SỐNG THIỀN

Suzuki T. Daisetsu: người bạn, người thầy

 

Nguyễn Nam Trân

 

            

Bài dưới đây tóm lược thân thế và sự nghiệp triết gia Suzuki Daisetsu, một nhà truyền bá Thiền ưu tú và cũng là bài bạt viết cho bản dịch toàn văn “Zen and Japanese Culture” (Thiền và Văn hóa Nhật Bản, ấn bản có bổ sung năm 1958) của dịch giả vừa được công ty Hồng Đức ở Việt Nam xuất bản vào tháng 5 năm 2019. Xin trân trọng trao gửi quí vị và quí bạn.

 

       

 

Phần lớn các nhà Nhật Bản Học trong số đó có Watanabe Makoto (1) đều cho rằng hai nhân vật Nhật Bản đă thành công một cách sớm sủa hơn cả trong việc giới thiệu văn hóa và tư tưởng, xă hội nước ḿnh cho người ngoại quốc. Đó là Nitobe Inazô新渡稲造 (1862-1933) và Suzuki Daisetsu 鈴木大拙 (1870-1966). Nitobe đă viết về Vũ Sĩ Đạo c̣n Suzuki về Thiền.

Suzuki sinh sau Nitobe khoảng 8 năm, quê ở Kanazawa (tỉnh Ishikawa), một thành phố văn hóa và du lịch nh́n ra biển Nhật Bản. Ông được biết như một học giả Phật giáo tinh thông nhiều ngoại ngữ (Hán, Anh, Sanskrit), nhà dịch thuật và sư phạm tài ba, từng giảng dạy tại các đại học danh tiếng ở Nhật Bản (Ôtani) và Âu Mỹ (Princeton, Columbia, London, Yale, Harvard...). Là tiến sĩ triết học, viện sĩ Hàn Lâm, huân chương văn hóa nhà nước, ông c̣n được đề cử Giải Nobel Ḥa B́nh năm 1963.

 

Con người và thời đại:

 

1867 (năm Keiô thứ 3): Mạc phủ Tokugawa trao trả chính quyền cho hoàng gia.

1868 (Meiji nguyên niên): Chính phủ đề cao phong trào phế Phật hủy Thích.Thần đạo được xem như quốc giáo.

1869: Các lănh chúa trả lại lănh địa cho chính quyền trung ương.

1870: Suzuki Teitarô, con trai thứ tư (con út) trong một gia đ́nh thày thuốc cho lănh chúa ở Kanazawa. Teitarô 貞太郎 (Trinh thái lang). Ba anh là Gen (Nguyên), Kyô (Hanh) và Ri (Lợi), tất cả các tên đều là chữ Kinh Dịch. Cha mất sớm, ông và các anh chị được mẹ nuôi dạy trong cảnh bần bách.

1877: Chiến tranh Tây Nam để b́nh định cuộc nổi dậy của Saigô Takamori muốn duy tŕ giai cấp samurai.

1889: Hiến pháp (tôn quân) của nhà nước Minh Trị được ban hành.

1892: Suzuki Teitarô nhập học Dự bị Triết Đại học đế quốc Tokyo. Trong thời gian này, ông cũng đến tham học Thiền ở Engakuji 円覚寺 (Viên Giác Tự) ở Kamakura với các thày Imakita Kyôsen 今北洪川(Kim Bắc Hồng Xuyên) (2) và sau đó, Shaku Sôen 釈宗演 (Thích Tông Diễn) (3). Là bạn học của triết gia Nishida Kitarô 西田幾多郎(Tây Điền, Kỷ Đa Lang) (4) từ hồi trung học cho đến Đại học Tôkyô.

1894: Nhận đạo hiệu cư sĩ là Daisetsu (Đại Chuyết, Kẻ khiêm cung, Kẻ vụng về) từ thày ḿnh là Sôen.

1897: Theo chân Sôen sang bang Illinois (Mỹ) rồi làm việc như nhân viên nhà xuất bản và ở lại đó 11 năm. Hợp tác với học giả Phật giáo và cũng là nhà hoạt động văn hóa người Mỹ Paul Carus. Lúc đầu ông đặt trọng tâm vào chuyện dịch tác phẩm của Sôen qua tiếng Anh và dịch Đạo Đức Kinh từ chữ Hán cổ qua tiếng Anh.

1904: Chiến tranh Nhật Nga (đến 1905).

1910: Vụ án về âm mưu ám sát Thiên hoàng Meiji.

1911: Kết hôn với bà Beatrice Erskine Lane, con gái một nhà ngoại giao Mỹ. Bà là một tín đồ Thông Thiên học (Thần Trí Học, Theosophist), học giả Phật giáo tốt nghiệp Đại học Radcliffe. Bà đă đóng vai người phụ tá, giúp đỡ ông nhiều trong đời hoạt động để khôi phục khí thế của Phật giáo Nhật Bản và truyền bá Thiền sang Âu Mỹ..

1914: Thế chiến thứ nhất bùng nổ (kéo dài đến 1918).

1919: Hai vợ chồng về Nhật, sống và làm việc trong khuôn viên chùa Engakuji ở Kamakura.

1921: Dời xuống Kyôto và dạy ở Đại học Ôtani, một đại học Phật giáo danh tiếng. Quen biết rồi thường đến đàm đạo với học giả Hisamatsu Shin.ichi sống ở gần bên. Hai ông bà hợp tác để xây dựng Học hội Phật giáo Đông Phương (Eastern Buddhist Society (E.B.S.), một cơ sở truyền bá văn hóa Phật giáo. Họ xuất bản tạp chí The Eastern Buddhists bằng tiếng Anh. Bà Lane (đạo hiệu Thanh Liên) cũng dịch Bồ Đề Tâm Luận sang tiếng Anh.

1923: Trận động đất lớn vùng Kantô (Tokyo và chung quanh).

1925: Luật phổ thông đầu phiếu được công bố.

1936: Giáo sư trao đổi ở Đại học London. Tham luận tại Đại hội Quốc Tế về tôn giáo ở London.

1937: Chiến tranh Nhật-Trung (đến 1945, kết thúc cùng Thế Chiến thứ Hai).

1939: Bà Beatrice Lane mất v́ bệnh trên đất Nhật, trước ông 27 năm.

1946: Hiến pháp hậu chiến ra đời.

1949: Sang Mỹ. Giảng dạy ở các Đại học Âu Mỹ trong ṿng 10 năm. Tham gia đại hội các học giả Phật giáo tại Đại học Hawai, quen biết với Hồ Thích (lúc ấy sống ở Đài Loan), cùng nhau thảo luận về Phật học. Được mời dạy ở Đại học Columbia từ 1952 đến 1957. Lấy New York làm cứ điểm, ông đă đi diễn giảng tại các Đại học Yale, Princeton, Hawai, Harvard). Sang Thụy Sĩ gặp gỡ Carl Jung. C̣n giao lưu với Martin Heidegger ở Đức. Nhận các vinh dự như huân chương văn hóa và tước viện sĩ hàn lâm của Nhật (1949).Theo dơi và trợ giúp hoạt động nghiên cứu của nhóm Alan Watts, Hasegawa Saburô và Judith Tyberg ở Hàn lâm viện nghiên cứu Á châu (California Academy of Asian Studies).

1951: Ḥa hội San Francisco: Nhật Mỹ thỏa thuận chấm dứt t́nh trạng đối địch phát sinh ra từ Thế Chiến thứ II.

1960: Nhật Mỹ kư kết Hiệp ước liên minh pḥng thủ (Anpo).

1966: Qua đời ở tuổi 95 v́ bệnh tắc nghẽn đường ruột.

 

Tác phẩm tiêu biểu:

 

Cuộc đời của Suzuki Daisetsu kéo dài non thế kỷ và nằm bắc cầu giữa hai thế kỷ 19 và 20 là một quăng thời gian dài tu học chân chỉ,  hoạt đông tôn giáo nhiệt t́nh và văn bút năng nổ. Toàn bộ công tŕnh của ông đă được nhà xuất bản Iwanami (Tokyo, 1999-2003) gom góp lại trong Toàn tập 40 quyển kể cả phần tăng bổ.

 

Theo dịch giả Kitagawa Momo.o北川桃雄 th́ cho đến năm 1940 nghĩa là thời điểm bản dịch sang tiếng Nhật đầu tiên của Zen and the Japanese Culture ra đời, Suzuki Daisetsu đă xuất bản khoảng 20 tác phẩm tiêu biểu viết bằng tiếng Anh, liệt kê như sau:

1 – Asvaghosha’s Discourse on the Awakening of Faith in the Mahayana (tức bản dịch Khởi Tín Luận của Mă Minh) do Open Court Publishing Company, 1900.

2 – T’ai Sheng Kan-ying Pien (Thái thượng cảm ứng biên), translated by P. Carus and D.T. Suzuki, Chicago: Open Court Publishing Company, 1906.

3 - Yin Chih Wen (The Tract of the Quiet Way) (Âm Chất Văn). Chicago Open Court Publishing Company, 1906.

4- Sermons of a Buddhist Abbot (Những bài giảng của một tu sĩ Phật giáo). Translated by D.T. Suzuki. Chicago Open Court Publishing Company, 1906.

5      - Outlines of Mahayana Buddhism (Đại cương về Phật giáo Đại Thừa) . London: Luzac and Company, 1907. (Hiện có bản Nhật dịch của Sasaki Kan, Iwanami Bunko, 2016)

6      – A Brief History of Early Chinese Philosophy (Trung Quốc Sơ Kỳ Triết Học Sử Cương) . London: Probstain, 1914.

7      – Essays in Zen Buddhism. First Series (Thiền Luận Văn Tập, Tập Một), London Luzac, 1927.

8      – Studies in the Lankavatara Sutra (Nghiên cứu Kinh Lăng Già). London : George Routledge, 1930.

9      – The Lankavatara Sutra, an English Translation of the Original Sanskrit Text (Kinh Lăng Già dịch từ bản tiếng Sanskrit). London: George Routledge and Son, 1932.

10  – Essays in Zen Buddhism, Second Series (Thiền Luận Văn Tập, Tập Hai). London: Luzac & Company, 1933 (một bộ phận đă dịch sang tiếng Nhật).

11  – Essays in Zen Buddism. Third Series (Thiền Luận Văn Tập, Tập Ba). London: Luzac Company, 1934.

12  – Index Verborum (Sanskrit – Chinese-Tibetan) to the Lankavatara Sutra (Bản từ vựng Phạn – Hoa – Tạng để đọc Kinh Lăng Già). Kyoto: The Sanskrit Buddhist Text Publishing Society, 1934.

13  – The Gandavyuha Sutra, Critically. Edited by D.T. Suzuki &H. Idzumi in fourth parts. Kyoto: The S.T.B. P. Society, 1934.

14  – The training of the Zen Buddhist Monk (Khóa tŕnh tu Thiền của tăng sinh). Kyoto: The Eastern Buddhist Society, 1934.(Hiện có bản của New York: University Books, 1959 và Zendô seikatsu hay Thiền đường sinh hoạt do Kitagawa Akimasa dịch, Iwanami Bunko xuất bản, 2016)

15  – An Introduction to Zen Buddhism (Thiền Nhập Môn). Kyoto: E.B.S. 1934 (có bản dịch sang Đức ngữ: Die Grosse Befeiung với lời tựa của triết gia Carl Jung, và bản dịch sang Nhật ngữ do tác giả tự dịch, Kodansha Bunko xuất bản, 2004))

16  Manual of Zen Buddhism (Thiền Phật giáo độc bản). Kyoto: E.B.S., 1935. (Hiện có bản của Random House, New York, 1960).

17  – Buddhist Philosophy and its Effects on the Life and Thought of the Japanese People (Triết học Phật giáo và ảnh hưởng trên đời sống và lối suy nghĩ của người Nhật). Tokyo: K.B.S. 1936.

18  – Buddhism in the Life and Thougth of Japan (Phật giáo trong sinh hoạt và tư duy của người Nhật). London, Buddhist Lodge.

19  – Japan Buddhism (Phật giáo Nhật Bản). Tokyo: Board of Tourist Industry, 1938.

20  – Zen Buddhism and its Influence on Japanese Culture (Thiền và ảnh hưởng trên văn hóa Nhật Bản). Kyoto: E.B.S. 1938. (Hiện có bản dịch của Kitagawa Momo.o. Quyển 1 và 2, Iwanami xuất bản, 1940).

Phần nhiều các tác phẩm tiếng Anh của ông đă được dịch sang Nhật ngữ nhưng phải nói cũng có sự lựa chọn theo thứ tự ưu tiên từ phía các dịch giả.      

 

Trong quăng đời sau của Daisetsu và từ khi phu nhân Beatrice Lane tạ thế, ông dành nhiều thời giờ cho việc giảng dạy và thuyết tŕnh cũng như viết sách bằng ngôn ngữ nước nhà. Trong số những tác phẩm quan trọng bằng tiếng Nhật của ông có:

 

1-    Nihon no seirei (Tinh hồn của người Nhật), hai tập I và II. Kadakawa Sofia Bunko xuất bản, Sueki Fumishi chú). Một bản khác do Iwanami xuất bản (Shinoda Hideo b́nh) và một bản khác nữa trong Chuô Classics (Hashimoto Mineo hiệu chú) do Daitô xuất bản, 2008).

2-    Jôdo kei shisôron (Bàn về hệ tư tưởng Tịnh Độ tông), Iwanami Bunko xuất bản, 2016.

3-    Mushin to iu koto (Vô tâm là ǵ?, 1939), Kadokawa Sofia xuất bản, 2007.

4-    Bankei no fushôzen (Bất sinh thiền của Bàn Khuê Vĩnh Trác), 1940

5-    Tôyôtekina mikata (Cách nh́n của người Đông phương), Kadokawa Sofia Bunko xuất bản, 2017.

6-    Nihon Bukkyô (Phật giáo Nhật Bản), Iwanami Bunko, trong Toàn tập quyển 11, Tokyo 1970.

 

Theo thông tin của nhà nghiên cứu Nakazawa Shin.ichi (NHK Text, 2016) th́ cho đến lúc mất, Suzuki Daisetsu đă viết tất cả khoảng 30 tác phẩm tiếng Anh và 120 đầu sách và bài báo, bài phát biểu bằng tiếng Nhật.

 

     

 

Quan điểm học thuật và các đánh giá:

 

Suzuki Daisetsu trước tiên là một Phật tử nhưng là Phật tử Nhật Bản. Ông được nuôi dạy trong môi trường Tịnh Độ Chân Tông của quê hương, nhất là từ bà mẹ sùng đạo của ḿnh. Thiền là một đam mê khác đến vào thời sinh viên và nó trở thành cánh cửa giúp ông tiếp cận được chủ nghĩa thần bí và các giáo lư Âu châu. Ông nhận ảnh hưởng từ phía đó qua trước tác của Plotinius, Meister Eckhart vv... cũng như sách vở của Hội đoàn Thông Thiên Học mà hai vợ chồng ông đều là những nhà hoạt động nghiêm cẩn.

Ông tập trung truyền bá Thiền có lẽ v́ nhận ra rằng tâm hồn Tây phương dễ thích ứng với Thiền hơn là với Tịnh Độ Chân Tông dù ông có lần dịch một phần tác phẩm của giáo chủ Shinran (Giáo hành tín chứng = Kyôgyô shinshô, 1244) sang Anh ngữ. Ông đă giới thiệu Thiền một cách có hệ thống, nhất là qua chính ngôn ngữ của độc giả Âu Mỹ (tiếng Anh), lại biết móc nối Thiền với triết học (Plotinius, Meister Eckhart, Emerson, Thoreau...) và thơ văn (Eliot, Tennyson, Wordsworth..) Tây phương để củng cố lập luận của ḿnh. Tuy phải nh́n nhận ảnh hưởng có tính quyết định của Phật giáo Đại Thừa đối với Thiền nhưng nét đặc sắc của Suzuki Daisetsu là biết nhấn mạnh vai tṛ quan trọng của Thiên nhiên trong tư duy và cảm xúc của con người sinh ra ở vùng Cực Đông. Đó cũng là lư do tại sao ông đề cao triết lư Đạo giáo của Trung Quốc như yếu tố quan trọng thứ hai đă h́nh thành nên Thiền.

Không phải tự nhiên mà Suzuki Daisetsu đă được học giới Âu Mỹ (như Jung, Heidegger, Fromm, Ginsberg, Watts, Spranger) lẫn Nhật Bản ca ngợi. Người ta xem ông là nhà văn hóa có kiến thức sâu rộng và biết cách giải thích, đồng thời là nhà hành động không ngừng nghỉ đă thành công trong việc truyền bá Thiền sang thế giới phương Tây qua sự nghiệp diễn giảng, dịch thuật và xuất bản. Ông c̣n có công trong việc khôi phục niềm tin cho Phật giáo ở phương Đông bằng cách góp phần cùng với Imakita Kôsen, Shaku Sôen xây dựng nên một trào lưu Phật giáo thích hợp hơn với xă hội hiện đại. Con đường mới đó là bước ra ngoài truyền thống (detraditionalized) của Phật giáo và chỉ giữ lại yếu tính (essentialized) của nó.

Nếu có những lời tán dương th́ cũng có một số tiếng nói phản bác đối với việc làm của ông. Hồ Thích (Hu-Shih) chẳng hạn, cho là ông quá lư tưởng hóa Thiền. Có người xem sự giải thích giáo lư Thiền bằng cách sử dụng ngôn từ của Anh, Đức, Mỹ của ông là kéo Thiền ra khỏi ngữ cảnh xă hội, văn hóa và đạo đức của nó (Mc Mahan). Họ c̣n nghĩ rằng khi ông chủ trương Thiền có những lănh vực vượt khỏi lối giải thích thông thường nhưng chỉ đưa ra được vài thí dụ lẻ tẻ để chứng minh điều đó, phải chăng đă gieo sự hỗn loạn vào đầu óc độc giả ?

Người khác (Brian Victoria) tấn công ông v́ thái độ đồng t́nh với chủ nghĩa quân phiệt hồi chiến tranh qua những bài báo trong Trung Ngoại nhật báo (Chuugai Nippô) giai đoạn 1936. Oan hay ưng, lời cáo buộc này có thể khiến nhiều người đang có cảm t́nh sẽ quay lưng lại với ông. Tuy vậy, phải hiểu là điều đó đă xảy ra trong bối cảnh một thời đại mà các dân tộc da vàng c̣n bị khinh miệt, ông lại sống ở quốc nội dưới một chế độ độc đoán, đang được nhà nước vinh danh và chỉ có cơ hội tiếp nhận toàn thông tin một chiều. Cũng phải kể đến công tội của khuynh hướng Nhật Bản Nhân Luận (Nihonjinron, Japanism) trong học giới vốn đến từ phong trào nghiên cứu quốc học thời Edo và trước đó nữa, cách suy nghĩ xem dân tộc Nhật Bản như một dân tộc thuần chủng, độc đáo và ưu việt trên nhiều phương diện. Khuynh hướng này tuy cổ vũ cho ḷng yêu nước, sĩ khí và ư chí quật cường của người Nhật nhưng mặt khác đă gieo mầm cho sự kỳ thị cũng như sự khinh miệt đối với các dân tộc khác. V́ vậy, thái độ đồng t́nh kia trong một chừng mực nào đó là tấn bi kịch không những cho cá nhân Suzuki Daisetsu mà cho cả những trí thức hàng đầu đương thời từ Takamura Kôtarô (1883-1956, nhà điêu khắc và thi nhân), Nishida Kitarô (1870-1945, triết gia) cho đến Yanagita Kunio (1875-1962, nhà dân tộc học), Origuchi Shinobu (1887-1953, nhà dân tộc học), Kikuchi Kan 1888-1948, nhà văn và kịch tác gia)... Họ là những người không nhiều thời ít đă ủng hộ chính quyền đương thời v́ t́nh cảm dân tộc nhưng một phần v́ chịu ảnh hưởng nghề nghiệp của ḿnh vốn gắn bó với ư thức hệ. Kinh nghiệm đau thương này đă để lại cho họ nhiều dư vị chua chát và một thời gian phản tỉnh lâu dài.

 

Một nhân cách lớn:

 

Nói những điều trên là để cho thật rốt ráo và sau đó không trở lại nữa, cũng để cho thấy là dù hơn 70 năm đă trôi qua mà vết thương hậu chiến kỳ thực vẫn chưa lành. Chính ra, Suzuki Daisetsu là một bậc “quân tử” trong cái nghĩa đẹp nhất của ngôn từ này mà những người quen biết ông đều có thể làm chứng.

Triết gia Nishida Kitarô, người bạn từ ngày ngồi trên ghế trường trung học đă viết trong lời tựa bản Nhật dịch “Thiền và văn hóa Nhật Bản” của Kitagawa Momo.o (1940) như sau:

 

“Anh Suzuki là một con người rời xa thế tục. Anh giống như một vị a-la-hán, nhưng thái độ và hành động vẫn có chỗ tế nhị và đầy t́nh người. Anh có vẻ dửng dưng với mọi sự nhưng thật ra rất trung thực và chu đáo. Có thể anh không muốn trở thành học giả hoặc thấy điều đó không cần thiết nhưng theo tôi, anh là một người học rộng biết nhiều và có năng lực nh́n vấn đề một cách sâu sắc...Tôi có nhiều bè bạn nhưng hiếm ai được như anh”. 

 

Giáo sư và thiền gia Akizuki Ryômin 秋月龍珉 (1921-99), một đệ tử ưu tú, đă phỏng vấn cô Okamura Mihoko, người cộng sự của ông lúc cuối đời và nhờ đó biết được vài chi tiết trong cuộc sống thường nhật của thày ḿnh, nói chung là giản dị, thanh bạch và chăm chỉ:

 

“Tiên sinh mỗi ngày dậy vào lúc 6h30 sáng và đi ngủ lúc nửa đêm hay sau đó. Như vậy mỗi đêm ông chỉ ngủ độ 6 tiếng, kỳ dư dành thời giờ làm việc. Nhiều đêm thức dậy giữa chừng và ngồi vào bàn viết. Bữa sáng chỉ có miếng bánh ḿ, trà đỏ, một quả trứng và sữa. Trưa th́ dùng tí cháo. Buổi tối ăn cơm xoàng, từ khi lớn tuổi, ít đụng đến thịt thà. Không đặc biệt vận động chi nhiều nhưng hay xoa bóp người bằng nước lạnh. Đồ dùng như dao cạo râu, giấy bút bao giờ cũng ǵn giữ sạch sẽ, cẩn thận. Sách cũ th́ thường tẩn mẩn bọc b́a hay đóng lại gáy.”

 

Daisetsu không những dịch sách và viết sách giới thiệu Thiền bằng tiếng Anh mà c̣n sáng tạo ra những công án Thiền cho người Âu Mỹ. Ví dụ:

 

Lúc tạo thiên lập địa, khi Đức Chúa Trời phán: “Hăy có ánh sáng!” bèn có ánh sáng, chia được đêm và ngày”.Thế th́ “ai” là người đă chứng kiến được điều đó để kể lại?

 

Đấng Christ phán: Trước khi Abraham xuất hiện th́ đă có Ta. Vậy Ta này là ai?

 

Cũng nhờ ông, những từ ngữ hiểm hóc trong triết học và Phật giáo đă được sử dụng một cách khá trôi chảy bằng tiếng Anh, ví dụ Cosmic Unconscious diễn tả “Vô thức vũ trụ” trong siêu h́nh học để phân biệt với “Vô thức” trong tâm lư học. Khái niệm “Như” (Tathatâ) được dịch thành Isness hay As-it-it ness, “Như nó là” thành Suchness. Tức tâm 即心 (Sokushin) được diễn tả bằng The very mind. Cụm từ ”Tức tâm tức Phật” 即心即仏dịch bằng “The mind in its isness, or as it is, is Buddha”. Có thể ông không phải là người sáng tạo ra chúng nhưng đă có công phổ biến.

 

Cơ duyên của việc truyền bá Thiền sang Âu Mỹ:

 

Nishida cũng viết về người bạn thiết của ḿnh trong lời tựa cho quyển sách nói trên:

 

“Tôi không chắc anh ấy có nhớ hay không nhưng từ ngày c̣n trẻ anh đă nghĩ rằng Phật giáo cần phải được truyền bá khắp thế giới. Nay th́ điều đó đă trở thành sự thực. ...Sau khi nhận lời mời của Paul Carus và đến Mỹ, hết dịch kinh điển nhà Phật sang tiếng Anh, anh lại nghiên cứu và nghị luận về Thiền, cho đến nay ở cái tuổi cổ hy (70 ở thời điểm 1940) mà mà vẫn chưa ngơi nghỉ. Qua những trước tác, không riêng ǵ ở Nhật Bản, anh được biết đến khắp năm châu như một học giả Phật học”.

 

Như thế, từ những ngày theo học Đại học Tokyo và làm khách vân thủy ở Engakuji (Viên Giác Tự), Suzuki đă nuôi mộng truyền bá Phật giáo sang Âu Mỹ. Nhưng nếu chỉ có ước mơ một chiều th́ chưa chắc ông đă làm nên chuyện. Chính ra, lúc đó, ở Âu Mỹ cũng có sẵn một cơ duyên tốt đẹp. Thực vậy, một số học giả Mỹ có ḷng đang mong đợi được hợp tác với người như ông. Lư do là dân Mỹ phần lớn theo đạo Tin Lành (Thệ Phản), một tôn giáo đến từ châu Âu, sở dĩ ra đời là để thoát ra khỏi ràng buộc của Ki-Tô giáo. Họ nhận thấy trên thế giới, tuy có nhiều tôn giáo nhưng không tôn giáo nào có thể giúp họ t́m về bản chất của ḷng tin. Họ muốn đi t́m một tôn giáo vượt lên trên mọi tôn giáo (religion beyond religion) hay nói một cách cực đoan hơn là một tôn giáo vô tôn giáo (religion without religions). Do đó nhiều đoàn thể tôn giáo đă họp nhau ở Chicago và các nơi khác để mong t́m ra những điểm chung. Xă hội Mỹ là một xă hội di dân nên sự tiếp thu những luồng tư tưởng khác nhau rất dễ dàng. Những người da trắng đầu tiên chẳng hạn, từng tiếp thu tiếng nói bộ lạc Iroquois bản địa vào trong ngôn ngữ của ḿnh. Khi biết được Thiền tông là một bộ phận của Phật giáo có tinh thần phóng khoáng và tự chủ như vậy, người Mỹ thấy nó phù hợp với ḿnh ngay. Không cần chùa chiền hay giáo hội, không cần chế độ hay truyền thống, con người như “một tồn tại chân thực không ngôi vị đứng bên trên đống thịt đỏ hỏn” (xích nhục đoàn thượng nhất vô vị chân nhân, chữ trong Lâm Tế Lục) có thể tự t́m thấy chân tâm của ḿnh qua trầm tư hay tọa thiền. Công việc truyền bá Phật giáo của Daisetsu như thế đă gặp được một mảnh đất lành.

Cùng lúc đó, ở Nhật, Phật giáo truyền thống (Đại thừa) v́ nhiều lư do đang đến lúc suy vi, cần được cải cách cũng như t́m về nguồn cội của nó. Đó là thời kỳ Đức Thích Ca vừa nhập diệt (giai đoạn mà Tiểu thừa, bộ phái vốn đặt trọng tâm vào sự giác ngộ của cá nhân, đang thịnh hành). Muốn trở về nguồn, Phật giáo đồ thấy cần phải nghiên cứu các tạng kinh cổ viết bằng Pali hay Sanskrit hay làm như Kawaguchi Ekai 川口慧海 (5) nghĩa là sang tận Tây Tạng t́m những Phật điển và dịch sang tiếng Nhật. Thời gian này, lớp người du học Âu Mỹ về đến Nhật cũng đă mang theo khuynh hướng thiên trọng Tiểu thừa trong nghiên cứu Phật giáo và điều này vốn bắt rễ từ tinh thần thuần lư Âu châu. Chẳng hạn, người bạn chí thân của Daisetsu là triết gia Nishida Kitarô – con chim đầu đàn của học phái Kyôto - đă dành cả đời ḿnh t́m cách dung hợp triết học Đức với những khái niệm Phật giáo Nhật Bản. Nh́n chung, khuynh hướng này ăn khớp với lối nghiên cứu tự do, phóng khoáng của Daisetsu, người luôn luôn giữ một khoảng cách với truyền thống hàn lâm (academy).

 

Đánh thức cái tinh hồn (tinh linh):

 

Vào cuối chiến tranh, dự đoán được Nhật Bản sẽ bại trận và với mối ưu tư gầy dựng lại một di sản tinh thần cho đồng bào ḿnh, Daisetsu đă viết “Tinh hồn của người Nhật” (Nihon no seirei,日本の精霊 1944), đưa ra khái niệm “tinh hồn” (seirei, tinh linh, 精霊, spirituality) và kêu gọi đồng bào ḿnh thức tỉnh (giác tỉnh = 覚醒kakusei) để t́m lại nó. Ông xem đó là một tinh thần Nhật Bản lan rộng từ lâu trong quần chúng b́nh dân và đă bắt đầu vào thời Kamakura dưới ảnh hưởng của Thiền tông cũng như các tông phái thuộc hệ Tịnh độ. Theo Suzuki Daisetsu, tinh hồn không phải là tinh thần v́ nó không đối lập với vật chất mà giống như một khoảng trống giữa không gian, một cấu tạo mang 3 đặc tính là “đại địa tính”, “ mạc vọng tưởng” và “vô phân biệt trí”.  Đại địa tính 大地性 (daichisei) là giữ được sự b́nh thản trong sinh hoạt hằng ngày, mạc vọng tưởng 莫妄想 (makumôsô) là chấp nhận sự vật như nó là, không chạy theo ảo tưởng, c̣n vô phân biệt trí 無分別智 (mufunbetsuchi) cũng gọi là trực giác trí (trực quan trí直観智, chokukanchi) là lối suy nghĩ không phân biệt tả hữu, trên dưới, núi sông..., không đẻ ra nhị nguyên luận, đầu mối của tương phản, tương khắc, xung đột hay tương sát. Theo ông, không chỉ người Nhật mới có cái tinh hồn ấy v́ nó vốn tiềm tàng dưới nhiều dạng thức khác nhau nơi tất cả mọi giống ṇi.

Trong phần cuối của “Tinh hồn của người Nhật”, Daisetsu đă đưa ra h́nh tượng lư tưởng mà ông gọi là “diệu hảo nhân” 妙好人(myôkônin), h́nh ảnh thấy nơi một con người tuy không nhiều học vấn nhưng có đạo tâm Tịnh Độ Chân Tông như nhân vật Asahara Saiichi (1850-1932). Ông này trước làm thợ mộc cho một hăng đóng tàu, sau lui về đẽo guốc gỗ (geta) ở thị trấn Obama thuộc tỉnh Shimane. Ông hay làm thơ và chép lại bên dưới những chiếc guốc. Từng nói:

 

“Tôi không muốn thành Phật A Di Đà nhưng mong A Di Đà sẽ trở thành tôi. Tôi không hướng về Phật A Di Đà để niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhưng chính Phật A Di Đà đă thông qua tôi để nói với tôi điều đó và tôi luôn luôn cảm thấy Phật A Di Đà hiện ra trong tôi mỗi khi tôi ăn, tôi ngủ, đi đứng. Cho nên lúc niệm Nam Mô A Di Đà Phật là lúc tôi cảm thấy hạnh phúc nhất”.

 

Người bạn, người thày:

 

Trên 70 năm trời hoạt động, Suzuki là người bạn, người thày bên cạnh những ai đi t́m hạnh phúc tâm linh qua các trước tác của ông. Liệu ông có thành công và thành công đến mức nào? Có mấy ai sẽ trở thành những “diệu hảo nhân” như Asahara Saiichi trong một thế giới mà sự phân hóa đă đi đến cực độ. Làm sao đánh thức được cái tinh hồn của ḿnh trong một hoàn cảnh tương tự? Tuy ước vọng của Suzuki Daisetsu dành cho thế giới đẹp đẽ như thế nhưng thử hỏi những bài học về Thiền mà ông bao năm cặm cụi viết ra sẽ dẫn dắt chúng ta đến kết quả nào đây? Dù sao, ta thấy riêng cá nhân ông, Suzuki Daisetsu đă tỏ ra không quá lạc quan về viễn tượng tương lai khi có lần trích lời Soren Kierkegaard: “Triết gia là người xây dựng nên một lâu đài tráng lệ cho mọi người nh́n ngắm nhưng không vào đó ở và chỉ sống trong căn nhà kho bên cạnh”.

 

Nguyễn Nam Trân

 

 

Chú thích:

 

1)     Watanabe Makoto, Zen to Bushido, Thiền và Vũ Sĩ Đạo, Besuto Shinsho, Tokyo, 2007(trang 13).

2)     Imakita Kôsen (1816-92), thiền tăng tông Lâm Tế. Trước học chữ Hán và đạo Nho, sau mở tư thục. Năm 25 tuổi đă xuất gia, trụ tŕ Engakuji (Viên Giác Tự). Trước tác có Zenkai Ichijun (Thiền hải nhất nhuận).

3)     Shaku Sôen (1859-1919), tăng Lâm Tế. Xuất gia từ nhỏ, có thời theo học Fukuzawa Yukichi ở Đại học Keiô. Nối nghiệp Kitaima Kôsen, quản lư hai chùa Engakuji và Kenchôji. Đă ban tặng đạo hiệu Đại Chuyết cho Suzuki. Là người đầu tiên giới thiệu Thiền trên đất Mỹ (Chicago, 1893).

4)     Nishida Kitarô (1870-1945) triết gia. Bạn học của Daisetsu từ ngày trên ghế trường trung học. Cũng tham thiền ở Engakuji và có đạo hiệu là Sunshin (Thốn Tâm). Dung hợp triết học cận đại Tây phương (Đức) với triết học truyền thống Nhật Bản để đặt cơ sở cho triết học của ḿnh. Tác phẩm có “Bàn về điều Thiện”, “Những vấn đề cơ bản của triết học”. Là một trong những người đứng đầu Học phái Kyoto tức là nơi qui tụ các triết gia xuất thân Đại học Kyôto.

5)     Kawaguchi Ekai (1866-1945) học giả Phật giáo tu theo tông Hoàng Bá. Sau cởi áo tăng  và phiêu lưu sang Tây Tạng, nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo vùng đó. Đă viết “Tây vực lữ hành kư”