế rồi giọng nói đó cũng im bặt.

Tiếng chân nhẹ nhàng của người vợ men theo hành lang tiến lại gần. Cánh cửa kéo đằng sau lưng ông mở ra, bà đến đặt trước mặt ông một phong thư.

Đó là thư của Sugita Genpaku[2], thày thuốc phiên Obama (Fukui). Ngắn gọn như viết vội. Thế mà càng đọc, đôi mắt của Ryôtaku càng ánh lên sự vui mừng.

Số là đêm hôm ấy, Genpaku nhận được một bức thư từ Tokunô Manbê, gia thần viên quan cai trị ở Edo là ngài Magaribuchi, tước trấn thủ vùng Kai. Nội dung cho biết vào ngày mai, ở băi Kozukabara khu Senju sẽ có cuộc giải phẩu thi thể một tử tù. Ông ta dặn nếu Genpaku muốn chứng kiến th́ cứ việc đến băi ấy. Được tin, Genpaku mừng rỡ, báo cho người bạn đồng châu và đồng nghiệp của ḿnh là Nakagawa Jun.an hay. Ông cũng định mời cả Maeno Ryôtaku.

Chính ra đêm đó, Genpaku phải đến quán trọ Nagasakiya xóm Hongoku khu Nihonbashi để gặp một người bạn là Yoshio Kôzaemon, đang cùng với phái đoàn của ḿnh lưu tại đó . Ông này rất nổi tiếng, vừa là thày thuốc vừa làm thông ngôn cho Thương quán trưởng (Capitan) Ḥa Lan. Mỗi mùa xuân viên chức này đều lên Edo để bái yết Shôgun[3]. Genpaku nghĩ thầm nếu tiếp xúc được với ông ta th́ ḿnh sẽ có cơ hội học hỏi thêm về y lư Tây phương. Khi ra khỏi Nagasakiya, Genpaku bèn t́m cách liên lạc với Maeno Ryôtaku nhưng khi biết cuộc giải phẫu sẽ bắt đầu ngay sáng hôm sau, ông thấy phải làm gấp. 

Nghĩ hết phương cách, Genpaku mới ghé nhà người quen thảo một bức thư, xong, ra lệnh cho một anh khiêng kiệu đang chờ khách bên cạnh cánh cổng gỗ ở xóm Hongoku đem bức thơ tay này về tư dinh lănh chúa phiên Nakatsu trong khu Tsukiji Teppôzu.

Ryôtaku từ lâu đă quan tâm đến y lư của người Ḥa Lan và muốn hấp thụ học thuật của họ, nhưng cũng như Genpaku, ông chưa từng nh́n tận mắt bên trong cơ thể một con người khi được giải phẫu. Lời mời của Genpaku đem đến cho ông một dịp may hiếm có.

Theo lời lẽ trong thư, tảng sáng mùng 4 tháng 3, Genpaku hẹn ông ở một quán nước đầu ngơ xóm Asakusa San.ya, vốn không cách  pháp trường Kozukabara là mấy.

Ryôtaku định phúc đáp cho nhanh chóng bèn hỏi vợ:

- Người đưa thư c̣n đó không?

Mới được bà cho biết anh ta đă đi từ lâu. Ông bảo bà:

-Sáng mai, tôi sẽ ra khỏi nhà thật sớm!

Thế rồi, ông rời chỗ ngồi và đến bên kệ sách, chọn một quyển nhỏ viết bằng tiếng Tây phương rồi mở ra. Sách này là một trong những quyển viết bằng tiếng Ḥa Lan mà hồi năm ngoái (Meiwa thứ 7, 1770), trong khi tháp tùng lănh chúa của phiên là ngài Okudaira Masaka từ Edo trở về bản quán Buzen Nakatsu, ông đă được phép ghé qua Nagasaki mua đem về. Đó là bản dịch của một nguyên tác Đức ngữ về khoa giải phẫu do Johann A. Kulmus viết sang tiếng Ḥa Lan và có nhan đề Tâheru Anatomia (Anatomisch Tabellen)[4], xuất bản tại Amsterdam.

 

                 File:Joh. Adam Kulmus Hieronymus Sperling sculps.jpg             

                 Johann Adam Kulmus (1689-1745)

 

Ryôtaku thấy ḿnh như đang bị cuốn hút vào những bức tranh minh họa trong đó.

Ông thấy những khái niệm đến từ sách vở Trung Quốc như lục phủ (đại trường, tiểu trường, đảm, vị, tam tiêu[5], bàng quang) ngũ tạng (tâm, phế, t́, can, thận) hăy c̣n chứa nhiều điều lầm lẫn. Ông cũng nhận ra rằng sách về khoa giải phẫu của người phương Tây chính xác hơn nên đă mua về tham khảo.

Xưa nay, việc giải phẫu xác chết, nếu không có sự cho phép của Mạc phủ là trái luật. Hơn nữa giữa đám thày thuốc với nhau, có nhiều tiếng nói cho rằng việc mổ xẻ thân thể con người là một hành động tàn nhẫn, không hợp với đạo lư của bậc quân tử. Trong bầu không khí nửa tin nửa ngờ như vậy th́ xảy ra việc Yamawaki Tôyô[6] thực hiện cuộc giải phẫu thi thể một tử tù vào năm Hôreki thứ tư (1754) và sau đó ông đă tŕnh bày kết quả trong cuốn Zôshi (Tàng chí, 1759) của ḿnh.

Theo đó, Tôyô chủ trương rằng ngũ tạng lục phủ (gozôroppu) trên thực tế không thấy đúng như người xưa giải thích, đồng thời khẳng định sự chính xác của sách giải phẫu phương Tây.

Ryôtaku là người đang nỗ lực học hỏi y lư Tây phương nên tán đồng chủ trương của Yamawaki Tôyô. Có điều ông nghĩ rằng nếu ḿnh chưa nh́n tận mắt một cuộc giải phẫu cơ thể người ta th́ chưa thể xác quyết về điều đó.

Ông vén mấy sợi tóc ḷa x̣a trên g̣ má, vuốt lên cho ngay ngắn.  Nghĩ đến việc sáng mai, ḿnh sẽ mang theo quyển Tâheru Anatomia để so sánh h́nh vẽ trong đó với nội tạng của người tử tù... đôi mắt ông long lanh.

Ryôtaku rời khỏi chỗ ngồi trước án thư và sửa soạn đi ngủ.

Vầng trăng xuân nḥa sương treo giữa đỉnh trời.

 

                         Hai

 

Maeno Ryôtaku (Tiền Dă, Lương Trạch) tên là Yomisu (Hi), tự  Shietsu (Tử Duyệt), hiệu Rakuzan (Lạc Sơn). Ông là con phiên sĩ Taniguchi Shinsuke đất Chikuzen nhưng sinh ra trong khu Ushigome Yarai thành Edo vào năm Kyôhô thứ 8 (1723).

 

                 http://www.oitakentaxi.jp/03shiritai/img/03/090maeno2.jpg

              Maeno Ryôtaku, con người cứng cơi và cô độc

 

Shinsuke, ngựi cha, mất lúc Ryôtaku hăy c̣n bé, mẹ lại bỏ rơi khiến ông thành đứa trẻ mồ côi. Từ tuổi thơ ấu, ông bác tên là Miyata Zentaku,- một y sĩ phục vụ cho ngài Inada Masayoshi, tước trấn thủ vùng Tango[7], lănh chúa phiên Kuniyodo trong xứ Yamashiro – đem về nuôi dạy.

Miyata Zentaku thông thái nhưng đồng thời cũng là một nhân vật tính khí hết sức quái dị. Và như thế Ryôtaku, con người không cha không mẹ, đă được ông bác Zentaku dưỡng dục cho đến khi khôn lớn.

Zentaku thường răn bảo Ryôtaku:

-Người sinh ra trên đời phải biết kiếm một kỹ thuật hay nghệ thuật nào có vẻ sắp biến mất để ǵn giữ cho nó c̣n măi. Mày cũng vậy, phải yêu những cái ǵ thiên hạ bỏ bê không thèm mó tới và giữ cho nó tồn tại lâu dài. Nhớ đấy nhé! Đă là con người thời phải biết sống cho những mục đích như thế!

Ông bác ngang bướng Zentaku đă rót vào đầu Ryôtaku, đứa trẻ mồ côi mồ cút, những ư nghĩ khác thường. V́ vậy mà Ryôtaku trở thành một con người đặc biệt, cứng cơi và cô độc.

Về sau Ryôtaku đă được gia đ́nh một thày thuốc phiên Nakatsu tên là Maeno Tôgen nhận làm dưỡng tử. Kể từ lúc đó, ông chăm chỉ theo đ̣i nghiệp y. Ông không quên lời căn dặn của người bác Zentaku nên đă chăm chỉ luyện tập cách thổi loại sáo ngắn Hitoyogiri – loại này không phải là sáo Shakuhachi ống to hơn vốn được thiên hạ yêu chuộng. Ông cũng thường lui tới chỗ tập hài kịch Saruwaka Kyôgen, làm cho người xung quanh không khỏi bàn tán v́ cho là ông có những thị hiếu lạ lùng.

Việc ông muốn t́m hiểu tiếng Ḥa Lan cũng giống y. Thời ấy nào có mấy ai đi học ba thứ đó.

Nhân một hôm có người cùng phiên tên Saka Kôô đem một cuốn sách viết bằng tiếng Ḥa Lan đến cho Ryôtaku xem và bảo ông:

- Này, cậu thử đọc cuốn sách này xem có hiểu nó nói ǵ không?

Ryôtaku đặt cuốn sách Ḥa Lan viết bằng một thứ văn tự kỳ dị trước mặt ḿnh, lặng thinh không nói ǵ nhưng trong bụng nghĩ thầm dù là sách viết bằng tiếng nước ngoài, một khi do con người viết ra th́ cớ ǵ người khác lại không thể hiểu được. Thế rồi vào mùa xuân năm Meiwa thứ 3 (1766), vào dịp viên Thương quán trưởng Ḥa Lan[8] cùng đoàn tùy tùng lên Edo và ngụ ở quán trọ Nagasakiya xóm Hongoku th́ Ryôtaku t́m đến nhà Sugita Genpaku. Chủ nhân hỏi ông:

-Nhà thầy đi đâu đấy?

Ông trả lời:

-Tôi định tới quán Nagasakiya gặp viên thông ngôn để t́m hiểu về nước Ḥa Lan, rồi nếu tiện sẽ xin hỏi ông ấy thêm về tiếng Ḥa Lan, xem nó là thứ tiếng như thế nào. 

Do Genpaku cũng thường đi lại nơi đó, Ryôtaku mới rủ ông ta cùng đến Nagasakiya để gặp viên thông ngôn chính trong đoàn là Nishi Zenzaburô.  

Khi Ryôtaku cho biết ḿnh có ư định học tiếng Ḥa Lan, Nishi lắc đầu quầy quậy. Ông ta giải thích:

-Người như tôi sáng chiều phải tiếp xúc với người Ḥa Lan mà khi học tiếng của họ c̣n rất đỗi cực nhọc. Hơn nữa Edo là nơi không tiện cho việc học tập. Cả Aoki Konyô[9] tiên sinh cũng vậy, mỗi lần ông Thương quán trưởng Ḥa Lan lên Edo, tiên sinh thường đến Nagasakiya này tham vấn nhưng có nhiều chỗ cụ phải khổ sở v́ không hiểu được thông suốt.

Ông ta đưa ra một số ví dụ để giải thích chuyện ấy.

-Khi người Ḥa Lan dạy chúng tôi diễn tả việc “uống” nước hay “uống” rượu, họ phải làm điệu bộ một người nâng tách trà lên miệng. Thế th́ ḿnh hiểu được. ”Uống” trong tiếng Ḥa Lan là dekinki. Khổ thay, đến khi dạy những từ nhữ “uống rượu giỏi” (jôgo) hay “uống rượu yếu” (geko) th́ họ không biết phải làm thế nào. Làm động tác bằng tay th́ khó mà diễn tả được, đành phải giải thích kiểu kẻ uống lắm rượu là giỏi rượu và kẻ uống ít là yếu rượu để phân biệt hai bên. Tuy nhiên, “giỏi rượu” hay “yếu rượu” không chỉ liên quan đến lượng rượu mà thôi, nó c̣n có nghĩa là thích và mạnh rượu hay không. Cách giải thích của họ về hành động uống rượu như thế là chưa lột tả được cái nằm bên trong con người.

Nishi thở hắt:

-Cha tôi vốn làm nghề thông ngôn cho nên từ bé, tôi đă biết nhiều từ vựng Ḥa Lan hơn người thường. Vậy mà cho đến tuổi năm mươi tôi vẫn không biết “yêu thích” th́ người Ḥa Lan họ nói ra sao. Măi đến gần đây khi theo ngài Thương quán trưởng lên Edo, giữa đường ông mới dạy cho tiếng đó trong Lan ngữ th́ gọi là aanterekken. Aan là “phiá trước mặt” c̣n terekken là “kéo về phiá ḿnh”. Tóm lại, khi “yêu thích” cái ǵ th́ ḿnh muốn kéo cái vật đang ở đằng trước về gần với ḿnh. Muốn nói “nhớ” quê hương cũng có thể dùng cách diễn tả Aanterekken như thể mong mỏi kéo được quê hương sát lại. Học những khái niệm Họa Lan như vậy thật là khó khăn. Thành thử tuy biết thày hiếu học nhưng tôi xin khuyên đừng đụng tới nó th́ hay hơn.

 

Nishi nói như đoan chắc. Cả Maeno Ryôtaku lẫn Sugita Genpaku chỉ biết cúi đầu nghe.

 

                 02

                      Sugita Genpaku

 

Genpaku thật thà tin lời khuyên can của viên thông ngôn chính Nishi Zenzaburô. Nghĩ rằng ḿnh không thể mất thời gian theo đuổi một công việc đ̣i hỏi sự kiên tŕ như vậy mà chưa chắc đă đem lại lợi lộc ǵ, ông đă định phá ngang, không theo học tiếng Ḥa Lan nữa.

Riêng Ryôtaku là mẫu người ở thái cực bên kia so với Genpaku. Tính ông hễ gặp khó khăn th́ càng năng nổ và quyết tâm thực hiện cho được điều ḿnh muốn. V́ vậy, ông đă đến gơ cửa nhà Aoki Konyô.

             

  「青木昆陽」の画像検索結果

          “Ông thày khoai lang” Aoki Konyô (ảnh minh họa)

 

Aoki Konyô là người cùng với Noro Genjô[10] nhận mệnh lệnh trực tiếp của Shôgun đời thứ 8 là Tokugawa Yoshimune đi học tiếng Ḥa Lan. Mỗi lần vị Thương quán trưởng Ḥa Lan và tùy tùng lên Edo bái yết Mạc phủ th́ hai ông lại có dịp học tiếng nước ấy từ viên thông ngôn của đoàn. Nhờ đó, về sau Aoki đă có những trứ tác như Oranda Moji Ryakkô (Ḥa Lan văn tự lược khảo), Oranda Wayaku (Ḥa Lan Ḥa dịch), Oranda bun.yaku (Ḥa Lan văn dịch).

Ryôtaku theo học tiếng Ḥa Lan với Konyô với tất cả nhiệt t́nh nhưng đành phải bỏ nửa chừng khi Konyô qua đời (1769).

Vẫn không chịu lùi bước, Ryôtaku xuống Nagasaki với quyết tâm đào sâu tri thức. Tuy chỉ với vốn liếng ngữ học ít ỏi, ông đă trở thành một người thày thuốc Nhật Bản duy nhất nghiên cứu chuyên sâu tiếng Ḥa Lan.

 

                          Ba

 

Ngày mùng 4 tháng 3 năm Meiwa thứ 8 (1771), trong khi trời vẫn c̣n tờ mờ, Ryôtaku bọc trong lớp áo bản dịch sang tiếng Ḥa Lan quyển sách giải phẫu học và ra khỏi nhà.

B́nh sinh Ryôtaku không giao du với ai, tiếp xúc với Genpaku th́ có những cũng ít khi. Cho nên thấy Genpaku không quản đêm hôm khuya khoắt c̣n sai người đến mời ḿnh đi chứng kiến cuộc giải phẫu tử thi tù tử h́nh, ông rất vui.

Ryôtaku bước cho nhanh để chóng đến quán nước xóm Mitani khu Asakusa. Tại chỗ đă thấy Sugita Genpaku, Nakagawa Jun.an[11] cũng vừa tới. Sau khi Ryôtaku tỏ lời cảm ơn người đă mời ḿnh đến, ông rút trong tay áo ra cuốn sách về giải phẫu của Đức đă được dịch sang tiếng Ḥa Lan, và nói:

-Tôi nghĩ cuốn sách này có thể giúp chúng ta tham khảo khi xem mổ xác nên mang theo đấy ạ.

-Thật là một mối duyên kỳ ngộ.

Genpaku chăm chú nh́n quyển sách. Thế rồi họ trao đổi với nhau những điều suy nghĩ. Mở quyển sách ra, họ châu đầu lại nh́n  tranh vẽ bên trong. Ryôtaku vừa đưa tay chỉ vào những bức tranh, vừa giải thích cho Genpaku và các bạn:

-Này nhá, đây là hart có nghĩa là quả tim, maag là bao tử, c̣n meeld  là lá lách đấy.

-Thế nhưng sao nó chẳng giống lục phủ ngũ tạng ḿnh đă học ǵ cả. Tôi nghĩ bản dịch Ḥa Lan này có thể chính xác hơn đó ...!

Anh chàng trẻ tuổi Jun.an hăng hái đưa ra nhận xét như thế.

Cả bọn đứng lên khỏi ghế:

-Bề ǵ chúng ḿnh nên đợi lúc xem mổ hẳn hay!

Ra khỏi quán nước, mặt mày ai nấy đều hớn hở. Một phần, đây là lần đầu họ được trông thấy tận mắt một cuộc mổ xác, phần khác v́ bọn họ lại có thêm quyển sách giải phẫu bằng tiếng Ḥa Lan. Nó viết đúng hay sai th́ cứ đợi đến lúc xem mổ, mọi sự trắng đen sẽ rơ ra thôi.

Trên cánh đồng rộng tỏa ra hai bên bờ đường, mùa xuân đă làm nhú lên những chồi xanh. Tuy vậy nơi gọi là băi hành h́nh Kozukabara vẫn như bao trùm một bầu không khí thê lương. Bọn họ hướng về nơi đă được chỉ định, một túp nhà nhỏ và xập xệ. Xác chết đă được khiêng tới nằm sẵn đó, trên người phủ một tấm chiếu lác. 

Theo lời kể của viên tiểu lại, cái xác nằm đấy là của một người đàn bà hung tợn tên Aochababa, xuất thân vùng Kyôto, tuổi độ 50, v́ phạm tội đại h́nh nên lănh án chém.

Việc mổ xác đă được định trước sẽ trao cho Toramatsu, một anh chàng làm tạp dịch khá khéo tay. Th́nh ĺnh hắn ta bị ốm nên ông nội hắn được cử thay cháu làm chuyện đó.

Tuy đă 90 nhưng không ngờ với số tuổi như thế mà lăo ta hăy c̣n rất tráng kiện cương cường. Người ta cho biết là đến nay, mỗi lần mổ xác, lăo vẫn đóng vai tṛ giải thích về các bộ phận cho mấy ông thày thuốc đến tham quan, cái nào là tim, là phổi , là thận vv...

-Riêng việc tự tay mổ th́ đối với tôi đây mới lần đầu...

Sau khi nói xong điều đó với giọng kiêu hănh, lăo vung tay hất tung tấm chiếu ra. Thây chết đă cụt đầu, máu thấm suốt từ phần từ ngang vai trở xuống bụng. Cái thủ cấp phủ tóc bạc lăn lóc bên nách.

Lăo già thọc mũi nhọn vào trong lồng ngực xác chết, nhanh nhẹn xẻ nó ra làm đôi và phanh luôn cả phần bụng. Thế rồi lăo đưa tay chỉ chỏ vào nội tạng của xác chết và huênh hoang giải thích với bọn Ryôtaku:

-Cái này là lá gan, cái này là quả thận... .

Kể từ khi lăo sư Yamawaki Tôyô được chứng kiến tận mắt việc mổ xác tù tử h́nh, chuyện nhà đương cục cho phép các y sĩ đi coi đă trở thành phổ biến. Ngay cả mấy lần trước, khi mổ xác ở băi hành h́nh Kozukabara này, không thiếu ǵ thầy thuốc đă được mời đến tham quan.

Tuy vậy, hầu như việc mỗ xác ở pháp trường chỉ dành cho bọn làm tạp dịch hạ tiện, mấy ông y sĩ chỉ biết đứng cạnh họ mà nh́n. Thế rồi những y sĩ vốn chẳng có kiến thức bao nhiêu về vị trí xếp đặt của nội tạng đă phải nhờ người mổ xác giải thích cho. V́ vậy mới xảy ra việc lăo già kia đă có thái độ hợm hĩnh khi đứng trước Maeno Ryôtaku và các đồng nghiệp.

Thế nhưng lúc đó, lăo già bắt đầu nhận ra rằng mấy ông thày thuốc có mặt hôm nay có cái ǵ khang khác. Maeno Ryôtaku và các bạn hầu như chẳng tỏ ra chú ư đến lời lăo giải thích. Họ c̣n lấy ở đâu ra một quyển sách viết bằng thứ chữ kỳ lạ, say sưa lật qua lật lại nh́n ngắm và so sánh h́nh vẽ trong đó với những nội tạng đang bày ra trước mắt rồi trao đổi với nhau không biết những chuyện ǵ. Họ cũng chẳng tỏ vẻ sợ hăi khi cho tay sờ nắn chúng. Họ x́ xào, suưt soa :

-Hầu như chẳng khác nhau chỗ nào cả.

 

   「解剖新書」の画像検索結果    

            Họ thấy chẳng khác trong sách ở chỗ nào cả ...

 

Lăo già im bặt, hai mắt lăo dán vào những bộ mặt căng thẳng và nghiêm nghị của những người đứng đằng trước. Thế rồi, sau khi cuộc xét nghiệm chấm dứt, lăo mới cung kính cúi đầu nói:

-Cho đến bây giờ mỗi lần mỗ xác, lăo có phận sự thuyết minh cho các y sĩ và không một ai tỏ ra hoài nghi về lời của lăo. Thế nhưng mấy thày đây là những người hoàn toàn khác với họ. Vậy xin quí thày tha thứ cho lăo cái tội ba hoa.

Ryôtaku và các bạn c̣n muốn kiểm tra h́nh thù xương cốt nữa cho nên mới đi ra ngoài thu nhặt những bộ xương đă bị gió mưa vùi dập trên băi hành h́nh. Nào là xương lưng, xương sọ, xương tay, xương chân...Họ so sánh chúng với những h́nh vẽ trong quyển sách, xem hai bên có thống nhất hay không.

Chuyến đi xem mổ xác như vậy là kết thúc, cả bọn kéo nhau ra về. Phải nói là ba người vô cùng cảm kích về những điều vừa xảy ra.

Trong đôi mắt của Genpaku thấy như có ngấn nước long lanh. Ông bảo mọi người:

-Trong buổi tham quan hôm nay, thực là chúng ta đă đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Hận ḿnh là người đeo đuổi nghiệp y để có ích cho chủ quân mà lại không có chút tri thức cơ bản là cách bố trí nội tạng trong thân thể con người. Nh́n lại đoạn đường đă đi cho đến nay, thật hỗ thẹn khôn xiết. Nếu chúng ta không biết dựa trên kinh nghiệm này để có sự phán đoán chính xác về cơ thể con người và chuyên chú vào y thuật th́ mai sau sẽ không biết thưa gửi thế nào với thiên địa thần minh.

Nghe thế, Ryôtaku cúi đầu thật thấp và trả lời:

-Tôi cũng xin đồng ư với thày.

Cả bọn sau đó như nhẹ gánh, thong dong bước trên con đường về.

Bỗng nhiên Genpaku khựng chân dừng lại.

-Sao, chuyện ǵ vậy thày? Cho chúng tôi biết với!

Có tiếng thảng thốt hỏi. Cả Ryôtaku lẫn Jun.an đều quay đầu nh́n Genpaku.

-Thế này nhé, hai thày ạ. Tôi đang nghĩ đến việc thử dịch cuốn sách giải phẫu từ tiếng Ḥa Lan sang tiếng nước ḿnh. Nếu dịch được và hiểu bên trong và bên ngoài cơ thể có ǵ th́ thật vô cùng hữu ích cho phương pháp chữa trị bệnh nhân chúng ta đang có. Duy có cái khó khăn mà các thày đều đă biết là bọn y sĩ chúng ḿnh phải làm sao có đủ sức đọc và hiểu được sách mà không phải nhờ vả mấy thày thông ngôn....

Mặt Genpaku thấy như đang bừng lên một niềm đam mê.

Ryôtaku nh́n thật sâu vào đôi mắt của Genpaku, ḍ hỏi. Thế rồi, mắt của ông cũng rực sáng. Ông nói:

-Thú thực với các thày, từ hai ba năm về trước, trong đầu tôi lúc nào cũng bị ám ảnh bởi ư nghĩ là làm cách nào để đọc được chữ Ḥa Lan. Ngày ngày tôi vẫn bị dằn vặt, cứ than thở rằng ḿnh không có những người bạn tốt cùng chí hướng. Thế nhưng nếu hai thày đây cũng rắp tâm làm chuyện dịch thuật, th́ xin thưa là năm ngoái bản thân tôi cũng đă xuống dưới Nagasaki, học được dăm ba chữ Ḥa Lan rồi. Xin coi việc đó như là bước đầu để thử t́m hiểu quyển sách giải phẫu.

-Nếu thế th́ vững ḷng quá! Bọn ḿnh đồng ḷng hiệp sức, quyết tâm làm cho được cái chuyện hữu ích này nhé!

Nghe Genpaku lên tiếng như vậy, mặt mày Ryôtaku lộ nét vui mừng.

Anh bạn trẻ Nakagawa Jun.an, hăy c̣n trong lứa tuổi 30, cũng khoa tay múa chân bày tỏ sự hăng hái. Ba người mắt đẫm lệ, đăm đắm nh́n nhau.

Ryôtaku bảo họ:

-Nếu đă đi đến quyết định rồi th́ phải làm như lời ngạn ngữ, nghĩa là “Sớm chừng nào tốt chừng nấy”. Vậy xin hai thày ngày mai quá bộ đến tệ xá và chúng ta khởi công nhé!

Genpaku và Jun.an nghe thế đều tỏ ra đồng ư. Thế rồi, hôm đó, ai về nhà nấy.

Câu chuyện phiên dịch Tâheru Anatomia - đáng được gọi là một cái mốc lịch sử - này, đă bắt đầu ngay hôm sau.

 

                         Bốn     

 

 Ngày mùng 5 tháng 3 năm Meiwa thứ 8 (1771), đúng giờ hẹn, Sugita Genpaku và Nakagawa Jun.an họp mặt với Maeno Ryôtaku ở dăy nhà ngang tư dinh lănh chúa phiên Nakatsu là ngài Okudaira trong khu Tsukiji Teppôsu, nơi Ryôtaku đang trú ngụ.

Maeno Ryôtaku là người lớn tuổi nhất trong bọn, năm đó đă 49. Sugita Genpaku 39 c̣n Nakagawa Jun.an mới có 32.

Cha của Genpaku là Hozan, vốn là một y sĩ từng theo học ngoại khoa của người Ḥa Lan. Hơn thế nữa, khi Genpaku vừa 17 tuổi, ông đă nghe theo lời khuyên của cha đến vùng Nihon Enoki, nhập môn Nishi Gentetsu, một y sĩ ngoại khoa Lan học. Tiếng là được truyền thụ y thuật Ḥa Lan nhưng tri thức mà Genpaku thu thập được lúc đó hăy c̣n rất ấu trĩ và nghèo nàn.

Sau đó, nhân một lần viên Thương quán trưởng Ḥa Lan và đoàn tùy tùng lên Edo, Genpaku đă có một lần chứng kiến cảnh Pauwells,  một y sĩ người Ḥa Lan, mổ một cái nhọt trên lưỡi cho anh y sinh Kawahara Genba.

Genpaku kinh ngạc trước tay nghề của Pauwells. Khi lưỡi dao mổ đưa vào th́ máu có tuôn ra ràn rụa nhưng Pauwells đă đặt ngay một vật để hứng ở một chỗ cố định ngay bên dưới, để cho máu có chảy ra cũng chỉ rơi vào đúng một nơi thôi. Vào dịp đó, Genpaku đă được Yoshio Kôzaemon, viên thày thuốc và cũng là người thông ngôn nổi tiếng, cho mượn một cuốn sách về ngoại khoa. Tuy Genpaku không nắm được ngôn ngữ nhưng đă thức suốt đêm để sao chép lại nguyên quyển sách, chứng tỏ nhiệt t́nh của ông muốn tiếp thu cho bằng được y lư Ḥa Lan. 

C̣n về Nakagawa Jun.an th́ đến nay người ta đă biết rơ ông có lần đứng ra làm trung gian để kiếm cho Genpaku một cuốn sách giải phẫu được dịch sang tiếng Ḥa Lan giống y quyển Ryôtaku có trong tay. Do đó, có thể xác định rằng ông cũng có nhiệt t́nh muốn hiểu biết y học nước người. Ông cũng đă học được từ Yasutomi Kiseki, thày thuốc của lănh chúa vùng Yamagata 26 chữ cái tiếng Ḥa Lan. Dù sao, cũng như Genpaku, ông hoàn toàn không có tri thức nào khác về ngôn ngữ này.

  http://blogs.c.yimg.jp/res/blog-16-59/seizoh529/folder/425732/16/26259116/img_0?1192189652

Những h́nh vẽ trong Kaitai Shinsho (Giải thể tân thư)

 

Đương nhiên, nhân vật chủ chốt của việc dịch thuật là người lớn tuổi nhất trong bọn, Maeno Ryôtaku, cho dù tŕnh độ của ông chẳng có bao nhiêu. Cả Genpaku lẫn Jun.an đều trọng ông như người thày.

Công tŕnh dịch thuật đă bắt đầu từ ngày hôm đó. Tuy nhiên khi mắt vừa chạm ḍng chữ đầu tiên, các nhà dịch thuật đă há hốc nh́n nhau. Một lần nữa, họ hiểu rằng đây là một việc làm tuyệt đối khó khăn nhưng không v́ thế mà năn ḷng. Họ lại bàn căi với nhau xem phải làm cách nào để có thể hiểu được nội dung quyển sách.

Kết quả họ quyết định dẹp qua một bên phần nói về nội tạng vốn đầy dẫy những từ khó, để đó xem sau. Họ nghĩ rằng phương pháp hay nhất là dịch mấy đoạn nói về những cơ quan bên ngoài thân thể trước đă.

Ở đầu quyển sách giải phẫu, có một bức tranh vẽ hai nam nữ lơa thể, trên các bộ phận đều có đánh dấu và liên kết với những lời chú dẫn. Nếu nh́n văn tự viết bên cạnh cái miệng th́ nhất định sẽ hiểu được trong tiếng Ḥa Lan danh từ nào dùng để chỉ cái miệng. Rồi cứ thế mà nhích từng chút một, mỗi ngày họ biết thêm vài từ vựng.

Cho dù biết đủ các tiếng đơn vẫn chưa có thể hiểu trọn một câu. Bọn họ mỗi ngày chỉ ráng đọc cho được một câu, thế mà lắm lúc vẫn không sao nắm ư nghĩa.

Chẳng hạn, trong phần nói về cái đầu (hoofd) th́ thấy có một ḍng chữ in như thế này:

Het hoofd is de opperste hollingheid

Ryôtaku suy luận : Is có thể là “dă” (nari) có nghĩa là “là”. Ông biết sẵn de là một trợ từ. Thế th́ câu nói trên nhất định phải dịch thành “Cái đầu là .....” mới được. Khổ nỗi, trong phần này có hai từ ông không hiểu người ta muốn nói ǵ.

Ryôtaku lật đi lật lại quyển Từ điển Phật Lan[12], khổ sở lắm mới biết rằng opperste có nghĩa là “chỗ cao nhất ở bên trên”. Bọn họ bèn suy nghĩ và trao đổi ư kiến rồi bất chợt Genpaku nói như hét lên:

-Thôi tôi hiểu rồi. Không phải họ muốn nói là “ở nơi cao nhất bên trên”hay sao?

Jun.an hỏi lại Genpaku:

-Cái ǵ cao?

-Cái đầu chớ cái ǵ! Trong thân thể, không phải cái đầu nằm ở chỗ cao hơn cả à?

Genpaku vừa trả lời, vừa đưa tay lên vỗ vỗ đầu ḿnh.

Bọn họ mừng đến nhảy dựng lên và bắt đầu đặt bút dịch:

Trong thân thể, đầu ở nơi cao nhất.

Rồi cứ thế mà họ tiếp tục ṃ mẫm và con số từ ngữ được dịch càng ngày càng tăng thêm. Cộng thêm kiến thức sẵn có – tuy không là bao - của Ryôtaku, công việc dịch thuật càng ngày càng tiến.

Kể từ ngày bắt đầu công việc, một năm đă trôi qua. Nhóm dịch thuật bước vào năm Meiwa thứ 9 (1772). Ngày 11 tháng 2 năm đó, cô con gái cả của Maeno Ryôtaku lâm bệnh rồi mất làm cho tinh thần ông suy sụp nặng nề. Để quên đi nỗi buồn đó, ông lại vùi đầu vào việc dịch quyển sách giải phẫu từ tiếng Ḥa Lan.

Thế rồi, không biết tự lúc nào, việc làm của nhóm đă được các nhân vật ḍng dơi danh y tham gia. Có thể kể đến Katsuragawa Hoshuu, y sĩ thân cận của Shôgun, Ishikawa Genjô, thị y bên cạnh lănh chúa Hitotsubashi, Kiriyama Shôtetsu, thày thuốc phiên Hirosaki, Mine Shuntai, phiên y ở Takasaki, Karasuyama Shôen, y sĩ từ lănh địa Shônai...cũng như nhiều vị khác nữa. Tuy vậy, việc dịch thuật đ̣i hỏi sự tŕ chí chứ không hề dung dị cho nên rất nhiều kẻ không theo nỗi đă phải rút lui.

Việc phiên dịch của nhóm vẫn tiến thêm nhưng kể từ lúc này, bỗng nhiên Maeno Ryôtaku bắt đầu tỏ ra bực ḿnh với thái độ dịch thuật của Sugita Genpaku.

Bởi lẽ Genpaku chỉ mong sao việc dịch cuốn sách giải phẫu từ tiếng Ḥa Lan này chóng kết thúc để ông c̣n đem ra tŕnh với công chúng nên luôn luôn lên tiếng giục giă.

Thấy ông ta cứ rối rít để in sớm cho bằng được, bọn Jun.an không khỏi cười cợt. Nghe thế, Genpaku bào chữa:

- Tôi nay tuổi đă lớn. Không gấp rút sao cho được. Chỉ e rằng khi các thày hoàn thành công việc này rồi th́ chắc mồ tôi đă xanh cỏ.

Những người trẻ như Katsuragawa nghe nói thế bèn tặng đùa ông ta cái danh hiệu “Mồ xanh cỏ”[13]

Đă đành Sugita Genpaku là người có công khởi xướng việc dịch thuật nhưng cá nhân ông ta chỉ nuôi hy vọng là khi đưa được bản dịch này ra công chúng, ḿnh sẽ nổi tiếng.

Đương nhiên đó là dục vọng ai mà chẳng có, thế nhưng đối với kẻ chỉ chú trọng vào học hỏi nghiên cứu như Maeno Ryôtaku th́ thái độ của Genpaku khó ḷng được tha thứ. Có điều là Ryôtaku vẫn không thể nào bỏ ngang việc làm đang dang dở chỉ v́ nhiệt t́nh vô bờ bến của ông đối với học vấn. Một mặt tuy không bằng ḷng với thái độ của Genpaku nhưng mặt khác ông vẫn cặm cụi dịch tiếp.

Nh́n thái độ của Ryôtaku, Genpaku hiểu ra là ông ta khó chịu với ḿnh. Thế nhưng Genpaku không thể loại Ryôtaku ra khỏi chương tŕnh bởi v́ kiến thức tiếng Ḥa Lan của ông ta vượt trội hơn cả nhóm. Nếu không có Ryôtaku th́ việc dịch thuật khó ḷng thành tựu.

Sau khi chương tŕnh dịch thuật khởi công được một năm mười tháng, Genpaku mới lấy một số h́nh vẽ trong Taaheru Anatomia kèm thêm lời chú dẫn, nhờ nhà khắc mộc bản ở Edo tên là Suhara Yaichibê cho in thành một tập Kaitai ryakuzu (Giải thể lược đồ)[14]. Nó chỉ gồm có ba bức tranh đóng gáy cùng với hai trang chú thích thành một tập nhỏ, với cái ư đây là bản công bố tạm thời về chương tŕnh dịch thuật sách giải phẫu của nhóm. Tên dịch giả chỉ có hai người: Sugita Genpaku và Nakagawa Jun.an.

Đối với Maeno Ryôtaku th́ việc Genpaku cho xuất bản quyển sách mỏng này chỉ là một hành động thiếu đẳng cấp và làm phật ư ông thêm.

 

                           Năm

 

Tháng 8 năm An.ei thứ ba (1774), việc dịch thuật từ khi bắt đầu đến giờ đă mất tất cả 3 năm 4 tháng. Quyển sách dịch từ nguyên tác Đức ngữ của Johann Adam Kulmus sang tiếng Ḥa Lan thành ra Taahe Anatomia nay mang một cái tên mới qua bản mà nhóm chuyển ngữ sang tiếng Nhật là Kaitai shinsho (Giải thể tân thư) và đă được phát hành.

Chính văn gồm 4 tập, thêm 1 tập có lời tựa và tranh vẽ nữa thành 5 tập tất cả, in bằng mộc bản. Tập một có 21 trang, tập hai 23 trang, tập 3, 24 trang, tập bốn 26 trang ...các tập này là phần chính văn. Chữ Hán trong đó đều được chua cách đọc lối Nhật ở bên cạnh.

Lời tựa do nhà thông dịch kiêm y sĩ Yoshio Kôzaemon viết. Ông không ngớt lời ca tụng sự nghiệp vĩ đại mà Maeno Ryôtaku và Sugita Genpaku vừa mới hoàn thành.

Khốn nỗi cuốn “Giải thể tân thư” vừa được in ra đó đă bộc lộ một sự thực kỳ quái. Từ tập thứ nhất cho đến tập thứ năm, trên mào đầu đều có in 4 cái tên của những người đă đóng góp. Đó là:

Dịch: Sugita Genpaku

Hiệu chú: Nakagawa Jun.an

Tham gia: Ishikawa Genjô

Duyệt: Katsuragawa Hoshuu

Chỉ có thế. Riêng tên người đứng ra điều khiển việc dịch thuật là Maeno Ryôtaku th́ đă bị đục bỏ.

Cớ sao trong lời tựa, Yoshio Kôzaemon đă không tiếc lời ca tụng Ryôtaku lẫn Genpaku mà nay lại không thấy tên Ryôtaku nằm trong danh sách dịch giả! Chuyện này thật quá khó hiểu.

Nào có nghe ai nói là sau khi công việc dịch thuật hoàn tất, giữa Ryôtaku và Genpaku đă có sự bất ḥa đâu!

Chỉ v́ đối với Ryôtaku, bản dịch “Giải thể tân thư” chưa được hoàn chỉnh, phải đợi vài năm nữa mới có thể đưa in.

Genpaku lại vội vàng quá đỗi. Ryôtaku, v́ lương tâm của nhà nghiên cứu, không thể chiều theo ư đó nên đă tự động rút tên ḿnh ra khỏi danh sách các dịch giả.

Genpaku cũng chấp nhận một cách thoải mái. Thành ra trong danh sách người dịch, chỉ có mỗi tên Sugita Genpaku.

Giữa khi khắp nơi vang dội những lời hay tiếng tốt dành cho bản dịch, Maeno Ryôtaku đóng chặt cửa, thu ḿnh trong thư pḥng. Năm đó ông 53 tuổi.

Thanh danh y sĩ của Sugita Genpaku thoắt cái đă nổi như sóng cồn, một ḿnh ông qui tụ tất cả sự vinh hiển và tôn kính dành cho một nhà sáng lập Lan học. Thế nhưng việc nghiên cứu tiếng Ḥa Lan của Genpaku th́ từ khi tác phẩm “Giải phẫu tân thư” ra đời, không có dấu hiệu ǵ cho thấy ông đă tiếp tục.

Genpaku trường thọ, sống đến 85 tuổi. Nửa đời sau, nhờ mở pḥng mạch tiếp con bệnh, ông có một cuộc sống sung túc. H́nh như ông cũng khá để ư đến tiền bạc v́ một lần vào dịp cuối năm, thấy ông ghi lại trong nhật kư những câu như sau: ”Năm nay thu được 476 lạng 2 phân 2 chu[15], bái lĩnh thêm 67 lạng 3 phân, tổng cộng 544 lạng 1 phân 2 chu”. Sau đó, thu nhập của Genpaku ngày lại càng tăng vọt.

Ngoài ra, với cái cớ Genpaku là một y sĩ tinh thông, người ta cho phép ông vào bái yết Shôgun Ienari. Đây là lần đầu vinh dự này được dành cho một y sĩ Lan y.

 

               http://userdisk.webry.biglobe.ne.jp/009/533/98/N000/000/000/img101.jpg

        Kaitai Shinsho bản hiện đại chỉ có tên Genpaku(杉田玄白)

 

Nếu so sánh với thái độ của Genpaku th́ Ryôtaku, ngay cả sau khi bản dịch “Giải thể tân thư” ra đời, ông vẫn miệt mài học tiếng Ḥa Lan. Ông lấy cớ bệnh hoạn, đóng cửa tạ khách, tích cực lẫn tránh mọi thứ giao tế. Số lượng sách ông dịch tăng thêm nhiều nhưng v́ ḷng vẫn coi thường danh lợi nên sách có đó mà chẳng buồn đem in.

Ông sống một đời nghèo khổ, cũng không hề thu nhận ai làm học tṛ. Thế rồi, ông lại vượt ra ngoài khuôn khổ ngành y mà nới rộng hoạt động dịch thuật đến những lănh vực khác như thiên văn, lịch học và địa lư, để lại vô số dịch phẩm đủ loại.

Sau khi trưởng nam của ông qua đời, vợ ông – bà Binko – cũng nối gót theo con. Ông được Mineko, cô con gái thứ đă lấy chồng là viên y quan của Mạc phủ, Kojima Shun.an, đem về phụng dưỡng. Ngôi nhà ông dọn đến nằm ngay cạnh biệt thự của Genpaku.

Ngày 17 tháng10 năm Kyôwa thứ 3 (1801), Maeno Ryôtaku lâm bệnh và mất, thọ 81 tuổi. Thế nhưng Genpaku chẳng đến đưa ma, trong nhật kư, hôm đó ông ta chỉ ghi lại vỏn vẹn mấy chữ:

Ryôtaku chết.

Di hài của Ryôtaku được mai táng ở nghĩa trang Khánh An Tự (Kei.anji) khu Shitaya thành Edo. Hiện nay ở Cao Viên Tự (Kôenji) trong khu Suginami hăy c̣n tấm bia lập lên để nhớ ông.

 

Dịch xong tại Tokyo ngày 6 tháng 9 năm 2016

Nguyễn Nam Trân

 



[1] Maeno Ryôtaku 前野良沢 (1723-1803), y sĩ Tây y (Lan học) thời Edo trung kỳ (thế kỷ 18).

[2] Sugita Genpaku杉田玄白 (1733-1817), y sĩ Tây y (Lan học) thời Edo trung kỳ (thế kỷ 18). Gia đ́nh đời đời làm thày thuốc của phiên. Tác giả Rangaku kotohajime 蘭学事始(Nguồn gốc của cái học Ḥa Lan)

[3] Thời đó có thông lệ là Thương quán trưởng Ḥa Lan ở Dejima (Nagasaki) hàng năm phải lên bẩm báo với Shôgun về những chuỳển biến mới của t́nh h́nh thế giới.

[4] Tên bản tiếng Nhật là Kaibô Zufu解剖図譜 (Giải phẩu đồ phổ). Trước đó, đă được dịch từ Đức ngữ sang tiếng Ḥa Lan năm 1734. Sau này được biết nhiều với cái tên mới là Kaitai Shinsho解体新書 (Giải thể tân thư, 1774).

[5] Sanshô (tam tiêu三焦) là một khái niệm y học hơi trừu tượng thấy trong Hoàng Đế Nội Kinh để chỉ hô hấp (thượng tiêu), bài tiết (trung tiêu và hạ tiêu). C̣n t́ là tụy tạng ( hizô) tức lá lách.

[6] Yamawaki Tôyô 山脇東洋 (1705-1762), thày thuốc thời Edo trung kỳ (thế kỷ 18), người tiên phong trong y học thực nghiệm và là thày học của Maeno Ryôtaku. Tác giả Tàng chí蔵志.

[7] Xưa kia, ở Nhật, thường có chức và tước. Tước là do triều đ́nh Kyôto ban cho, danh giá hơn và không liên quan ǵ đến chức phận trong thực tế.

[8] Ḥa Lan (Hà-Lan) là một trong những quốc gia hiếm hoi được Mạc phủ Tokugawa cho mở Thương quán (Foreign Merchant Office) để làm mậu dịch với Nhật. Từ năm 1641, họ có cơ sở gồm khu ăn ở, nhà kho và bến cảng riêng ở Dejima, khu đất lấp h́nh nan quạt phía nam thành phố Nagasaki.

[9] Aoki Konyô 青木昆陽 (1698-1769) nhà Nho học và Lan học, phụ trách thư tịch ngoại quốc (Man thư) của Mạc phủ. Từng được Shôgun ra lệnh học tiếng Ḥa Lan. Có viết tác phẩm “Ḥa Lan văn tự lược khảo”. Ông c̣n được biết như người đă đem khoai lang (cam thự) vào trồng ở Nhật như một nguồn thực phẩm mới trong một xă hội hay gặp nạn đói. Người Nhật rất biết ơn và hay nhắc tên ông một cách yêu quí là Cam thự tiên sinh (Ông thày khoai lang).

[10] Noro Genjo 野呂元丈 (1693-1761), y sĩ kiêm nhà thực vật học (bản thảo học) đời Edo trung kỳ (thế kỷ 18) , từng theo học thuốc với Yamawaki Tôyô và thực vật học với Inou Jukusui. Đă viết Oranda sôboku Wakai (A Lan Đà thảo mộc Ḥa giải) , một từ điển Ḥa Lan-Nhật về cây cỏ.

[11] Nakagawa Jun.an 中川順庵 (1739-1786), xuất thân phiên Obama, y sĩ Lan y thời Edo trung kỳ (thế kỷ 18), người về sau sẽ cộng tác với Sugita Genpaku và Maeno Ryôtaku trong việc dịch thuật.

[12] Có thể hiểu là Từ điển tiếng Hỏa Lan. Thời ấy Ḥa Lan được gọi bằng nhiều tên (Hà Lan, A lan đà, Ḥa Lan vv...).

[13] Nguyên văn là Kusaba no kage (Dưới bóng cỏ lá) ư nói chết chôn mất đất.

[14] “Giải thể” trong văn mạch này chỉ có nghĩa là Giải phẫu cơ thể.

[15] Chu (shu) là đơn vị hoá tệ thời Edo. Một lạng (ryô) có 16 chu.Một phân (bu) có 4 chu.