V́ lợi ích của người đọc,
xin tôn trọng nguyên bản và bản quyền của tác giả.
Trân trọng cảm ơn. – Nguyễn Trung.
Bản chính thức
Phần hai
Kẻ thất bại toàn diện
I.Trong tôi có nhiều anh Sáu
…Bước chân về Văn pḥng Chính phủ, từ đây tôi bước vào cuộc chiến trên mọi lĩnh vực có thể trong đời ḿnh, do đó gặt hái được thất bại toàn diện. Kẻ chiến bại này tên là Nguyễn Trung.
Nhiệm vụ tôi nhận đầu tiên ở cơ quan mới là Tổng thư kư Hội đồng kinh tế đối ngoại, do Phó Thủ tướng Phan Văn Khải làm chủ tịch, bộ trưởng ngoại giao và một số bộ trưởng kinh tế là thành viên.
Tôi không rơ việc thành lập một Hội đồng như thế là sáng kiến của từ đâu, song thời kỳ này một số nước có tổ chức này, rất cần thiết cho phát triển kinh tế đối ngoại của họ, hoạt động có hiệu quả. Tôi dựa vào kinh nghiệm của những nước này lo toan công việc của ḿnh.
Song Hội đồng này chỉ tồn tại được một năm, và chỉ có 2 phiên họp: Một để thành lập và ra mắt Hội đồng và thông qua chương tŕnh làm việc, một để kiểm điểm t́nh h́nh công tác cuối năm và quyết định giải thể, v́ không phù hợp với hệ thống.
Sau đó tôi được giao nhiệm vụ làm trợ lư Thủ tướng Vơ Văn Kiệt.
Tôi nhận lời, với một vài đề nghị khoanh việc lại cho tôi, để có điều kiện tập trung vào nhiệm vụ trợ lư, mọi việc khác nên phát huy tối đa vai tṛ của tổ thư kư sẵn có của Thủ tướng. Tôi cũng đề nghị được hoàn toàn tự do trong nhận định, đề đạt ư kiến và kiến nghị, c̣n bỏ đi hay xử dụng và quyết định như thế nào… xin tùy Thủ tướng. Mọi việc như thế rơ ràng ngay từ đầu, tôi luôn luôn có thể nói thẳng suy nghĩ của ḿnh, không phải e dè, công việc của tôi dễ dàng.
Anh em bao tôi phạm thượng, dám mặc cả với thủ tướng!
Tôi thanh minh bằng câu nói mẹ tôi vẫn thường dạy tôi: “Mất ḷng trước hơn được ḷng sau!”
Song quan trọng nhất tôi thấy anh Kiệt là người cởi mở, rất dễ gần, tôi c̣n muốn nói là rất hấp dẫn hay là lôi cuốn nữa! Nhiều chuyện rất tế nhị phải đề cập đến trong công tác, song nói ra với anh thật dễ, v́ anh có cách lắng nghe chân thật, cởi mở, đặt ra nhiều câu hỏi, không ít những câu hỏi khiến tôi giật ḿnh v́ sự từng trải của người hỏi. Tôi thực sự có được một không khí làm việc khuyến khích ḿnh làm việc.
Nhân vô thập toàn…
Hiểu như vậy, cho bản thân tôi cũng như cho các đối tác của ḿnh, xưa nay tôi vẫn chọn cách sống bỏ hay vượt qua những ǵ là “vô toàn”, để tập trung hướng vào cái tốt, cái thiện. Nhận nhiệm vụ về giúp anh Kiệt, tôi cũng xử sự như vậy. Người bao giờ cũng là người, chỉ có tốt, tốt hơn, tốt nhất.., hoặc xấu, xấu hơn, xấu nhất… Tốt và xấu trong nhau, tan ḥa vào nhau, giành ngôi nhau, biến động, thay đổi… Không bao giờ có người là thánh! Dù là có các hiền triết…
Tôi nghĩ măi, t́m măi, h́nh như trong tôi không có khái niệm lănh tụ hay thần tượng. Nghĩa là tôi thích sống theo cách tôi muốn hay yêu thích, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về ḿnh và mọi sự lựa chọn của ḿnh – kể cả lựa chọn điều tôi tôn vinh, không thích có sợi dây nào vô h́nh hoặc hữu h́nh chăn dắt ḿnh cả.
Tôi thú nhận: sống, yêu, và ghét như vậy (chính trị là bẩn thỉu), nên không bao giờ tôi có thể làm chính trị… - nghĩa là tôi hoàn toàn không có tài chinh phục môn nghệ thuật này (Chính trị là nghệ thuật biến cái không thể thành có thể!) Cả đời chưa hề thử lấy một lần, v́ tôi luôn luôn dị ứng với nó!
Vốn là sống như thế, nên tôi thấy ḿnh dễ làm việc với anh Kiệt.
Nhận xét đầu tiên của tôi, có lẽ anh Kiệt là vị thủ tướng Việt Nam có nhiều nhất thủ tướng các nước khác coi là bạn, có nhiều nhân vật ở nhiều nước mến mộ, trong đó có Lư Quang Diệu, Helmut Kohl, Chatichai.., nhiều chính khách và những nhân vật có tên tuổi khác.
Tôi hâm mộ những chính khách có cá tính, như tôi đă nói về anh Nguyễn Cơ Thạch. Anh Vơ Văn Kiệt cũng là một chính khách như thế. Đấy là hai nhân cách tôi được sống gần gũi trên đời này ở nước ḿnh – một quà tặng hiếm có cho tôi trên đời!..
Trong con mắt tôi, điều tôi quư mến nhất ở anh Kiệt là tính người!
Đấy không phải chỉ là ḷng nhân hậu, tính vị tha, sự rộng lượng… mà đi xa hơn thế nhiều: Đó là sự hiểu được, thông cảm được sâu sắc tất cả những ǵ liên quan đến thân phận con người – và anh Kiệt thật sự là người yêu cái đẹp của cuộc sống. Người lănh đạo có tầm nh́n thấu đáo và xả thân v́ nước, cùng với những phẩm chất riêng rất cá tính này khiến cho vị Thủ tướng «anh Sáu», «chú Sáu», «ông Sáu»… với dân là một.
Tôi thật không khỏi ngạc nhiên, theo Thủ tướng đến bất kỳ đến địa phương nào trong Nam, tôi cũng thấy Thủ tướng có nhiều bạn bè cũ tới thăm hỏi, những bà con thân thuộc cũ kể lại biết bao nhiêu chuyện ngày trước - cứ như thể Thủ tướng là người của chính địa phương họ vậy... Hầu như không thấy dân địa phương nói «thưa Thủ tướng…», mà chỉ thấy «thưa Anh Sáu… », «thưa Chú Sáu… » kể cả trong các cuộc họp. Thủ tướng gắn bó với họ tới mức gần như nhớ hết tên gọi theo thứ bậc gia đ́nh của mọi người, trong nói chuyện chỉ gọi tên riêng của họ khi ai đó trong số họ có thứ bậc trùng nhau… Bữa cơm đến, chủ nhà mời Thủ tướng những món ăn dân dă của địa phương đă chia sẻ cùng nhau thuở trước...
Ở những thành phố khác nhỏ hơn đă đành, song ở ngay Thành phố Hồ Chí Minh bao la và lúc nào cũng sôi động, sao tôi thấy Thủ tướng có nhiều bạn thế – «bạn» với đúng nghĩa – trong giới trí thức, nhà báo, các danh nhân văn nghệ sỹ, các nhà kinh doanh, trong giới thể thao, những cán bộ đương chức… Họ thường quần tụ chung quanh Thủ tướng ngay trên sân quần vợt trong những lúc giải lao, giờ nghỉ duy nhất của Thủ tướng trong ngày làm việc. Có lúc có những đề tài quan trọng được bàn ngay trên sân bóng như thế, rất dân dă và cởi mở, một mối gắn bó thực sự (tôi không muốn dùng từ b́nh dân v́ nó không lột được hết tinh thần sự việc), những cuộc đàm đạo hay thậm chí là bàn công việc, thường được Thủ tướng chấp thuận từ trước, xắp xếp trước…
Nói đến trí thức trong Thành phố nhiệt t́nh góp ư kiến với Thủ tướng trên mọi lĩnh vực không thể không kể ra ở đây «nhóm Thứ Sáu», do anh Phan Chánh Dưỡng là trưởng nhóm – lại thêm một ví dụ sinh động nữa của Thủ tướng về sự gắn bó với giới trí thức...
Tôi thực sự muốn nói: Không ít những quyết định và bước đi táo bạo mang tính «phá rào» trong kinh tế của anh Sáu Dân để cứu TPHCM khỏi những quẫn bách trong thời kỳ khó khăn ngay sau 30-04-1975, và những thập kỷ sau này là trong không ít những quyết định quan trọng của Thủ tướng trong một số lĩnh vực khác nhau, gắn liền với tâm huyết và sự cống hiến trí tuệ của nhiều trí thức cả nước - sống ở trong nước hay ở nước ngoài, một số người đă từng giữ chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa.
H́nh như trong suy nghĩ và trong những khát vọng v́ đất nước, anh Sáu và họ là một. Chất người trong Anh Sáu thể hiện rơ nét nhất ở điểm này, tôi dám nói như vậy.
Thật Khó mà h́nh dung một ông cộng sản gộc, cộng sản từ cái ngày chỉ có mỗi cái quần xà-lỏn đến lúc làm nên đến tể tướng của quốc gia hôm nay (chúng tôi vẫn nói về anh Kiệt nư thế!), và những con người trong cuộc sống muôn vẻ của đất nước – từ những nông dân đến những trí thức như thế, từ những chị ba Thi, những chị Tư Minh, đến những nhân vật Phùng Há, Điềm Phùng Thị.., đến Trần Ngọc Sương (Nông trường Sông Hậu), Kim Hạnh, Năm Triều, Thế Thanh, Út Thảo.., từ những Nguyễn Văn Thinh, đến những Nguyễn Xuân Oánh.., đến những Ngô Công Đức, những Trần Trọng Thức.., những Vũ Quang Việt, Ngô Vĩnh Long.., những Đặng Phong (đă mất), Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh.., những nhà kinh doanh thành đạt Đặng Lê Nguyên Vũ, Nguyễn Trần Bạt.., những công dân b́nh thường.., đến những Nguyễn Duy, những nghệ nhân.., đến những Huỳnh Sơn Phước, Nguyễn Anh Tuấn.., nhiều nhà báo trẻ có tên tuổi, những công nhân xây dựng đường dây 500KV.., .., .., không thể kể hết được… Song trong t́nh cảm, tất cả có thể đều ḥa với nhau làm một, v́ nhau, cùng trong tấm ḷng yêu nước, cùng nhau và giúp nhau đă làm nhiều việc tốt đẹp cho đời và cho đất nước…
Xin đặc biệt lưu ư tại đây: Riêng tôi ngẫm nghĩ rất nhiều về những ư kiến đúng đắn và những mối thiện cảm của một số chính khách có tên tuổi và nhiều quan chức cao cấp trong chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa dành cho thủ tướng Vơ Văn Kiệt trong những buổi họ về thăm đất nước và gặp thủ tướng… Tôi trạnh nhớ đến những đánh giá trân trọng của thủ tướng nói trực tiếp với chúng tôi dành cho tướng Dương Văn Minh khi vị tướng này phải đối mặt với giờ phút định mệnh… và Sài G̣n c̣n nguyên vẹn khi chiến tranh kết thúc!.. Phải chăng: Bất kể, muốn ǵ th́ ǵ!.. Mầm mống của ḥa hợp dân tộc không một giây phút nào ngừng trỗi dậy trong ḷng dân tộc!?..
Xin nói thật, không phải cái chức thủ tướng hay là ủy viên Bộ chính trị, mà là cái chất giàu t́nh người của Vơ Văn Kiệt khiến tôi yêu mến con người này – với tất cả những mặt được và chưa được của con người này, yêu mến đến mức dám cả quyết cái chất người này mới là nguyên tố quyết định làm nên con người này!
Về tất cả những ai có mối liên quan nào đó với thủ tướng Vơ Văn Kiệt, nói về họ - tôi dám tóm tắt trong một câu: Họ thích anh Sáu, họ yêu anh Sáu!
Nhân đây xin kể một giai thoại tôi nhớ đời:
Trong một buổi gặp nhau cuối năm giáp Tết, đă thành lệ một số năm sau khi đường dây 500 KV hoàn thành, giữa lúc liên hoan chúc mừng lẫn nhau nhân dịp đoàn tụ của hàng trăm con người từ Bắc đến Nam bao nhiêu năm ṛng cùng nhau cheo leo với đường dây này xuyên núi rừng, anh Sáu Thủ tướng được mời lên phát biểu.
Trong tay ly rượu trước micro, Anh Sáu nói mấy ư thôi:
- Xin chúc tất cả sức khỏe và hạnh phúc, xin tưởng nhớ đến những người đă ngă xuống trên đường dây này. Nhất là xin tất cả chúng ta hết ḷng chăm lo chu đáo các cháu thiếu nhi của chúng ta đă ra đời trong quá tŕnh xây dựng đường dây này!..
Hết. Anh Sáu chỉ nói có thế. Pháo tay nổ ran, nhưng tim tôi như đứng lại v́ xúc động.. – Thật là một nhân cách lớn!
…Phải, không chỉ những con người làm nên đường dây này gắn bó với công tŕnh này! Sự gắn bó này c̣n ôm vào ḷng nó những em bé của t́nh yêu – ra đời và sống với quá tŕnh h́nh thành đường dây… V́ là của t́nh yêu, những em bé này không cần quan tâm đến những chuyện đúng và sai, không “care” đến việc trong hoặc ngoài giá thú… Đường dây này cùng ra đời với các em! Đường dây này là của các em!.. - …đứng nghe anh Sáu nói, trong tôi miên man bao nhiêu suy nghĩ như thế! Phải chăng t́nh yêu như một phép lạ làm nên tất cả?!..
…
…Có thể nói trong lịch sử của Chính phủ, anh Sáu Dân là vị thủ tướng quan tâm và thành công nhất đến nay trong việc phát huy tốt nhất sự cống hiến của giới trí thức, và cũng là một Thủ tướng giàu t́nh người... Từ đó tôi hiểu v́ sao Thủ tướng có tầm trí thức kỳ lạ, hiểu và có cái nh́n rất sát, rất sâu sắc những vấn đề của đất nước, của con người và cuộc sống: Ông đứng trên vai những trí thức hào phóng trí tuệ với ông, và sống bằng sự thân thương của mọi người dành cho ông! Tôi không thể nói khác được!
Hơn nữa, nếu như những anh em chúng tôi đau một về những nỗi niềm của đất nước, có thể nói anh Kiệt đau mười. Không chỉ v́ cương vị và trách nhiệm của anh, mà c̣n v́ những ư kiến chân thật của các chính khách nước ngoài – cả Âu lẫn Á - chia sẻ với anh Sáu về những vấn đề của nước ta trong những buổi nói chuyện với nhau bên ngoài những nội dung tiếp xúc chính thức – người nói nhiều vấn đề sâu sắc đến tê tái ḷng chúng ta – theo tôi - có lẽ là thủ tướng Lư Quang Diệu… Chính vị thủ tướng này hồi ấy muốn Việt Nam phải sớm trở thành một con hổ của châu Á mà địa kinh tế và địa chính trị đ̣i hỏi – ông ta nghĩ đến mối nguy Trung Quốc… Ông Lư nhấn mạnh: Nếu có một quốc gia nào dẫn đầu Đông Nam Á, đó sẽ phải là Việt Nam!.. Tiếc thay, nhiều năm sau, chính ông Lư Quang Diệu thất vọng, nói công khai với báo chí: Việt Nam không chịu phát tiển!.. Chẳng lẽ chúng ta không ư thức được sự thất vọng này?..
Riêng thủ tướng Chatichai có một câu nói thật ḷng, nghe mà điếng người: «May mắn hơn Việt Nam, cho đến nay Thái Lan không phải chịu một cuộc chiến tranh nào cả!»…
…Thực sự họ và anh Sáu rất dễ nói chuyện với nhau… Song.., trong những buổi giao tiếp như vậy, tôi không sao quên được một cuộc gặp bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Bangkok giữa thủ tướng nước ta và thủ tướng Lư Bằng. Vị thủ tướng nước lớn này để anh Sáu chờ đến 15 phút – trịch thượng, cho lễ tân xin lỗi v́ bận, nội dung câu chuyện cứ như là gỗ nói với gỗ, v́ thái độ của Lư Bằng rất cứng… Hồi đó giữa ta và Trung Quốc trên diễn đàn ASEAN có những điều trái khoeo nhau – thực ra có lúc nào Trung Quốc hết tréo ngoe với ta!?..
Bạn sẽ là người hay là đất, nếu ở cương vị thủ tướng bạn được nghe những tiếng nói mọi chiều cạnh cắt gan xói ruột như vậy về đất nước ḿnh từ miệng các đồng nhiệm những nước bạn bè?
Không thể nói khác, thủ tướng Vơ Văn Kiệt có một trường đời tôi nghĩ khó ai có được như thế để so sánh… Nguyên nhân quyết định để có một trường đời như thế là ư chí học hỏi không ngừng, sự chân thật rất dung dị, tự nhiên!.. Trong đó tôi rất phục trí nhớ của Thủ tướng… (Một người khác có trí nhớ kỳ lạ như vậy tôi biết là anh Việt Phương – tôi tặng anh Việt Phương biệt danh «một encyclopédie sống»).
Xin nói thêm, anh Kiệt là một nghệ sỹ chụp ảnh, nhưng không bao giờ coi ḿnh là nghệ sỹ. Tâm hồn nghệ sỹ này chỉ phản ánh yêu cái đẹp của Vơ Văn Kiệt mà thôi. Phẩm chất này rơ nét hơn ở Vơ Văn Kiệt có lẽ là trong yêu cái thiện, yêu cái dám sống, yêu những phẩm chất của con người, trong yêu tự nhiên và trong t́nh yêu… Tôi vẫn thường nói với đồng nghiệp của ḿnh: Chúng ta có một thủ tướng giầu t́nh người! Tôi thích làm việc với con người này v́ những lẽ như vậy.
Tôi không biết nhiều, và thực ḷng cũng không muốn nói nhiều về những điều lo âu của Thủ tướng. Có thể nói là nhiều lắm! Khi nào anh Sáu tự thổ lộ với chúng tôi điều ǵ, chúng tôi hiểu lúc ấy cũng là bức bách lắm rồi. Lúc nào không thể làm ǵ khác được nữa, anh Sáu thường kể lại với chúng tôi với câu kết luận: “…Nói mà không nghe th́ để cho cuộc sống nó dậy vậy!..” Chúng tôi hiểu như thế là có chuyện lớn không ổn! Có những việc không thể làm ǵ khác được nữa, anh Sáu thường tŕ hoăn lâu nhất có thể, có khi là vài năm! Những giờ phút căng thẳng như thế không phải là hiếm, can trường như anh Sáu cũng không thể giấu được chúng tôi... Làm việc gần anh Sáu, dần dà tôi nhận thấy anh Sáu có một tác phong làm việc và cả một mạng lưới các thông tin, các luồng phản biện, giới trí thức tin cậy trong mọi lĩnh vực.., để anh Sáu lựa chọn, nhận định và quyết định. Tôi không rơ các ủy viên Bộ Chính trị khác có tác phong làm việc như thế nào.
Nổi bật nhất là anh Sáu thường dành nhiều thời giờ cho cách làm việc trực tiếp với những vấn đề phải giải quyết và với những con người tại chỗ của những vấn đề.
- Ví dụ thành công điển h́nh của cách làm việc này là dường dây 500kv; từ chuyên gia cho đến lănh đạo ư kiến phản biện ngược nhau đến 180 độ, song anh Sáu quyết được và làm được. Anh bảo vệ đến cùng quan điểm chiến lược: Phải sớm có trong thời gian ngắn nhất mạng lưới điện quốc gia v́ vấn đề phát triển và an ninh. Hôm nay có thể kết luận: Sự lựa chọn mục tiêu chiến lược như vậy là chính xác, và đă t́m được các phương án kỹ thuật tối ưu để thực hiện.
- Ví dụ không thành công là vấn đề lớn hơn rất nhiều: Vấn đề giáo dục của nước ta! Có thể nói anh Sáu đă “đánh vật” với các Bộ và các cơ quan / nhân vật hữu quan, không t́m được kiến nghị nào thuyết phục. Anh Sáu quyết định gặp trực tiếp khá nhiều trí thức có uy tín trong lĩnh vực này – trong đó có các anh Hoàng Tụy, Phan Đ́nh Diệu, Nguyễn Xuân Hăn, vân vân... Anh Sáu đồng t́nh với họ, kết luận: Vấn đề vô cùng hệ trọng đối với quốc gia, nó là thay đổi cuộc sống và con đường phát triển của quốc gia! Toàn thể Bộ Chính trị phải nghe trực tiếp và vào cuộc mới giải quyết được… Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ của ḿnh – theo ư kiến riêng tôi – anh Sáu thất bại trong việc yêu cầu toàn thể Bộ Chính phải vào cuộc trên mặt trận này! – Một thất bại lớn quá, và tôi vô cùng nuối tiếc!..
Sự việc trên đây về vấn đề giáo dục là một trong những ví dụ cụ thể của lỗi của hệ thống chính trị, tôi đánh giá như vậy trên hai phương diện: (a)vấn đề tập trung dân chủ có thể cản trở những quyết định phải làm, và (b)không công khai minh bạch và không có trách nhiệm giải tŕnh trước đất nước.
Song trong thâm tâm tôi c̣n một điều đau hớn hơn: Chẳng lẽ Bộ Chính trị này không đủ sức tiếp cận một đại vấn đề của quốc gia như vậy? Phải chăng v́ thế đă để cho nền giáo dục nước nhà bệnh hoạn như hôm nay? Một sự thật khác: Một chế độ toàn trị không thế hứa hẹn một nền giáo dục lành mạnh! Quả là vô cùng phũ phàng!..
Trong thâm tâm tôi thừa nhận có những việc anh Sáu không thể lay chuyển được Bộ Chính trị!
Chính những vấn đề nóng bỏng hàng ngày như vậy đă dồn nén, tạo ra áp lực dẫn tới bức thư 09-08-1995 (sẽ nói dưới đây).
Một số người nói với tôi, họ rất trách anh Sáu không quan tâm đến hay là không thành công trong việc chuẩn bị đội ngũ kế cận. Nên hệ quả là cứ mỗi khóa đại hội đảng phẩm chất cán bộ lại thấp đi một bước, và chẳng thấy được nhân vật nào có thể đem ra so sánh!.. Những ư kiến này cho rằng anh Sáu cũng như bao nhiêu người lănh đạo khác của đảng phải chịu trách nhiệm về thực tế này.
Tôi cho rằng đấy là những nhận xét khách quan, tôi tán thành. Chỉ xin nói thêm: Đảng có cả một hệ thống ngày càng tinh vi – bao gồm cả những “luật, lệ không thành văn” cho đào tạo, xây dựng và chuẩn bị đội ngũ kế cận. Vận hành hệ thống này như thế nào, lại là do tương quan các lực lượng quyền lực khác nhau quyết định… Hệ thống nào th́ sản phẩm nấy!..
Cá nhân tôi cũng cho rằng với các nhân vật như Nguyễn Cơ Thạch, Vơ Nguyên Giáp và Vơ Văn Kiệt là những người cuối cùng đă ra đi của một thế hệ lănh đạo đă làm nên lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam nói chung và của Đảng Cộng Sản Việt Nam nói riêng. Thế hệ lănh đạo hôm nay cần nh́n vào thực tế hẫng hụt rất lớn này của chính ḿnh, và cần nh́n thẳng vào những đ̣i hỏi và thách thức đất nước đang đặt ra cho họ trong bối cảnh cục diện quốc tế mới hiện nay: Đảng hôm nay không c̣n là đảng hôm qua nữa!
H́nh như bi kịch muôn đời của lịch sử là chẳng có triều đại nào vào thời suy mạt có thể ư thức được thực trạng đang xảy ra của chính nó; thường là nó chỉ có phản ứng tất yếu là giăy giụa để kéo dài sự tồn tại của nó, qua đó đẩy mọi mâu thuẫn trong xă hội lên đỉnh điểm. Trí tuệ của đất nước cần nh́n ra sự vận động này của sự vật để định hướng cho ḿnh.
…
Được sống gần gũi và giúp anh Vơ Văn Kiệt với nhiệm vụ tôi được giao thực sự là một niềm hạnh phúc của tôi – và đây cũng là quăng đời tôi thực sự được thử sức ḿnh, để biết ḿnh đă thất bại toàn diện.
Ngồi trong vườn nhà anh, có những lần tôi vừa trêu vừa tâm sự với anh:
- Anh Kiệt ạ, trong con mắt tôi, anh là một Anh Hai (nói theo tiếng Nam Bộ) tôi quư mến. Tôi thích Anh Hai Vơ Văn Kiệt hơn là thủ tướng Vơ Văn Kiệt.
- …
- …
Thực ra, ngoài những việc như tham gia một số sự kiện quốc tế và khu vực, một số chuyến thăm chính thức nước ngoài của Thủ tướng, góp ư vào một số chủ trương chính sách đang phải xử lư hàng ngày – phần lớn là trong phạm vi kinh tế đối ngoại, xử lư một số vụ việc cũ tồn tại đă lâu, thúc đẩy vấn đề «xóa chủ quản».., tôi hầu như chưa giúp Thủ tướng được việc ǵ đáng kể trong nhiệm vụ trợ lư. Tôi muốn nói tôi «lăi» nhiều hơn, với nghĩa được đi theo anh Kiệt khắp mọi nơi, biết và học thêm được rất nhiều thứ, nhưng giúp Thủ tướng chưa được bao nhiêu.
Việc lớn nhất tôi hăm hở bắt tay vào là bức thư ngày 09-08-1995 của Thủ tướng gửi Bộ Chính trị.
Đấy là kết quả cả một quá tŕnh trăn trở của anh Kiệt, nhất là sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII họp từ 20-25 / 01-1994, mở ra thời kỳ siết lại kể từ sau đổi mới 1986. Từ đây đất nước đi vào cuộc khủng hoảng toàn diện cho đến hôm nay chưa có lối ra.
Anh Kiệt kết luận: Cứ loay hoay chữa cháy và phá rào từng việc măi như đang làm trong đánh vật với mọi vấn đề đất nước phải đối mặt, sẽ chỉ loay hoay tiếp mà thôi, ngày càng rối!
Anh đặt vấn đề với tôi: Nghĩ đi, xem có cách nào thay đổi từ gốc, từ hệ thống, để xoay chuyển t́nh h́nh đất nước!? Xoay chuyển cái ǵ và như thế nào để có thể tạo ra một chuyển động mới năng động?..
Tôi biết chắc chắn anh Kiệt đă đặt vấn đề này với nhiều người khác lâu nay rồi, đă có những «đơn đặt hàng» cụ thể cho mỗi người của mỗi việc... Tác phong làm việc của Thủ tướng Sáu Dân xưa nay như vậy.
Nhớ lại hôm ấy, được nhận một nhiệm vụ trọng đại từ một Thủ tướng dày dạn những thử thách trong cuộc đời và nhiệm vụ của ḿnh, hai tai tôi nóng ran – v́ nhiệm vụ này đối với tôi trân trọng quá, trang nghiêm quá, thiêng liêng quá!.. Trong ḷng, tôi chỉ có nỗi lo, với hai cái tai nóng ran…
- Ḿnh có làm nổi không?..
…
Câu chuyện bức thư ngày 09-08-1995 của Thủ tướng gửi Bộ Chính trị h́nh thành từ đầu là như thế.
Nhưng bức thư này thất bại! Bộ Chính trị không tán thành những đề nghị của anh Kiệt.
Một bản photo copy của thư này (h́nh như từ một người nào đó có tên trong danh sách những người được nhận thư) không biết làm sao lọt ra ngoài và lên mạng[11]. Tôi được biết anh Hồng Hà (nguyên chánh văn pḥng Bộ công an), anh Hà Sỹ Phu và anh Nguyễn Kiến Giang đọc bản sao này nên bị công an bỏ tù, nghe đâu nhiều tuần… – v́ tội xâm phạm bí mật nhà nước.
Anh Việt Phương sót sa nói với tôi:
- Lẽ ra phải bắt Nguyễn Trung đi tù mới đúng!
Như thế là câu chuyện rất nghiêm trọng, tôi hiểu rơ như vậy.
Song anh Kiệt trước sau không hé cho tôi nửa lời về ư kiến của Bộ Chính trị… Tôi ướm hỏi điều ǵ, thủ tướng cũng chỉ một mực bảo tôi tập trung lo công việc hàng ngày, coi như không có chuyện ǵ xảy ra. Thủ tướng chủ động bàn sang việc khác...
Vài tuần sau, một cán bộ bên Văn pḥng Trung ương nói với tôi: Có ư kiến của lănh đạo đánh giá không thuận việc tôi làm trợ lư cho anh Kiệt, câu chuyện bức thư gây khó dễ cho anh ấy...
Tôi nghĩ đă đến lúc ḿnh phải tự quyết định rồi!
Hôm sau đến cơ quan, tôi mang theo một bức thư đă viết sẵn từ nhà, rồi tŕnh bầy với Thủ tướng: Tôi đă cân nhắc cặn kẽ câu chuyện bức thư, và tôi xin từ chức trợ lư. Tôi cũng xin nghỉ hưu luôn, từ ngày mai tôi sẽ không đến cơ quan nữa. Tôi xin lỗi sự đột ngột này và mong Thủ tướng lượng thứ. Song trước hết tôi xin lỗi Thủ tướng về những điều không ai muốn mà câu chuyện bức thư gây ra cho Thủ tướng. Tôi hứa với tư cách công dân tự do, tôi sẵn sàng giúp mọi việc Thủ tướng yêu cầu…
Tŕnh bầy xong, tôi biếu tặng anh Kiệt một chai rượu mơ tôi tự làm để chia tay. Tôi nói : Đây là loại rượu mơ tôi vẫn làm hàng năm để biếu cha tôi, v́ Người rất thích loại rượu này…
Sau đó tôi ch́a tay xin cáo lui, anh Kiệt bắt tay tôi, cả hai chúng tôi cùng cười thay cho phải nói với nhau điều ǵ – anh Kiệt nh́n tôi, không kịp nói được ǵ, v́ chưa ra khỏi sự ngỡ ngàng, mà tôi cũng không muốn để anh Kiệt có thể kịp nói với tôi câu ǵ… Tôi bước nhanh ra cửa…
Khi lái xe đưa tôi về đến nhà, tôi nói:
- Rất cảm ơn sự giúp đỡ tận t́nh của anh lâu nay dành cho tôi. Nhờ anh nói với tổ xe, từ mai trở đi không cần phải đưa đón tôi nữa…
Nằm khàn ở nhà, tôi càng thấy quyết định của ḿnh là cần thiết, càng thấm thía sự hiểu biết của tôi về chính trị nông cạn quá.
Tôi ân hận cứ tự hỏi măi: Ḿnh đă đủ tỉnh táo khuyên anh Thạch tạm đặt việc tổng kết sang một bên để chọn việc khác, nhưng tại sao trong trường hợp này ḿnh chưa đủ tỉnh táo để kiến nghị với Thủ tướng một cách tiếp cận khác?
Cú vấp lớn quá!..
Cho dù những vấn đề của đất nước nêu trong bức thư nóng bỏng đến đâu, song cách tiếp không phù hợp vẫn có thể hỏng việc…
Cái tội lớn nhất của tôi trong thất bại nhớ đời này là già rồi mà vẫn chưa nh́n thấu những cái ǵ gọi là “chính trị”, mặc dù thời sinh viên tôi đă dám cả quyết trước chi bộ “chính trị là bẩn thỉu!”, đến nỗi xuưt bị đuổi học!
…Tôi nhớ, đă có lần mẹ tôi vừa trách vừa trêu bố tôi: “Già rồi mà c̣n dại!” - về một câu chuyện ǵ đó ở cơ quan khiến bố tôi bị bẩy đi chỗ khác. Tôi nghĩ, nếu mẹ tôi c̣n sống, chắc tôi cũng sẽ được ăn một cái cốc vào đầu và được nhận một lời như thế! Nhưng cho đến hôm nay, vợ tôi và con cháu tôi, trong họ tôi… vẫn chưa một ai hay biết tôi “ra đi” v́ câu chuyện bức thư… Đơn giản v́ tôi thấy chuyện này chẳng có ǵ đáng phải nói trong gia đ́nh.
Câu chuyện bức thư mở mắt cho tôi: Trước sau tôi vẫn chỉ là một technocrat quèn, thiếu rất nhiều kỹ năng và phẩm chất là một tham mưu. Làm trợ lư mà tay nghề như thế th́ non quá… Lẽ ra tôi phải cố vấn cho anh Kiệt chọn một cách tiếp cận tốt hơn. Tôi chưa học được điều này, v́ tôi không bao giờ coi trọng nó! – đây là lư do người đời thường quy kết tôi là kiêu căng, có lẽ cũng đúng! - Tội lỗi của tôi là ở chỗ này, chứ không phải ở nội dung bức thư!.. Sự cố này khiến tôi nh́n lại cuộc đời cán bộ của ḿnh, càng thấm thía: Đúng là tôi không bao giờ có ư thức làm chính trị, không thể làm chính trị!..
…
Về bức thư, có thể nói sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng, có trách nhiệm, cố không xa rời thực tại đất nước, không duy ư chí; chỉ chọn một số vấn đề chính không thể không nói, nhưng liều lượng ở mức tối thiểu, chỉ mang tính đề cập, tính tới việc mở ra những bước sau này, lựa lời diễn đạt… Nghĩa là nội dung tổng thể của bức thư là triệt để, song tránh nói đến ư thức hệ hay CNXH… như các anh Đào Xuân Sâm, Việt Phương, Phan Đ́nh Diệu… từ rất lâu đă tŕnh bầy trực tiếp với lănh đạo đảng và nhà nước về CNXH như đang thực hiện ở nước ta là sai rồi!..
Tôi nhận nhiệm vụ soạn thảo thư này c̣n với tính cách là thành viên Tổ nghiên cứu của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt. Anh Kiệt nhiều lần góp ư cần sửa chỗ này chỗ khác, trao đổi thêm với một số anh khác và yêu cầu họ góp ư và sửa trực tiếp vào văn bản… Anh Việt Phương được anh Kiệt giao nhiệm vụ đọc lại lần chót trước khi bức thư được kư và gửi đi – xưa nay Thủ tướng vẫn dành cho anh việt Phương một sự tin cậy như vậy…
4 vấn đề hệ trọng được nêu trong bức thư đến hôm nay vẫn c̣n nguyên vẹn giá trị thời sự đối với đất nước. Đó là: (1)nh́n nhận lại xu thế phát triển của thế giới, (2)đất nước phải xem lại đường lối phát triển của ḿnh để có thay đổi thích hợp, (3)phải xây dựng nhà nước pháp quyền và hoàn thiện kinh tế thị trường, (4)phải đổi mới đảng về đường lối và về tổ chức để tạo ra động lực và sự phát triển bền vững của đất nước.
Hôm về Vĩnh Long thăm quê anh Sáu, tức cảnh, tôi viết mấy lời:
Khi chia tay, xin tặng anh chén rượu
Rượu không thơ, rượu không thành rượu
Thơ không rượu, thơ thêm nỗi vẩn vơ
Vậy nay xin tặng cả rượu và thơ
…
Tôi quá già
Để anh chọn làm thư kư…
Tôi quá trẻ
Để anh chọn làm trợ lư…
Những mong giúp anh đôi ba việc
Nhưng tôi mắt bé tí, trí mỏng, nh́n không thấu đời
Chọn tôi anh chuốc thêm cực vào người
Duyên phận hai ta là như thế
Nay xin đổi lại bằng thơ và rượu đế…
Kính tặng Anh Sáu,
Vĩnh Long – Vũng Liêm, 26-07-1996
Sự chia tay như thế, lại là bắt đầu một giao kèo mới giữa hai chúng tôi, cho đến lúc anh Sáu đi xa… Trong đời tôi có những biến đổi không ngờ như thế…
Có thể dựng lên h́nh ảnh thế này:
Tôi đến với anh Kiệt từ một bệnh viện ở Bangkok, sự chia tay tại cơ quan chỉ đánh dấu một thời kỳ gắn bó mới… Nhưng khi anh đi xa, lại chẳng có sự tiễn đưa nào cả - v́ anh đang ở một vùng trời, tôi lại đang lang thang trong vùng trời khác… Cho đến hôm nay, cũng không có sự chia tay nào cả. V́ tôi chưa cảm thấy một lúc nào xa anh, vẫn mang nặng món nợ đối với anh mà cho đến hôm nay tôi vẫn không biết sẽ trang trải như thế nào…
Đó là món nợ của tôi đối với đất nước mà anh Kiệt đặt vào tay tôi!..
…
…Bữa cơm cuối cùng anh Sáu mời chúng tôi là tại một nhà nghỉ trong khu nhà khách Trung ương tại Hồ Tây, lần này là ngôi nhà anh Sáu đă sống những năm tháng đầu tiên, khi từ Nam ra Bắc nhận trọng trách mới... Anh chị em nhân viên phục vụ tại nhà này kể lại bao nhiêu chuyện cũ… Quay trở lại một kỷ niệm cũ như thế, chúng tôi không ngờ đó lại là nơi: từ đây anh Sáu vài tuần sau chia tay với chúng tôi – lần này là măi măi…
…
…Cũng như mọi khi, từ lúc thôi làm Thủ tướng, mỗi lần anh Sáu ra Hà Nội, chúng tôi đều có những cuộc hàn huyên như thế, v́ anh Sáu là người của cuộc sống. Không lúc nào không có những vấn đề để trao đổi. Mỗi lần anh Sáu trở về Thành phố, đều để lại cho chúng tôi những «đơn đặt hàng mới» - những vấn đề anh Sáu yêu cầu chúng tôi nghiên cứu, có ư kiến, có kết quả th́ gửi vào báo cáo cho anh Sáu, hoặc sẽ bàn đến trong cuộc gặp sau… Thực sự là không có lúc nào rỗi. Cả anh Sáu và chúng tôi đều là những người nghỉ hưu, tất cả đều qua cái «thất thập cổ lai hy» lâu rồi… Song đầu óc chúng tôi vẫn làm việc b́nh thường – v́ đ̣i hỏi hiểu biết của ḿnh, v́ có lợi cho đời cho đất nước chút nào hay chút đó, v́ nhàn rỗi nghĩa là chết!
Ngoài việc thường xuyên tŕnh bầy với anh Sáu những diễn biến mới và thông tin về các vấn đề đối ngoại, thời sự quốc tế.., tôi được anh Sáu yêu cầu tiếp tục đi sâu vào chuyên đề đổi mới Đảng. Cuộc đời trớ trêu thật, giao việc này vào cái tay không thích chính trị!
…Thật ra từ lâu rồi, tôi vốn dỹ phải sống với cuộc đời luôn luôn thích trêu ngươi ḿnh, theo cái kiểu «ghét của nào, trời trao của nấy!»… Tôi cứ tự hỏi ḿnh hoài, tại sao không chọn làm một nhạc sỹ, nhà văn.., hay thậm chí làm một chuyên viên kỹ thuật ?.. – v́ khi học trung học tôi cũng có năng khướu về khoa học tự nhiên.., thế mà lại đi làm cái nghề ngoại giao, rồi bây giờ đụng vào đâu cũng chỉ toàn là chính trị?!..
Song tôi hiểu việc anh Sáu giao: Anh không bỏ dở câu chuyện bức thư!
Anh Kiệt «trói» tôi vào đề tài này từ khi tôi tự về vườn và nghỉ hưu, nghĩa là rất sớm – tôi không biết lư do tại sao, hay chỉ là ngẫu nhiên. Thỉnh thoảng tôi cũng được anh Sáu gọi vào Thành phố báo cáo trực tiếp các suy nghĩ của ḿnh về đề tài này… (Hay là tại tôi vẫn thường phê phán đảng khá gay gắt?!.. – tôi chịu.)
Trong bữa cơm cuối cùng tại căn nhà xưa nói trên trong khu Hồ Tây, khi chia tay, anh Sáu nói với tôi:
- Anh cần tôi đi đâu, gặp ai trong lănh đạo để nói điều hệ trọng ǵ đối với Đảng và đất nước mà anh chưa thể nói được, tôi sẵn sàng cầm thẻ đảng của ḿnh đi làm việc đó! Nhưng không được bỏ dở nhiệm vụ nghiên cứu góp phần đổi mới Đảng thành đảng của dân tộc!..
- !!!…
Ai hiểu hết được ư chí v́ dân v́ nước của người đảng viên ĐCSVN Vơ Văn Kiệt đă cống hiến cả đời ḿnh cho đảng đă làm nên sự nghiệp của chính ông, nhưng chính hôm nay ông kiên định ư chí phải thay đổi đảng này thành đảng của dân tộc!?.. Và tôi hiểu, ông đă giao cho tôi một việc cho đến lúc nhắm mắt tôi cũng không được thoái thác!
…
Mọi người c̣n nhớ, anh Sáu lâm trọng bệnh giữa lúc chuẩn bị lên đường đi Hà Lan, muốn t́m hiểu vấn đề chung sống với biển của quốc gia này, mong mỏi có thể t́m ra được điều ǵ cho nước ḿnh, nhất là hệ quả của biến đổi khí hậu đối với nước ta năm sau dữ dằn hơn năm trước trông thấy!.. Lúc này Anh Sáu đă 86 tuổi…
Tin sét đánh đến với tôi, trong lúc tôi đang ở Mỹ…
…
II. Kẻ thất bại toàn diện
Tựa đề huênh hoang như vậy của phần này thực ra là tổng kết của chính tôi trong một câu về toàn bộ những ǵ tôi đă trăn trở và đă viết ra trong khoảng 28 năm qua, nhất là trong 23 năm nghỉ hưu đến nay – và kết quả gặt hái được : Thất bại toàn diện!..
Tôi chưa t́m được ngôn từ nào có thể huênh hoang cao hơn nữa, để giễu cợt ḿnh chua cay hơn nữa, để xát thêm muối vào những nỗi đau của những thất bại tôi hứng chịu trên quăng đường này – để tỉnh ngộ thêm, suy nghĩ thêm, xem c̣n có thể làm được chút việc ǵ nữa không, trước khi trao trả cuộc đời này cho đời và trở về với cát bụi!?...
Có thể nói, từ khi chia tay với ngoại giao, tôi quan tâm đến mọi vấn đề của đất nước mà tôi quan sát được, với tới được và làm tôi bức xúc – hầu như không trừ một lĩnh vực nào. Tôi cũng tự hỏi ḿnh: Như thế có tham lam quá không?
Tôi tự trả lời: - Không!
Về vườn, trở thành một công dân như mọi công dân, tôi thực sự có điều kiện hiểu biết hơn thế nào là cuộc sống của một người dân thường. Cái nh́n của tôi trở nên rơ nét hơn, song nỗi đau riêng cũng sâu nặng hơn…
Cuộc sống của một người dân thường là cuộc sống của một con người và đồng thời cũng là một công dân trong ḷng đất nước – với nghĩa: Quốc gia và chế độ chính trị này có bao nhiêu quyết sách, chính sách, luật lệ, quy định, tác động, ảnh hưởng, phúc lợi, gánh nặng, tệ nạn… th́ từng người dân thường – từ em bé mới ra đời đến người cao tuổi nhất – đều phải đội trên đầu ḿnh toàn bộ những gánh nặng, hoặc được hưởng lợi những điều ǵ đó mà quốc gia này và chế độ chính trị này mang lại.
Chính v́ bức xúc được – dù chỉ là ở mức độ nhất định nào đó bức xúc của người dân thường, bức xúc trong tôi về những vấn đề của đất nước càng day dứt thêm. Tôi tự đặt ra cho ḿnh cái ǵ ḿnh hiểu được và nói được, th́ nhất thiết phải lên tiếng! Biết mà im lặng là có tội! Tôi lao vào cuộc chiến đấu toàn diện là v́ như thế. Thậm chí có những lĩnh vực tôi hoàn toàn i-tờ-mít, nhưng không nói không được, - như bauxite Tây Nguyên, thép Thạch Khê, Formosa, lĩnh vực giáo dục, lĩnh vực văn hóa… Không biết th́ đào bới bất kể chỗ nào đào bới được để t́m thông tin, t́m kiến thức mà nói! Không bàng quan được!..
Song tôi phải tự tổng kết: Ḿnh là kẻ thất bại toàn diện trong cuộc chiến này. Tôi chỉ có thể sắm vai: Hữu trí vô mưu! Nghĩa là: Trí không có mưu, nên cũng chỉ là thứ trí rẻ tiền thôi!
Không phải là v́ tôi toàn nói ra, hay là viết ra những điều vô nghĩa – sự thực không đến nỗi tệ hại như vậy. Mà chỉ v́ tôi có cảm nghĩ: Mọi nỗ lực của ḿnh cho đến hôm nay h́nh như chưa lay động được đến cái lông chân của chế độ chính trị này và những con người của quyền lực!
Đấy là sự thật tôi đang đối mặt!
Chỉ một điều nhỏ nhoi hôm nay tôi có thể nói được với ḿnh: Đúng là ḿnh đă thất bại toàn diện… Viết rất nhiều, nhưng không xoay chuyển được ǵ. Đến nay chỉ có chưa giơ tay hàng!
Có một niềm vui, một điều an ủi trong cái thất bại toàn diện này, đó là: Tôi học được rất nhiều cái khác, cái mới, cái chưa biết từ các anh các chị bốn phương trời… Có thể nói, nếu không có sự «bổ sung» này tôi sẽ có những thiếu hụt lớn và không ít cái sai từ những định kiến có sẵn. Hơn nữa, trong quá tŕnh này tôi có thêm nhều bạn mới – từ Mỹ là các anh Vũ Quang Việt, Ngô Vĩnh Long, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Mạnh Hùng, Ngô Thanh Nhàn, Phạm Đỗ Chí.., từ Pháp là các anh Cao Huy Thuần, Nguyễn Ngọc Giao, Hà Dương Tường, Trần Hải Hạc.., Từ Nhật là anh Trần Văn Thọ, từ Úc là anh Phạm Việt Hưng… …
Tại đây tôi xin dành lời cảm ơn đặc biệt đến trang mạng viet-studies.net và chủ nhân Trần Hữu Dũng, nơi tôi từ hàng chục năm nay nhận được rất nhiều bài quan trọng của giới học giả và báo chí Mỹ không thể thiếu cho sự tham khảo của tôi, và cũng là nơi cửa ngơ của mọi bài viết của tôi đi qua để tới bạn đọc.
…Về vườn,
Đấy là cuộc khai sinh mới: Tôi là người tự do!
Thật khó nói được niềm vui: Tôi sống cuộc đời của tôi, do tôi, v́ tôi …và v́ mọi thứ tôi muốn… – ngay lập tức bài tập văn năm vào đời tự động phát đi tín hiệu cảnh báo tôi: «tự do là hiểu lẽ tất yếu!»
Từ trải nghiệm của ḿnh trong cuộc đời, tôi c̣n muốn bổ sung thêm một mệnh đề phái sinh nữa: «tự do là dám đối mặt với thách thức ḿnh bị thách thức!» - thành công hay thất bại đều chấp nhận!
Không có ai chỉ huy hay sai khiến ḿnh nữa, tôi quyết từ miền đất «đối ngoại» và «kinh tế» ḿnh canh tác lâu nay, vươn vào miền đất cuộc đời của đất nước, ngẫm nghĩ lại về ḿnh và về đất nước, muốn cầy cuốc trồng trọt cái ǵ đó trên vùng đất mới này…
Như đă nói trong Phần một «Vào đời », tôi muốn nh́n lại tất cả những chặng đường đất nước đă trải qua, từ thời Gia Long. Bởi v́ đất nước ta hoàn chỉnh như hôm nay bắt đầu từ thời kỳ này – gần như đồng thời với Nhật của Minh Trị. Thực tế này dấy lên trong đầu tôi câu hỏi khôn nguôi: Cái ǵ khiến cho mỗi quốc gia mỗi ngả trên con đường của nó sau này?..
Song tham vọng này lớn quá, phải khoanh bớt lại: từ năm 1930 đến nay vậy, để từ cái nh́n lại này (review) cố sao hiểu rơ con đường đă trải qua đất nước… Sâu thẳm trong tim, tôi rất muốn viết sử đất nước nằm gọn trong ṿng một đời người này - mà chính tôi là nhân chứng, đồng thời cũng là tác nhân và nạn nhân. Bởi v́, chỉ trong một khoảnh khắc lịch sử ngắn ngủi như vậy, song đất nước ta đă phải trải qua những t́nh huống nghiêm trọng, biết bao nhiêu thăng trầm đẫm máu và nước mắt, những biến cố và sự cố quan trọng…
Cho phép tôi ngay tại đây nói lên lời cầu xin với hiện tại và tương lai: Mong sao mọi trí tuệ của đất nước từ những bài học đất nước đă tích lũy được, từ chỗ đứng trong thế giới hôm nay, vạch ra được con đường dẫn đất nước ta đi vào một cuộc đời mới trong một thế giới đă đổi khác rất nhiều: Một quốc gia độc lập tự do của một dân tộc tự do!
Tôi dám cả quyết: Nếu tất cả những kinh nghiệm và bài học của mọi thành / bại đất nước ta đă trải qua từ thời Gia Long đến nay, đặc biệt là từ năm 1930 đến nay, được rút ra và đánh giá nghiêm túc, cùng với những kiến thức mới của trí tuệ văn minh nhân loại hôm nay, nhân dân ta hoàn toàn có đủ trí tuệ và nuôi được cho ḿnh ư chí để vượt qua mọi thách thức, trở thành một nước phát triển của độc lập, tự do, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc. Kinh nghiệm và bài học quan trọng nhất của đất nước trên chặng đường lịch sử này mà nhân dân ta nên khắc cốt ghi xương là: Cần hiểu đúng thế giới chúng ta đang sống để giác ngộ bằng được lợi ích quốc gia! Đây cũng là bài học dân tộc Việt Nam ta đă phải trả giá lớn nhất trên chặng đường lịch sử này.
Tôi phải vô cùng xin lỗi đất nước, xin lỗi dân tộc ḿnh v́ suy nghĩ như vậy.
Sâu thẳm trong suy nghĩ này là nỗi đau của tôi – dù đúng hoặc sai: Cho đến hôm nay, có lẽ chúng ta[12] – trước hết là giới quyền lực và các tầng lớp ăn theo – vẫn nặng về nh́n thế giới qua hay nhờ vào con mắt của người khác, cho nên nhận thức lợi ích quốc gia cũng vẫn nặng về theo lối nghĩ của người khác! Chẳng lẽ cho đến hôm nay chúng ta – tôi hiểu đây là dân tộc Việt Nam chúng ta – dù đă có độc lập quốc gia, những vẫn chưa sao đặt chân lên được vũ đài của độc lập trong cách nh́n và trong tư duy!? Câu hỏi này day dứt tôi cùng năm tháng… Nỗi đau này càng đau thêm, v́ đất nước cứ rộ lên ngày càng nhiều những điều ba hoa chích cḥe – trong đó không hiếm các danh nhân «trí thức» cũng góp phần đích đáng của ḿnh… Tất cả h́nh như chỉ cốt lấn át đi hay làm lạc hướng sự chú ư về những điều đang xảy ra trong thực tại. Thời hiện đại c̣n huy động có dụng ư cả sự hỗ trợ của các công nghiệp giải trí để đánh lạc hướng!..
Nghề nghiệp và nhiệm vụ của tôi có thể cho phép tôi nói: Tôi đă sống với tất cả sức ḿnh trong những bước đường nói trên của đất nước, đă lặn ngụp trong không ít những khó khăn đất nước phải đối mặt, t́m kiếm mọi ư tưởng có thể trong hay ngoài nước, những kinh nghiệm trong quá khứ hay trong hiện tại, mạnh dạn góp ư giải quyết... Càng nh́n nhận được sự thật diễn ra trong cuộc sống những bước đường này, nỗi day dứt của tôi càng lớn, cho đến hôm nay – với biết bao nhiêu nỗi lo, bởi v́ thảm họa không lúc nào buông tha ŕnh rập đất nước ta. Chưa thoát khỏi được những hệ quả của 4 cuộc kháng chiến, hôm nay đất nước lại đối mặt với một trật tự quốc tế mới của một thế giới khác! Chưa nói đến những tai ương có thể đến từ trong tự nhiên, từ một đột biến nào của địa kinh tế và địa chính trị của thế giới hoặc khu vực, đó nội trị của quốc gia quá nhiều yếu kém! Trong khi đó lối ṃn trong cách nh́n và trong cách nghĩ của chiếm quyền chủ đạo đất nước vẫn cứ đang dài măi ra, thậm chí đang được gia cố thêm của «độc lập dân tộc gắn với CNXH» và trung thành với CNML, bằng mọi bạo lực chuyên chính có thể!..
Tôi xin tóm trong một câu: Trong 43 năm đầu tiên độc lập thống nhất, tuy đă giành được mức quốc gia có thu nhập trung b́nh (thấp) - song đất nước ta có lẽ chưa bao giờ lại nhiều chuyện ươn hèn đốn mạt như bây giờ, và hầu như đất nước chưa có được sự chuẩn bị sẵn sàng ở mức phải có cho bất cứ một thách thức hay biến cố nào lớn!
Không phải chỉ từ khi nghỉ hưu, mà ngay từ những năm công tác đầu tiên, tôi đă h́nh thành cho ḿnh sự chân thật và thẳng thắn cả trong những vấn đề chính trị nhạy cảm nhất. Nghề nghiệp đ̣i hỏi tôi như thế, song cũng mang đến cho tôi những cơ hội hiếm có. Tôi đă nhiều lần được làm phiên dịch hay phục vụ những lănh đạo cao cấp nhất của đảng và nhà nước trong nhiều việc hệ trọng khác nhau cũng như trong những chuyến đi công tác ngắn ngày – từ tổng bí thư Lê Duẩn, tổng bí thư Trường Chinh, thủ tướng Phạm Văn Đồng, các ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị… … .., và tôi không bao giờ giấu giếm những băn khoăn của tôi về những vấn đề liên quan đến sống c̣n của đất nước, mạnh dạn nói lên quan điểm riêng của ḿnh… Trong các báo cáo, các bài nghiên cứu, bài viết… cũng vậy.
Có một mẩu chuyện thế này, khi tôi được yêu cầu đi làm phiên dịch cho tổng bí thư Lê Duẩn, mọi người dặn ḍ tôi rất kỹ lưỡng, phải thế này, phải thế kia… Tôi chưa từng thấy sự cẩn thận nào như thế… … Tôi đâm lo, trong đó cái lo nhất là tổng bí thư nói nhanh theo giọng nói của quê ḿnh, tôi chỉ sợ nghe không hiểu hết nội dung và có thể dịch sai. Khi đến chào ra mắt tổng bí thư, ngay câu đầu tiên tôi nói nỗi lo của ḿnh:
- Thưa Anh, tôi được dặn kỹ phải cố hiểu hết ư của Anh và dịch cho đúng. Nhưng tôi lo Anh nói nhanh và tôi có thể dịch sai. Vậy xin đề nghị Anh nói thong thả cho tôi dịch được. Nếu không, có thể tôi sẽ dịch sai và không làm tṛn được nhiệm vụ của ḿnh.
Không ngờ, cách thật thà vào đề câu chuyện của tôi như vậy, tạo ra không khí cởi mở ngay từ đầu. Tổng bí thư đồng ư sẽ chú ư, hỏi thăm tôi về nghề nghiệp, công tác, gia đ́nh… Tổng bí thư chủ động hỏi nhiều chuyện, tôi cũng thưa nhiều chuyện… Măi cho đến lúc có người vào mời tổng bí thư đi làm công việc khác. Dọc chuyến đi công tác này, đôi lúc tổng bí thư gọi tôi lên ngồi cạnh trên máy bay, hỏi rất nhiều chuyện về các nước LXĐA – v́ biết tôi ở Đức lâu năm và có nhiều thông tin để tŕnh bầy, nhất là cách nh́n của tôi từ CHDCĐ về Liên Xô… Cả trong những ngày ở CHDCĐ cũng có đôi lần những chuyện như thế… Tôi thấy tổng bí thư Lê Duẩn là người dễ gần và cởi mở, nghĩa là khác những ǵ tôi nghe được … C̣n tôi có dịp mở hộp thư bí mật về những điều ḿnh lo âu – xoay quanh câu chuyện nội t́nh phe xă hội chủ nghĩa, và vấn đề cái dốt ở đất nước ta đang lên ngôi…
…
…Nỗi niềm day dứt
Xin nói thêm về tôi một chút.
Tôi không lựa chọn cho ḿnh, song cuộc sống của nghề nghiệp ngoại giao rất sớm đặt tôi vào trong ḷng sự cọ sát đối kháng quyết liệt giữa 2 thế giới Đông – Tây, c̣n có một tên gọi khác là «cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa 2 con đường – CNXH và CNĐQ?» - trong suốt 4 cuộc chiến tranh mất / c̣n vô cùng đẫm máu của đất nước để giành lại độc lập thống nhất, và cho đến khi phe XHCN sụp đổ.
Sau đó nghề nghiệp cũng gắn bó tôi với mọi bước đi của đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước thời b́nh.
…Tôi có thể dám chắc, mong muốn của tôi mổ xẻ lịch sử như vậy đến từ những nỗi đau của đất nước và của họ hàng ruột thịt trong gia tộc của tôi, ngay trong gia đ́nh tôi… mà tôi cảm nhận được trên da thịt ḿnh suốt đường đời ḿnh đă trải qua. Hầu như mong muốn này không đến từ hoài băo nào trong tôi cả – đành rằng làm sao ai sống mà không có hoài băo!?
Song cũng có thể nói, mong muốn này của tôi c̣n nảy sinh từ truyền thống yêu nước của chính gia đ́nh và họ tộc ḿnh.., yêu nước theo con đường định mệnh đă đặt chúng tôi vào… Trong khi đó, kể từ khi có vỹ tuyến 17, một nửa máu mủ họ hàng của chúng tôi ở bên kia cũng có những người định mệnh đặt họ vào con đường này hoặc con đường khác…
Riêng trong gia đ́nh tôi, bố tôi đă có hai em tham gia cách mạng từ trước 1945... Hai chú của tôi đă trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ thủ đô măi đến tận tháng 3-1947 mới rút ra khỏi nội thành…
Thời kháng chiến chống Mỹ bố mẹ tôi có một con dâu, một con rể và ba con trai tại ngũ, trong đó bốn người cầm súng chiến đấu trên các chiến trường khác nhau của tổ quốc. Vợ tôi là người đă nhập ngũ ngay sau khi tốt nghiệp đại học của thời «3 sẵn sàng» năm 1965… Gia đ́nh mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng của ta ở Hà Nội trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp… Kể lể ra như thế chỉ để nói chúng tôi sống có ư thức đối với đất nước trên con đường chúng tôi đi.
Trước đây lâu lắm rồi, đôi lúc có dịp hàn huyên trong nhà, mấy người anh em họ và bạn chí cốt tŕ triết tôi: …Trung ơi, người như mi sao ngu lâu thế!?.. Bố tôi nghe, chỉ cười không nói ǵ… Tôi cũng không biết trả lời thế nào. Ngồi nói chuyện với nhau như thế trong nhà, cứ 10 người th́ đến 9 người cho rằng chẳng có ĐCS nắm quyền nào trên thế giới này có thể thay đổi được, nó chỉ có khả năng tự đổ vỡ hay bị đập tan!.. Họ cũng nghĩ như vậy về ĐCSVN, dù rằng đa phần trong số họ đều là đảng viên lâu năm!
Các vị này bây giờ đi xa hết cả rồi, bỏ tôi lại một ḿnh… Song đến hôm nay tôi vẫn chưa có câu trả lời dành cho câu hỏi về tôi của các vị!..
Nỗi đau trong tôi kinh niên lâu quá, có lẽ đă trở thành bản năng, nó gần như không cần biết đúng sai nữa!?..
Thú thật, sống giữa gia đ́nh và họ hàng, ăn ngủ thở hàng ngày giữa ḷng đất nước, thế nhưng cái bản năng như là “nghiệp” mà trong những lúc thất vọng chính tôi cũng không muốn ôm lấy nữa, không hiếm lúc làm cho tôi nhức buốt với cảm giác: Tôi như đang một ḿnh lạc vào một sa mạc chưa từng biết đến, đơn độc và không hy vọng t́m được đường về - dù đang sống giữa những người thân của ḿnh!..
Không dưới một lần tôi đă nói với anh em, con cháu, bạn bè ḿnh, kể cả trong những lúc trà dư tửu hậu: Tôi chắc sẽ không có may mắn được chứng kiến đất nước thay đổi đâu! Thế hệ các chắt của tôi th́ may ra có thể!
Nhưng v́ là nỗi lo đă trở thành “bản năng”, nên tôi không bỏ được niềm tin: Tiền đồ của đất nước chỉ có thể nằm trên con đường thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược![13] Phải có dân trí và ḥa hợp dân tộc để có sức mạnh hoàn thành…
Cái bản năng niềm tin này đối với tôi v́ thế nhiều khi như là nghiệp!
Trong những người ngồi nói chuyện với nhau trong nhà như vậy, có một ông anh của tôi cùng học thi với anh Việt Phương, cũng một dạng thông minh như vậy, nhưng con nhà giàu phố Hàng Bạc. Ông học trên anh Việt Phương một năm, nhưng sau đó anh Việt Phương đuổi kịp – không rơ v́ ông đúp một năm hay anh Việt Phương nhảy cóc một năm. Học xong ông sống làm dân thường, ở lại Hà Nội không tham gia kháng chiến, tiếp tục là dân thường cho đến lúc về với tổ tiên. Ông anh này là con giai trưởng họ hàng thân thiết bên ngoại của gia đ́nh tôi. Đôi lần ông nói với tôi:
- Anh chỉ là người Việt Nam, đối với anh thế là đủ rồi chú ạ!
Ông anh tôi giữ được những cốt cách như tôi thấy ở ông bà ngoại ḿnh thời xưa, rất hiền lành của một nhà nho, mà tôi được coi như là một đứa cháu cưng… Nhưng không rơ truyền thống này bền được bao lâu. Ngay trước khi ông đi xa, con cháu ông đă thành các chi, các nhánh rất khác nhau, ở trong nước và ở nước ngoài hết cả rồi…
Một mẩu truyện tôi nhớ đến hôm nay, trong tuần lễ đầu tiên khi tôi về tiếp quản Hà Nội (10-10-1954): Người bên họ ngoại tôi gặp đầu tiên chính là ông anh trưởng bên họ ngoại này. Tôi c̣n nhớ, hôm ấy, ngay sau phần thăm hỏi họ hàng ra sao, ai c̣n ai mất, ai sống ở đâu đi đâu.., câu chuyện đi ngay vào «chính trị» - có lẽ v́ nỗi lo của anh tôi đối với chế độ. Tôi ra sức bảo vệ chủ nghĩa xă hội, t́m đủ mọi thứ chứng minh Liên Xô tốt đẹp như thế nào và hơn đứt Mỹ. Liên Xô của tôi lúc bấy giờ chủ yếu là Liên Xô trong «Thép đă tôi thế đấy» của Nikolai A.Ostrovsky – tiểu thuyết Liên Xô đầu tiên tôi được “nghe” trong đời.
Sự thể “nghe” tiểu thuyết là thế này: Hồi ấy, khoảng 1951, tôi được tham gia lớp huấn luyện chính trị cho các học sinh là hiệu đoàn trưởng, hiệu đoàn phó… các trường trung học toàn Liên khu Viêt Bắc, tổ chức tại Đồng Hỷ - Thái Nguyên, lúc đó tôi là hiệu đoàn trưởng trường Trung học Yên Bái. Chương tŕnh ngoại khóa của lớp là giới thiệu tiểu thuyết “Thép đă tôi thế đấy!”. Tại lớp học này, bọn tôi chỉ mong ngày chóng tối để được “nghe” tiểu thuyết quá hấp dẫn này. Cứ đến giờ, là bọn tôi tề tựu đủ mặt trong lán, ngồi chung quanh cái đèn dầu măng-sông sáng choang, người vừa đọc vừa kể truyện tùy đoạn là anh Cao Kiến Thức (cùng lứa và công tác thanh vận với anh Nguyễn Lam - 1922-1990). Anh Thức giỏi tiếng Pháp, đọc thẳng bằng tiếng Việt từ truyện ra những phần hay nhất, nên ngồi nghe càng hấp dẫn. Hỏi thăm nhau, hóa ra anh Thức ở phố Hàng Bông, mẹ là chủ cửa hiệu bán hàng trang sức mỹ kim, mẹ anh Thức lại là bạn với mẹ tôi – con gái phố Hàng Bạc… Chuyện không may, khi lớp học bế mạc, anh Thức đột ngột lên cơn sốt rét ác tính. Ở giữa rừng sâu, thuốc chữa hồi đó duy nhất chỉ có kí-ninh uống hoặc tiêm. Chúng tôi thay nhau ôm chặt anh Thức những lúc anh lên cơn co giật mạnh, lúc dùng th́a cố cậy hai hàm răng anh nghiến chặt để đổ thuốc, đổ sữa… Nhưng bệnh tật đă cướp mất anh Thức của chúng tôi!..
…Những năm gặp nhau sau này, kể cả đôi lần trước khi ông đi xa, ông anh trưởng bên họ ngoại của tôi thường mở đầu câu chuyện «Chủ nghĩa xă hội của chú Trung hôm nay thế nào?», để nghe tôi kể t́nh h́nh thời sự đất nước. Rất ít khi ông mở đầu câu chuyện với câu hỏi: “T́nh h́nh đất nước có ǵ mới không chú?”… Một hai lần ông buông lời b́nh: «Nó khác với chủ nghĩa xă hội lần đầu tiên chú kể cho tôi nghe năm nào, chú Trung nhỉ!»… Tôi chỉ biết cười trừ. Xót xa…
Kể lể ra như vậy, chỉ để nói lên: Nỗi day dứt trong tôi không phải là sản phẩm của bất kỳ một sự động dao, «diễn biến», hay «tự diễn biến nào»! Nỗi day dứt này là một nhận thức tất yếu không thể khác được của một con người đă cùng với cả gia đ́nh và họ tộc ḿnh dấn thân trên con đường đất nước đă trải qua từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay! Chính tôi đă trực tiếp sống trong bom đạn và tự thân ḿnh cảm nhận bằng tất cả tâm hồn, ư thức và các giác quan thế nào là chiến tranh, là đau khổ mất mát… mà dân tộc ta đă phải chịu đựng… Tôi đă trải nghiệm và phân biệt được thế nào là đúng, thế nào là sai.., thế nào là bất công, là man rợ, là sự thật, là dối trá.., thế nào là công, thế nào là tội… đă xẩy ra trên đất nước ta suốt chặng đường này, nhất là trong 43 năm đầu tiên đất nước độc lập thống nhất…
Nói đơn giản, đi cùng với con đường gian khổ và đầy thương đau này của tổ quốc ḿnh, tôi là người, chứ không phải là gỗ, càng không phải là một vật nuôi!
Nói là tôi đau nỗi đau của dân tộc tôi và tổ quốc tôi… – sẽ hoàn toàn không sai. Nhưng như thế nghe đại ngôn quá! Tôi không dám tự nói cho ḿnh như thế!
Song tôi đủ can đảm dám nói: Tôi thực sự đau ḷng về nỗi bất lực của ḿnh. Tôi không làm sao nói lên được đúng tầm cái giá quá lớn dân tộc và tổ quốc chúng ta đă phải trả trong 2 thế kỷ này, nhất là từ năm 1930 đến nay, những ǵ nhất thiết phải tránh, những ǵ cha truyền con nối phải làm bằng được, những ǵ phải đặt vào cái đích chung của toàn dân tộc, để từ nay thế hệ này sang thế hệ khác quyết giành lấy và ǵn giữ…
Nỗi đau nói trên khiến tôi cả quyết:
Chính khoảng lịch sử chưa đầy một thế kỷ này (1930 – 2018) sẽ quyết định tương lai của đất nước từ nay trở đi:
- Hoặc là dân tộc Việt Nam ta sẽ đổi đời được chính ḿnh, làm cho đất nước sánh vai được cùng với thiên hạ;
- hoặc là dân tộc Việt Nam ta sẽ vẫn măi măi bị cầm chân tiếp trong cái khoang đen chứa phế liệu của con tàu thế giới.., nước đă độc lập thống nhất – song vẫn là một quốc gia bị chiếm hữu!..[14]
tất cả tùy thuộc vào dân tộc Việt Nam ta hôm nay có hay không học được những ǵ phải học trong những thành / bại, những cái giá rất đắt đă phải trả, và những kinh nghiệm chính ḿnh tích lũy được trong khoảng lịch sử này.
Tại đây tôi xin thú tội:
Đă có những đêm không ngủ, tôi muốn hét vào mặt ĐCSVN hôm nay, hét vào mặt từng người dân trong cả nước – trong đó có cả tôi: Đất nước bẩy tám thập kỷ nay bị bầm dập đến thế này, đă mấy chục năm độc lập thống nhất rồi mà vẫn không giúp được nhau khôn lớn lên, không quyết cùng nhau khôn ngoan lên, th́ thân phận ruồi muỗi đất nước chúng ta đă phải trải qua và hôm nay lại đang lăm le phía trước cũng đáng thôi! Chẳng có định mệnh nào cả! Chỉ tại chính chúng ta mà thôi! Cái thế giới này thật vô cùng cùng ác nghiệt.., nhưng cũng ṣng phẳng vô cùng!..
Không một ai trong trong cộng đồng nhân dân cả nước chúng ta có thể đổ lỗi cho người khác bên cạnh! Mỗi người trong cộng đồng nhân dân cả nước chúng ta – từ người có quyền lực cao nhất, đến cùng đinh hạng chót trắng trơn – đều có phần lỗi của riêng ḿnh về thân phận đất nước hôm nay, quyền càng cao tội lỗi càng lớn! – tôi nghĩ như vậy, không ai thoát được!
Tôi cũng không dưới một lần đă nói và viết ra:
- Để đất nước ḿnh như hôm nay, không một đảng viên ĐCSVN nào – trong đó có tôi – là vô can!
Cứ nh́n ra Biển Đông hôm nay đi, cứ nh́n vào những ngổn ngang be bét trong nước đi, mọi người sẽ thấy tất cả!
Xin đừng vội khép tôi vào tội ngạo mạn khi các bạn phải đọc những ḍng chữ này. Tôi bị day dứt như vậy, và xin chia sẻ thực ḷng như vậy!
Có thể tôi đúng hoặc sai! Tôi cho phép ḿnh tự vượt lên trên mọi đúng và sai để bộc bạch nỗi ḷng của ḿnh như vậy!
Tôi vô cùng mong mỏi mỗi chúng ta nghiêm túc nh́n nhận lại tất cả!
…
Từ những ǵ tôi đă viết suốt gần 3 thập kỷ vừa qua (tôi không thể tổng kết lại được là bao nhiêu bài, có thể là vài trăm bài với hàng chục ngh́n trang.., trên nhiều lĩnh vực trong cuộc sống đất nước), xin nêu ra vài nét khái quát dưới đây về đất nước trong suốt thời kỳ này, bắt đầu từ 30-04-1975.
Con đường đất nước trải qua từ sau 30-04-1975 đến nay có thể diễn tả như sau:
1. Thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong ḥa b́nh nước ta chẳng những có muôn vàn khó khăn thời hậu chiến, mà c̣n phải đối mặt với biến cố thế giới nghiêm trọng là sự sụp đổ của hệ thống thế giới xă hội chủ nghĩa. Lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xă hội và ư thức hệ của nó vừa là mục tiêu chiến lược, vừa là hơi thở và là một động lực quyết định của 4 cuộc kháng chiến. Thực tế này tự nó đă định h́nh hướng đi của đất nước ta trong thời b́nh như một khách quan tất yếu – trước hết với nghĩa không thể tránh được.
2. Tuy nhiên, sự nghiệp hồi sinh đất nước coi như bị thực tế diễn biến của đời sống quốc tế bứt ra khỏi quá tŕnh vốn đă định hướng cho nó: ĐCSVN xây dựng CNXH trên đất nước độc lập thống nhất của ḿnh trong bối cảnh cuộc đấu tranh «ai thắng ai?» thất bại đă nghiêng hẳn về phía CNXH. Trong t́nh h́nh này, đất nước ta có nhiều bỡ ngỡ, hẫng hụt mới không ngờ tới, đồng thời đứng trước nhiều khác biệt quá lớn so với thế giới bên ngoài.
Có thể nói lănh đạo đảng bất cập và bị choáng! – tôi nghĩ như vậy. Tất cả những ǵ đă xảy ra trên đất nước ta ngay từ ngày đầu tiên sau 30-04-1975 cho đến Hội nghị Thành Đô 3&4-09-1990 giải thích thực tế này.
3. Trong khi đó tư duy của đảng lănh đạo và thượng tầng kiến trúc của đất nước độc lập thống nhất vốn h́nh thành trong suốt quá tŕnh cách mạng này, nên tất yếu lạc hậu và không thể phù hợp với bối cảnh và xu thế phát triển của thế giới bên ngoài – nhất là trên 2 phương diện: (a)sự vận động không thể cưỡng lại của quá tŕnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới, (b)quan hệ Việt Nam – Trung Quốc chẳng những không phải là «quan hệ đối ngoại XHCN» (thật ra chưa bao giờ như vậy), mà c̣n tích tụ ngày càng nhiều yếu tố đối kháng; trong khi đó kể từ sau hội nghị Thành Đô phía Việt Nam lại đi hẳn sang chiều hướng lấy sự đồng dạng ư thức hệ với TQ làm căn bản xây dựng quan hệ hai nước!
4. Trong mối quan hệ song phương Việt – Trung phần đối kháng của Trung Quốc giữ vai tṛ quyết định, phần hợp tác của Trung Quốc nhẹ cân hơn nhiều và c̣n có chức năng trang điểm và hẫu thuẫn cho phần đối kháng. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, song không nên chỉ một chiều đổ lỗi cho chính sách bá quyền và quyền lực mềm của Trung Quốc – v́ làm ǵ có một Trung Quốc không bá quyền! Nên nh́n nhận đầy đủ hơn những yếu kém và sai lầm của phía ta để nghĩ đến lối ra sau này. Xu thế phát triển tiêu cực của mối quan hệ song phương này hiện đang gia tăng, do (a)v́ mục đích toàn cầu, những bước đi của Trung Quốc ngày càng ráo riết và tập trung vào khu vực nước ta, sự can thiệp thường xuyên bằng quyền lực mềm và quyền lực rắn của Trung Quốc vào Việt Nam gia tăng, bước ngoặt là hội nghị Thành Đô; (b)phía ta ngày càng bất cập, đồng thời sự tha hóa của chế độ chính trị tự nó cũng mang lại cho đất nước những thách thức mới nguy hiểm.
5. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, lănh đạo vấp nhiều bất cập, đồng thời phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng của duy ư chí và tha hóa. Tuy nhiên, phẩm chất chính trị của lănh đạo thời kỳ những năm đầu sau 1975 này đă cho phép nhận thức ra phát huy được sức sống của đất nước, từ đó dựa vào dân nên đă đi tới được công cuộc đổi mới 1986 thay da đổi thịt nền kinh tế. Đất nước có bộ mặt mới. Thời kỳ ngoạn mục này kéo dài khoảng 1 thập kỷ, sau đó sớm đối mặt với mâu thuẫn mới: Vô cùng đáng tiếc, kinh tế càng phát triển, chế độ chính trị càng bất cập. Nguyên nhân chính: trối bỏ cải cách chính trị, với lập luận giữ vững định hướng XHCN. Sau đổi mới 1986, nhất là sau hội nghị Thành Đô, phẩm chất chính trị của lănh đạo ngày càng sa sút hẳn từ đây.
6. Yêu cầu phát triển của đất nước đ̣i hỏi phải mở cửa đẩy mạnh tham gia quá tŕnh toàn cầu hóa, song phản ứng của lănh đạo và chế độ chính trị lại là co lại, để gia tăng kiểm xoát và tăng cường quyền lực. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ tháng 1-1994 của ĐCSVN trong nhiệm kỳ khóa VII đánh dấu bước thụt lùi lớn. Sự năng động của nền kinh tế đất nước thời hội nhập ngày càng mâu thuẫn sâu sắc với chế độ chính trị đang ngày càng bất cập và tha hóa. Mâu thuẫn này cùng với sự tha hóa của đảng và chế độ chính trị ngày càng gia tăng đă làm cho nhiều giá trị của dân tộc và đất nước bị băng hoại: Đất nước đi hẳn vào thời kỳ chế độ toàn trị, dẫn tới tham nhũng và lăng phí lên ngôi làm kiệt quệ đất nước, bất công và trấn áp bùng phát chưa từng có. Cuộc khủng hoảng toàn diện của đất nước bắt đầu từ đây cho đến hôm nay chưa có lối ra.
Có thể xem từ cuối khóa đại hội IX cho đến hôm nay (khoảng 15 năm) là thời kỳ có những tiêu cực, tội ác và tham nhũng đen tối nhất cho đến nay trong 43 năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước – giữa lúc sức sống của đất nước và những thách thức trên thế giới đang đ̣i hỏi đất nước phải có những thay đổi quyết liệt.
7. Đặc biệt là từ khi chế độ toàn trị trở thành quyền lực tuyệt đối và biến chất tuyệt đối toàn bộ hệ thống chính tri, đảng nắm quyền đă tha hóa đến mức đứng trước nguy cơ phân ră (trước Đại hội XII). Đây là nguyên nhân chính khiến đảng nắm quyền và chế độ chính trị suy yếu toàn diện, phạm những sai lầm nghiêm trọng trong cả đối nội và đối ngoại, trong kinh tế đối ngoại – nhất là kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng toàn diện hiện nay. Trong quá tŕnh này đă xảy ra không ít sai lầm và tội ác phản lại hay bán rẻ lợi ích quốc gia, bờ cơi đất nước bị xâm phạm.
8. Môt trong những nguyên nhân trầm trọng nhất làm tha hóa đảng nắm quyền và chế độ chính trị là bệnh dối trá, đi liền với bóp nghẹt dân chủ. Bưng bít thông tin tự nó trở thành chính sách ngu dân, thực trạng đất nước bị cách giáo dục và tuyên truyền theo giữ vững định hướng che lấp. Nhân dân cả nước hôm nay không được cảnh báo đầy đủ những nguy cơ, thách thức để sẵn sàng, những cơ hội hay lợi thế đang đến cần tranh thủ và phát huy..; nhất là đất nước hầu như chưa sẵn sàng hay không được chuẩn bị thỏa đáng để ứng xử với những bất định chưa từng có trong thời kỳ thế giới đă sang trang đi vào trật tự quốc tế mới hôm nay – nan giải nhất là vấn đề Trung Quốc. Trong khi đó xu thế tụt hậu của đất nước chưa dừng lại, nguy cơ đất nước rơi vào cái hố đen của những bất ngờ không kịp trở tay không nhỏ...
9. Nh́n lại tổng thể 43 năm qua chiến lược xây dựng và phát triển đất nước đă phạm những sai lầm trầm trọng:
(a)Lợi thế lớn nhất của đất nước là nguồn lực con người không phát huy được, thậm chí bị làm cho tha hóa, suy thoái và làm cho suy kiệt;
(b)tư tưởng nhiệm kỳ + nền kinh tế GDP tỉnh + quốc doanh là chủ đạo + đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân là những yếu tố gây ra những tác động tổng hợp: (1)một mặt băm nát nền kinh tế quốc dân, (2)mặt khác là tạo ra cái nôi lư tưởng của những tệ nạn quan liêu, tham nhũng và lăng phí, hút hết sinh lực của đất nước, (3)đồng thời làm phá sản hầu như mọi chiến lược phát triển của quốc gia đă đề ra được cho từng ngành hoặc từng lĩnh vực, (4)giam hăm đất nước trong nền kinh tế tiểu sản xuất và lạc hậu.
(c)toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy quản trị quốc gia bị lợi ích nhóm và tầm nh́n của tư tưởng nhiệm kỳ chi phối nặng nề, một mặt dẫn đến những lựa chọn quyết định thiển cận và sai lầm trong chiến lược phát triển, mặt khác không thể vận hành và quản trị có hiệu quả nền kinh tế quôc dân. Kinh tế đất nước ch́m sâu vào công nghiệp gia công, công nghiệp hạ nguồn, công nghệ lạc hậu, tài nguyên cạn kiệt và môi trường bị xâm phạm nghiêm trọng, kết cấu hạ tầng lạc hậu… Sức sống của nền kinh tế chủ yếu dựa vào sự vận động của những nguồn lực bên ngoài.
Nguồn gốc của toàn bộ yếu kém nêu trong điểm «9» này là chế độ chính trị và những thể chế hiện hành, năng lực yếu kém của con người trong hệ thống. Hệ quả: Chiến lược hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 thất bại là tất yếu, chiến lược giáo dục hoàn toàn phá sản, cơ cấu toàn bộ nền kinh tế quốc dân nh́n chung lạc hậu so với đ̣i hỏi phát triển của đất nước. Kinh tế đất nước đă đi hết c̣n đường phát triển theo chiều rộng, song v́ “bóc ngắn cắn dài” nên hầu như không c̣n nội lực, không được chuẩn bị và không c̣n ǵ nhiều trong tay để chuẩn bị cho chuyển sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Lực cản lớn nhất và trực tiếp đối kháng với đ̣i hỏi phát triển của đất nước lại là sự bất cập và tha hóa của chế độ chính trị, cái nghèo chỉ là hệ quả và là thứ yếu. Xin lưu ư cho: Không bao giờ có thể có một nền kinh tế phát triển lại do một thể chế chinh trị lạc hậu và tha hóa vận hành! Cải cách chính trị v́ thế trở thành đ̣i hỏi sống c̣n!
Trong cục diện hôm nay của thế giới và khu vực, thậm chí chỉ một cái xẩy tay, một bước đi sai lầm, một sự cố đất nước không làm chủ được.., cái giá phải trả thật khó lường. Đất nước chưa bao giờ có quy mô kinh tế lớn như hôm nay, song cũng chưa bao giờ ở vị thế bị uy hiếp nghiêm trọng và phải chịu hèn như thế này... Cũng phải lưu ư: 30 năm công nghiệp hóa (1986-2018) của nước ta GDP pc tăng 12 lần, nhưng của Hàn Quốc trong thời kỳ như thế (1960-1988) tăng khoảng 40 lần, của Trung Quốc (1978-2018) khoảng 25 lần.., song chi phí cho 1% tăng trưởng như thế ở nước ta cao hơn rất nhiều, riêng so với Hàn Quốc thời kỳ CNH này ước lượng khoảng <2 lần!.. Nước ta hôm nay, dù đă đi được một đoạn đường dài trên con đường phát triển, song vẫn c̣n nhiều vấn đề lớn nan giải: khoảng cách phân biệt giàu / nghèo quá lớn, c̣n nhiều nơi và nhiều người rất nghèo, một nửa dân nông thôn chưa có nước sạch, sự tụt hậu của quốc gia tiếp tục xa thêm so với nhiều nước quan trọng đối với ta, v… v…
Xin bỏ cách so sánh ta hôm nay với ta hôm qua để tự sướng. Mỗi chúng ta nên dành tâm trí tự hỏi: Nội lực của ta hôm nay như thế nào? Có thể tạo ra cho ḿnh một tập hợp lực lượng trên thế giới ra sao nếu đất nước cứ một ḿnh một lối trong cái thế giới đầy sát phạt hôm nay? C̣n ai là bạn của ḿnh khi tắt lửa tối đèn? Đă có cách ǵ tránh được thân phận là cái băi đổ rác và là nơi bị các cơn lũ của những đồng tiền bẩn mọi xuất xứ càn quét? … … Một thể chế chính trị yếu kém như hiện nay sẽ kiểm soát như thế nào những con lũ bẩn này đang đổ vào đất nước (bây giờ đang nóng lên chuyện 3 ĐKKT!)…
Song tôi càng lo, chiến lược hoàn thành công nghiệp hóa hiện đại hóa nước ta vào năm 2020 như đă ghi trong nhiều nghị quyết quan trọng của ĐCSVN hiển nhiên đă thất bại. Thế nhưng không thấy nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm việc đă làm. Càng không thấy chỉ ra nguyên nhân số 1 của thất bại chiến lược này là thể chế chính trị và hệ thống nhà nước hoàn toàn bất cập hay không phù hợp cho quá tŕnh công nghiệp hóa một quốc gia! Nghị quyết mới của Bộ Chính trị số 23-NQ/TW ngày 22-03-21018 về phát triển công nghiệp quốc gia lại đi thẳng vào chiến lược đến năm 2030 và tầm nh́n đến năm 2045, nội dung tuy có nói đến cách mạng công nghiệp 4.0, nhưng là nói chỉ để cho đủ mâm đủ bát bầy lên bàn thờ, là những đ̣i hỏi / mong muốn chính trị hơn là một chiến lược công nghiệp hóa, không làm rơ được Việt Nam sẽ trở thành một nước công nghiệp kiểu ǵ và phải giành vị trí nào trong cấu trúc mới của kinh tế thế giới và quá tŕnh toàn cầu hóa của thời kỳ mới này, càng không thấy nói phải có một thể chế quản trị quốc gia nào để h́nh thành và vận hành nền công nghiệp mới của đất nước… …
Hầu như mọi chuyện đại sự quốc gia đang được đặt sang một bên, chỉ để tập trung lo chuyện «ḷ - củi» và vấn đề cán bộ - giữa lúc mọi vấn đề trong nước và ngoài thế giới của quốc gia đều rất nóng! Sự suy yếu toàn diện hiện nay của đất nước đang gia tăng nguy hiểm t́nh trạng bị lệ thuộc và sự uy hiếp của bên ngoài chưa từng có!
Tuy nhiên, ngày đêm tôi cứ như húc đầu vào đá, v́ mọi đề đạt của ḿnh về nhiều điều hệ trọng, đến lănh đạo, đến một số cơ quan hữu quan.., hàng chục năm nay cứ đi măi trong không trung không về.
Song tôi không có ư nghĩ bỏ cuộc.
Khi Myanmar rục rịch những bước đi từ một chế độ quân phiệt đẫm máu sang một thể chế dân chủ hơn, tôi đă đến tân nơi t́m hiểu tất cả. Tôi đă cố gắng tiếp xúc các nhân vật tôi có thể gặp được trong chuyến đi này, t́m hiểu những chuyển biến đang diễn ra trong những ngày nóng hổi ngay sau cuộc bầu cử 08-11-2015 – cuộc bầu cử tự do đầu tiên của chế độ quân phiệt Myanmar, đă bầu ra thổng thống Thein Sein, một trong những người giữ vai tṛ quyết định mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước này. Tôi cũng cố t́m hiểu TQ đă làm được ǵ và không làm được ǵ trong những diễn biến ở Myanmar. Mong muốn của tôi về cải cách chính trị ở nước ta càng nóng bỏng. Trở về nước, tôi đă làm tất cả những ǵ có thể để kiến nghị một bước đi tương tự như thế của nước ta, do ĐCSVN tiến hành – v́ hoàn cảnh nước ta không thể khác được. Tôi đánh giá nước ta có nhiều thuận lợi cho cải cách hơn Myanmar rất nhiều, chỉ thiếu điều duy nhất: Lănh đạo ĐCSVN không hồi âm đề nghị của tôi.
Myanmar hôm nay c̣n cho thêm một bài học mới về nguy cơ quay trở lại của chế độ quân phiệt và của sự can thiệp trở lại của Trung Quốc – liên quan mật thiết đến vấn đề bộ tộc người Rohingya và đạo Hồi (thế lực của bà Aung San Suu Kiji có lẽ không đủ mạnh để giải quyết v/đ quá sâu sắc này). Thật may mắn biết bao nước ta không có vấn đề sắc tộc đau khổ này, cũng không có vấn đề mâu thuẫn tôn giáo – song không được v́ thế mà ăn no ngủ kỹ hay làm liều!
Lâu nay tôi vẫn ngưỡng mộ Israel tồn tại và phát triển được gần như chỉ với sa mạc, lọt vào giữa trận địa của cả một thế giới bài Do Thái, tỷ lệ tính theo người là 1/23… Gần đây, đầu năm 2017, tôi cũng t́m cách sang tận nơi t́m hiểu tại chỗ, để kiểm nghiệm những ǵ tôi đă đọc về quốc gia hạt tiêu này… Thật đáng khâm phục. Tôi nghiệm được: Ǵn giữ ư chí cố kết dân tộc, và nuôi nấng trí tuệ - đấy là 2 nhân tố hàng đầu đă mang lại cho quốc gia hạt tiêu này tất cả. Đối tượng của họ th́ rơ rồi, thế nhưng đối tác của họ là cả thế giới, kể cả doanh nghiệp của gia đ́nh cũng t́m đối tác cho ḿnh là cả thế giới – lựa chọn những sản phẩm hàm lượng chất xám cao đến mức gần như độc quyền v́ khó ai cạnh tranh được… Thật là khôn như người Do Thái!.. Ra về, tôi càng nôn nóng cho nước ḿnh!..
Tôi không bao giờ nghĩ lẽ phải hoàn toàn thuộc về những ư kiến của ḿnh, chắc chắn có nhiều đúng / sai khác nhau theo những quan điểm khác nhau. Song tôi tin rằng một khi vấn đề nêu ra có hồi âm và được xới lên, chắc chắn sẽ gợi mở nhiều điều có ích cho đất nước. V́ lẽ này trước sau tôi kiên tŕ… Nhất là tôi không muốn mọi hy sinh và mất mát của đất nước trong gần một thế kỷ vừa qua bị hôm nay phản bội, càng không thể chấp nhận đất nước ta cứ bị giam hăm măi trong tụt hậu…
Tôi viết không nản, c̣n v́ không muốn im lặng trước những vấn đề tôi thấy không nên im lặng, ít nhất là để chia sẻ suy nghĩ của ḿnh với mọi người. Vả lại tôi cũng có những bạn đọc thường xuyên – số đông trong họ là những người đă nghỉ hưu ở một số địa phương khác nhau trong nước và nước ngoài, nhận được từ họ ư kiến nhận xét đủ màu sắc – từ khen lên đến trời và chê c̣n hơn chửi độc: đồ ngu trung, con chim mồi… Song cũng không ít ư kiến của họ giúp tôi đào sâu suy nghĩ.
Tôi lắng nghe hết, chỉ xuưt xoa trong ḷng tại sao không thể tổ chức trong cả nước những diễn đàn trao đổi với nhau để cùng nhau học hỏi và rộng đường dư luận! Điều này cần thiết lắm cho đất nước, nhưng không thể - chỉ v́ cấm tự do ngôn luận! Đến mức trên 40% dân số cả nước dùng inhternet và mobile fone mà đất nước vẫn tŕ trệ kéo dài, ư chí dân tộc sa sút và phân hóa…
Cấm tự do ngôn luận chỉ che đậy được phần nào với hiệu quả gần như bằng không những cái sai và sự dối trá của người cầm quyền và chế độ. Nhưng cấm thế này trở thành sự buông bỏ hoàn toàn trận địa dư luận cho cái ác, cái xấu hoành hành. Trong bài toán «cấm» này, người cầm quyền trở thành kẻ ngu dốt và yếu kém, người bị hại là lợi ích quốc gia và quyền thông tin chính đáng của người dân, kẻ thắng lớn nhất là cái ác ngự trị đời sống đất nước.
Suốt gần 3 thập kỷ nay, tong mọi báo cáo, bài nghiên cứu, bài viết, thư gửi lănh đạo, trong các sách đă hoặc chưa xuất bản.., tôi luôn luôn nhấ quán quan điểm xuyên suốt :
Ǵn giữ mọi thành tựu và mọi vốn liếng đất nước phải trả bao xương máu mới có được, nhất quyết không phản bội một hy sinh nào, không một mất mát nào của đất nước được phép bỏ qua, t́m đường từ thực tại cải cách và phát triển để đưa nước ta đi lên – bằng sức mạnh của ḥa giải và đoàn kết dân tộc.
Tôi dứt khoát bác bỏ con đường cách mạng bạo lực, ngoại trừ xẩy ra trường hợp bất khả kháng, bởi v́
(1): Cuộc đời đă dạy tôi mọi cuộc cách mạng trên thế giới đến nay đều ăn thịt những đứa con của ḿnh, đến nay không một cuộc cách mạng nào trên thế giới đă thực hiên được lư tưởng tạo ra chính nó, v́ thực hiện những lư tưởng cao đẹp ấy chỉ có thể là nhiệm vụ của phát triển; chưa nói đến những quốc gia đă diễn ra những cuộc cách mạng mang tên các mùa hoa này nọ đang bị những hỗn loạn thời hậu cách mạng biến đất nước họ thành những miếng «da lừa» cho các hùm sói giành giật nhau đến hôm nay chưa có hồi kết!
(2): Tôi không chấp nhận đất nước ta 3 thế hệ liên tiếp đă phải gánh chịu 4 cuộc kháng chiến chống xâm lược, lại sẽ phải bước vào một cuộc bể dâu mới – v́ lẽ này, tôi kiên tŕ theo đuổi ư chí thay đổi ĐCSVN thành đảng của dân tộc. Ai nói ǵ mặc, với tinh thần c̣n nước c̣n tát, cho đến khi tôi thất bại hoàn toàn hoặc tôi thành công!
(3): Đ̣i hỏi tiên quyết cho sự phát triển đổi đời đất nước là vấn đề dân trí, trong thế giới hôm nay lại càng như vậy! Cuộc sống hôm nay h́nh như chỉ dành cho nước ta một con đường: Từ những thỏa hiệp và đồng thuận dân tộc nhỏ nhất tạo ra và tích tụ khả năng dưỡng sức dân, để tập trung tất cả cho nỗ lực nâng cao dân trí và đồng thời qua đó đẩy mạnh quá tŕnh ḥa hợp dân tộc. Đất nước chỉ có thể đi lên bằng trí tuệ của những công dân tự do của nó và sức mạnh của ḥa giải đoàn kết dân tộc trong một thể chế chính trị dân chủ và tiến bộ!
Nh́n lại con đường đất nước đă trải qua từ năm 1930 cho đến hôm nay, tôi rút ra kết luận từ nay trở đi, dân tộc Việt Nam ta cha chuyền con nối, cần đem tất cả nghị lực và ư chí thực hiện bằng được:
Một là: Nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giầu mạnh, tự do, hạnh phúc, là thành viên có năng lực, được tin cậy và được tôn trọng trong cộng đồng quốc tế.
Hai là: Nhiệm vụ tạo ra sức mạnh, trí tuệ và bản lĩnh thực hiện được là láng giềng của ḥa b́nh, hữu nghị, hợp tác b́nh đẳng và cùng phát triển bên cạnh Trung Quốc, được Trung Quốc tôn trọng![15]
Cá nhân tôi nguyện đem hết sức ḿnh phục vụ hai mục tiêu chiến lược này.
Bàn về lập luận: cấm tự do ngôn luận là đề pḥng độc hại
Độc ǵ? và hại ai? là cả một vấn đề.
Cuộc sống đất nước cho thấy: Cấm tự do ngôn luận, bưng bít thông tin và dối trá như đang làm, chỉ đem lại ngu dân, gây ra nhiều tổn thất lớn mọi mặt, làm suy yếu đất nước, chỉ chứng minh được sự yếu kém của chế độ toàn trị!
Pḥng độc & hại một cách hiệu quả với đúng nghĩa v́ lợi ích quốc gia là phải nâng cao dân trí.
Cho phép tôi ngay tại đây nói thế này:
Trong thế giới đă sang trang hôm nay để bước vào trật tự quốc tế mới, Việt Nam sẽ thắng hay thua, trước hết tùy thuộc vào dân trí!
Hiện nay Việt Nam đang thua thiệt trên nhiều mặt trong thế giới này, v́ chính sách ngu dân[16], chứ không phải v́ dân trí thấp. Thực trạng dân trí thấp ở mức rất nguy hiểm hiện nay ở nước ta không phải do nhân dân ta dốt nát, mà là do chính sách ngu dân của chế độ! Thực trạng này đang trở thành thách thức lớn nhất đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong một thế giới đầy biến động quyết liệt, lại vào giữa lúc đất nước đ̣i hỏi phải có những thay đổi sâu sắc!
Về dân trí, nói khái quát cho 43 năm qua theo tôi nh́n lại là thế này:
Ra khỏi chiến tranh, lẽ ra vấn đề dân trí nói chung và vấn đề giáo dục nói riêng của đất nước ngay tức khắc phải được trao cho một cuộc sống mới, một nội dung mới, để góp phần chuyển cuộc sống của đất nước từ thời chiến sang thời b́nh mở cửa ra thế giới, để sẵn sàng và chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới… Song trên thực tế chỉ làm vẻn vẹn có 2 việc: (a)tuyên truyền niềm tự hào không giới hạn về chiến thắng vinh quang – và chỉ có thế, đến mức trong nhiều bài viết tôi gọi là hiện tượng “mài quá khứ ra mà sống!”.., và (b)giương cao ư thức hệ của CNXH, khẳng định độc lập dân tộc gắn với CNXH.
Lúc đi vào thời chế độ toàn trị lên ngôi, nội dung trên c̣n được bổ sung thêm chính sách ngu dân trên thực tế, (de facto, do hệ quả của những chính sách khác nhau dẫn tới, nghĩa là không thành văn…).
Kêu dân trí nước ta thấp mà không nói tới nguyên nhân sự vật, đồng nghĩa đổ mọi tội lỗi cho dân!
Quá tŕnh tha hóa kéo dài hàng chục năm này dần dà đă h́nh thành nên ở nước ta một văn hóa của ngu dân và dân trí thấp. Thứ văn hóa này cùng với sự lên ngôi của chế độ toàn trị đang ngày càng ngự trị đời sống văn hóa đất nước. V́ thế, trong ḷng một chế độ chính trị định hướng XHCN xuất hiện quá nhiều hiện tượng hoang dă kinh hồn, đạo đức xă hội xuống cấp, sức sống năng động của đất nước bị chà đạp, bờ cơi bị xâm phạm..! Dù hôm nay mức sống nh́n chung của cả nước cao hơn nhiều so với lúc ra khỏi chiến tranh, đất nước đă giành được những phát triển nhất định, nhưng xin tha lỗi cho tôi: Tôi vẫn nghĩ đất nước ḿnh đang thời mạt vận, bên trong th́ hư đốn, bên ngoài th́ bị uy hiếp. Đau lắm! Tất cả dồn nén thành nỗi ai oán “ĐẤT NƯỚC M̀NH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH?” (Trần Thị Lam).
Thứ văn hóa này của chế độ toàn trị đang hồi sinh nhiều hủ lậu vốn có từ quá khứ, đầu độc suy nghĩ của nhân dân bằng nhiều quan điểm sai lầm, đánh lạc hướng những nỗi lo của đất nước bằng mọi cách, đồng thời tự nó góp phần đáng kể làm suy đồi đạo đức con người và ư chí của dân tộc.
Đem chất lượng đạo đức, văn hóa, xă hội của nước ta hiện nay so sánh với Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan, nếu bạn yêu nước ḿnh chắc chắn bạn sẽ rút ra được nhiều điều đau ḷng, có lẽ chỉ không nên so sánh với Trung Quốc!
Một ví dụ nữa: Trong khi câu hỏi «Liệu Singapore có thể sống sót trong thế giới hôm nay?» từ mấy năm nay đang trở thành nỗi lo và được bàn luận sôi nổi của cả quốc gia này để t́m đường sống, ở nước ta chỉ có duy nhất một khẩu hiệu «độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xă hội» như một thánh chỉ!
Quyền lực giao cho thánh chỉ tối thiêng nói trên chức năng chi phối và quyết định đời sống mọi mặt của đất nước, giữ vững định hướng này bằng mọi bạo lực tinh thần và vật chất! Giữa lúc này, đất nước ta đang đứng trước đ̣i hỏi quyết liệt: Toàn bộ sức sống và nguồn năng lượng quốc gia phải được giải phóng và hướng vào con đường xây dựng nước ta trở thành nước phát triển!..
Thực tế hai thập kỷ nay đang chứng minh thứ văn hóa này hoàn toàn đủ sức cùng với chế độ toàn trị giam cầm nước ta trong lạc hậu, bất công và lệ thuộc bên ngoài. Ở nhiều nước khác, nếu có thực trạng nội trị như ta hiện nay, có lẽ chế độ hiện hành phải sụp đổ tới ba, bốn lần rồi – tôi đă viết rơ ra như thế, trong đó có một số lần đă gửi đến lănh đạo ĐCSVN – trực tiếp hoặc qua đường bưu điện.
Mới đây nhất, báo chí đăng tải Quy định 102 và quy định 105 của Đảng về những vấn đề nội bộ đảng, và bản mẫu nội dung kiểm điểm hàng năm của đảng viên. Những văn bản này của ĐCSVN tự nó phản ánh đậm nét nội dung và hệ quả của văn hóa chế độ toàn trị đang ngự trị đất nước – bắt đầu ngay từ trong đảng ra ngoài xă hội. Những văn bản này tự nó nói lên mức suy thoái trầm trọng trong đảng… Bởi lẽ tính tự giác và tiền phong chiến đấu của đảng viên hầu như không c̣n nữa hay sao? Nếu thế đảng phải tự nh́n lại ḿnh ghê gớm lắm: Hư như thế mà sao vẫn đ̣i quyền lănh đạo?.. Đi qua 4 cuộc kháng chiến, đảng viên chúng tôi hồi đó đâu cần phải có quy định nào!.. Hệ thống hỏng, th́ quy định nào giữ được?..
Một số người trong nước đau đớn tự hỏi: Tại sao dân ḿnh ngu lâu, hư lâu, dễ bị lừa, măi không chịu lớn?.. C̣n thế giới bên ngoài đă có ư kiến (trong đó sau này có Lư Quang Diệu) gọi ta là nước không chịu phát triển, là NATO (No Action,Talk Only)…
Phải nói đất nước chúng ta đổi đời được hay không? trong thế giới đă sang trang đi vào trật tự quốc tế mới hôm nay, sẽ phải bắt đầu từ đất nước chúng ta thắng hay bại trong loại bỏ thứ (nền) văn hóa cấu thành từ hủ lậu của quá khứ cộng sinh với văn hóa ngu dân của chế độ toàn trị hôm nay sản sinh ra. [Cách đây hơn một thế kỷ Phan Châu Trinh đă khắc khoải nói lên với cả nước đ̣i hỏi tiên dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.]
Thứ văn hóa này đă và đang kư sinh trên những yếu kém của từng người dân chúng ta, phát triển thành nhiều gốc rễ ḅ lan khắp đất nước, ngày đêm đầu độc tâm hồn Việt, nó có tuổi đời đến nay là 43 năm! Xin được gọi trong một cái tên chung: Đấy là thứ văn hóa của chế độ toàn trị.
Nhưng nếu nói nước ta đang thua thiệt nhiều mặt, có quá nhiều vấn đề tệ hại v́ quan trí thấp, tôi tán thành không do dự!
Xin chia sẻ như vậy để cùng suy nghĩ.
C̣n một thứ vơ thông qua mọi loại h́nh quan hệ trên các lĩnh vực, đẩy mạnh thâm nhập của quyền lực mềm mọi dạng, với một núi tiền sẵn sàng mua mọi thứ - ít tiền không xong th́ nhiều tiền hơn, nham hiểm một không thắng th́ nham hiểm hai, ba, bốn… cho đến khi đạt mục tiêu, được vận dụng theo nguyên lư không đánh mà thắng có từ thời Tôn Tẫn, không giết mà vẫn chết của môn cờ vây, không dùng súng đạn nhưng hạ gục đối phương bằng lư thuyết tṛ chơi [17]. Quyền lực mềm này đang củng cố những trận địa kinh tế đă án ngữ được, chiếm thêm những trận địa mới trong những lĩnh vực khác (văn hóa, chính trị, tư tưởng, an ninh…), khi cần thiết có thể dọn dẹp sẵn trận địa cho xâm lược vũ trang của một đội quân lớn nhất thế giới có thể đè bẹp các đối tượng tại chỗ, chớp nhoáng gây ra những «chuyện đă rồi!» nào đó. Đă xuất hiện những lời đe dọa không thể rơ hơn (tướng Phạm Trường Long dọa ta về Biển Đông)! V… v… Phải chăng lúc ẩn lúc hiện đă và đang phảng phất một bức tranh như thế trên bầu trời nước ta?
Xin hăy thử đặt ra những con tính kinh tế, làm những việc cân đối các nhu cầu của quốc gia, đặt ra những bài toán t́nh thế, giả định những t́nh huống bất khả kháng (forces majeures), ai - ở đâu - và chuẩn bị sẵn sàng cái ǵ, những kịch bản...? Mặt trận nhân dân, mặt trận kinh tế, mặt trận ngoại giao, mặt trận quân sự v… v... Xong rồi, đem so sánh, đối chiếu với mọi chuẩn bị, tính toán, sẵn sàng của ta, sự trang bị thông tin, tinh thần và trí tuệ cho nhân dân, v… v…… Có lẽ khó mà nói, Việt Nam chúng ta đă ư thức đầy đủ về nguy cơ và tầm vóc xâm lăng mềm và rắn như vậy. Càng khó nói là chúng đă động năo, động chân, động tay ở mức thỏa đáng, đạt tới sự pḥng ngừa tin cạy…
Song trong tôi c̣n có một nỗi lo khác nữa: Liệu khả năng đề kháng dân tộc ta c̣n giữ được cho đến hôm nay sẽ mang lại sự đề kháng phải có? Hay là với hệ quả của một văn hóa trong đó có vốn cổ tích «tấm, cám», nay được nhào luyện thêm thứ văn hóa ngu dân 43 năm nay của chế độ toàn trị, nó sẽ có thể c̣n đẻ thêm ra cái ǵ nữa?!.. Mối nguy này không nhỏ! Hiện nay đă và đang âm thầm diễn ra hiện tượng di tản qua xuất khẩu lao động hay dưới h́nh thức được cho cái tên là “tỵ nạn giáo dục”, doanh nhân bỏ ra ngoài sinh sống... Trong ḷng đất nước đang có hiện tượng di tản tại chỗ: ḷng người rời bỏ hay quay lưng lại đối với chế độ chính trị!
Xin đừng bao giờ quên trong thời kháng chiến chống Pháp và chống MỸ, mối nguy lớn nhất của quốc gia là dân tộc bị chia rẽ, v́ thế đất nước đă phải trả giá rất đắt! Cho đến hôm nay nước ta chưa có tổng kết nghiêm túc để nhận thức sâu sắc mối nguy này và những hệ lụy của nó. Hôm nay mối nguy này đang tiềm tàng trong những vấn đề mới của đất nước và trong bối cảnh quốc tế mới, nguyên nhân chính là những yếu kém của chế độ toàn trị!
Chỉ có khi nào dân là một, dân và chế độ chính trị là một, khi ấy cả nước sẽ là một núi chắn bất khả kháng đối với bất kỳ loại sóng thần hay xâm lăng nào có thể xảy ra, bất kể nó từ đâu đến. Là một như thế, đất nước này không một ai trên thế giới này có thể biến nó thành vật đổi chác! Là một như thế, nhân loại văn minh – kể cả nhân loại văn minh trong ḷng 1,3 tỷ dân Trung Quốc, sẽ đứng về phía chúng ta, đồng thời dân tộc ta cũng sẽ trở thành một bộ phận gắn bó của nhân loại văn minh ấy. Chân lư là một như thế đă có từ thời Diên Hồng.
Bất chấp sự khuynh đảo hiện nay của thứ văn hóa của chế độ toàn trị, cái gen Diên Hồng của dân tộc ta là bất diệt!
Ṭa nhà Quốc hội hiện nay pḥng họp chính có tên là Diên Hồng, song người ngồi trong đó – chứ không phải ai khác, đang làm cho tên gọi này chưa có nội dung. Đă đến lúc phải vượt qua mọi sao nhăng, làm tất cả để xác lập lại ngay bây giờ và măi măi ư chí là một như thế!
Xin lưu ư cho, dù một ngh́n năm Bắc thuộc, đất nước này vẫn làm nên Bà Triệu, Hai Bà Trưng... Dù thời thế làm cho tan tác, đất nước này vẫn dấy lên bông lau Đinh Bộ Lĩnh làm cờ dựng lại cơ đồ… Trên con đường lịch sử vạn dặm đầy thử thách mất / c̣n này cho đến ngày nay, đất nước này đă tạo ra, và cuối cùng luôn luôn là không bao giờ đánh mất cái gen là một của ḿnh trong mọi t́nh huống bị vùi giập, cho dù bị vùi giập thế nào đi nữa! Kẻ thù của đất nước, dù là ai, luôn luôn ngán cái gen này! 4 cuộc kháng chiến vừa qua đă chứng tỏ như vậy.
Trong hiện tai, cái gen này chắc chắn sẽ tiếp tục làm tan tác mọi ư đồ và bạo lực muốn vùi giập đất nước này một lần nữa - dù là như thế nào và do ai.
Tuy nhiên, tôi ước ao, nhiệm vụ của mọi người dân Việt chúng ta hôm nay và măi măi các thế hệ sau này, là phải làm cho mỗi bản thân chúng ta và cả nước, từ nguồn gen này quyết trưởng thành lên thành một quốc gia phát triển của một dân tộc tự do, chủ động làm nản mọi ư đồ muốn vùi giập đất nước ta. Đơn giản v́:
Sống là phát triển, muốn sống phải phát triển, gen nào cũng vậy! Từ gen phát triển tiếp tục lên th́ sống được. Nhưng biến đổi gen sẽ đồng nghĩa với diệt vong!
Tôi cầu mong khát vọng này là đúng và được tự giác bàn đến trong cả nước và trong toàn thể cộng đồng người Việt ta ở nước ngoài, được lựa chọn, được quyết định!
Về Ban Nghiên cứu và Viện Nghiên cứu phát triển (IDS)
Suốt thời gian từ khi về hưu đến nay, tôi tham gia tổ nghiên cứu của thủ tướng Vơ Văn Kiệt, Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn khải, Viện Nghiên cứu phát triển (IDS). Ngoài ra tôi c̣n tham gia một số diễn đàn của các tổ chức dân sự (NGO).
Dưới đây xin nêu ra đôi điều đáng ghi nhớ.
Trước hết nói về tổ và Ban nghiên cứu (1993-2006, bao gồm thời kỳ Tổ nghiên cứu của thủ tướng Vơ Văn Kiệt, Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ thời thủ tướng Phan Văn Khải và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) Xin gọi chung là Ban, v́ thực chất là một công việc xuyên suốt, thống nhất.
Từ khi h́nh thành là một “tổ”, rồi trưởng thành là “Ban”, cho đến khi bị giải thể là 13 năm (1993-2006). Khi thành Ban, người trưởng Ban đầu tiên là anh Trần Đức Nguyên, người tiếp theo là anh Trần Xuân Giá, và đồng thời cũng là người sau này được tận tay trực tiếp nhận văn bản quyết định giải thể Ban, mặc dù ngày hôm trước c̣n được yêu cầu bàn về công việc của Ban.
Trong kết cấu của tổ chức này, c̣n tổ kinh tế đối ngoại, là một đơn vị riêng, song có sự hợp tác mật thiết với Ban. Tổ do anh Đậu Ngoc Xuân làm tổ trưởng, có các thành viên là anh Nguyễn Mại, anh Phạm Gia Toàn và tôi. Tổ này thời kỳ đầu c̣n nhiều thành viên khác.
Ban gồm các chị các anh đă nghỉ hưu, từ nhiều cơ quan khác nhau, có bề dày nhất định về kiến thức và kinh nghiệm – có những cây cổ thụ là Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn, Việt Phương, Trần Đức Nguyên... Số đương chức chiếm tỷ lệ rất nhỏ và chỉ giữ vai tṛ cái khung hành chính của Ban. Ngay từ đầu, chúng tôi thỏa thuận với nhau nguyên tắc “5 không, một có”. Đó là: không lương, không chức vụ, không dưới ai, không trên ai, không vụ lợi, có trách nhiệm với ư kiến của ḿnh.
Trong làm việc và mọi mối quan hệ với nhau, chúng tôi không ai bảo ai, ngay từ đầu hoàn toàn tự giác mang vào tổ chức này tác phong: dân chủ, cởi mở, tranh luận đến cùng, tôn trọng lẫn nhau.. – cứ như là những đặc tính tự nhiên và tất nhiên của Ban vậy.
Sản phẩm của toàn Ban có chất lượng tăng dần theo ngày tháng và cũng đúng với sự phát triển từng bước của Ban, phù hợp với đ̣i hỏi của công việc, càng về sau Ban càng chủ động chú ư tham gia nhiều hơn vào những vấn đề chính trị hệ trọng của đất nước.
Cả đời công tác của ḿnh, có lẽ Ban là cái tập thể duy nhất tôi có được – nói cho hoành tráng – để cùng nhau vẫy vùng cho những ǵ tốt đẹp ḿnh mong muốn cho đất nước. Tại đây, tôi học được rất nhiều – nhất là phương pháp tiếp cận vấn đề rất riêng của mỗi người, cách nghĩ, cách giải quyết… Sự độc đáo riêng như vậy của mỗi người là những gợi ư, những bổ sung vô giá cho hiểu biết và phương pháp làm việc của tôi. Rơ ràng, học không bao giờ là muộn và ở tuổi nào cũng học được! Theo tôi, yếu tố quan trọng nhất dẫn đến chất lượng làm việc này của Ban có lẽ là sự cởi mở chân thật! Không ngại giấu dốt, nhưng cũng không phải giữ ư, dè dặt v́ chuyện này chuyện kia!..
Một nguyên nhân thành công nữa là Ban luôn luôn bám sát cuộc sống, cố tránh nói chay, nói lư… Trong thời gian này, phải nói các thành viên của Ban lặn lội rất nhiều nơi trong nước, ngoài nước, học hỏi các nước nhưng đồng thời không rời thực tiễn rất gai góc của đất nước.
Những đóng góp của Ban vào xây dựng Luật Doanh nghiệp đă được ban hành dưới thời thủ tướng Phan Văn Khải là một ví dụ tiêu biểu cho sự nỗ lực và phương pháp làm việc này của Ban.
Tôi muốn nói thêm thế này: Chính chúng tôi cũng trưởng thành lên rất nhiều trong quá tŕnh cùng với các cơ quan khác và những nhà kinh tế khác của đất nước đă cùng nhau xây dựng nên Luật này.
Thực tế cũng chứng minh: Các thành viên của Ban không nằm trong biên chế cán bộ Văn pḥng Chính phủ là những đầu mối liên hệ lư tưởng cho h́nh thành sự hợp tác rộng nhiều địa phương trong cả nước từ Bắc chí Nam và hợp tác liên ngành rất đáng mong đợi. Thực tế này mang lại cho Ban nhiều thông tin và nhận thức quan trọng.
Cá nhân tôi xin cảm ơn các thành viên này như chị Chi Lan, chị Nguyễn Thị Hiền, các anh Đào Xuân Sâm, Lê Đăng Doanh, Đào Công Tiến, Nguyễn Văn Kư, Vơ Đại lược, Trần Hậu, Nguyễn Phú Hiệp, Nguyễn Lê, Tạ Đ́nh Thính, Nguyễn Sỹ Dũng, Đinh Văn Ân, Lưu Bích Hồ, Nguyễn Văn Miện, vân vân … về ân huệ tôi được hưởng này.
Riêng về kinh tế, tôi thực sự có ấn tượng sâu sắc về những phản biện trong lĩnh vực kinh tế của chị Phạm Chi Lan và chị Nguyễn Thị Hiền, v́ luôn luôn bám sát những diễn biến rất đa chiều trong đời sống kinh tế đất nước và có những lỹ lẽ, dẫn chứng thuyết phục, tŕnh bày rành mạch.
Trong tấm gương về phong cách làm việc tận tụy, tôi nhớ đến anh Tương Lai, người đă cùng với học tṛ của ḿnh lặn lội ngày đêm ở Quỳnh Phụ - Thái B́nh, (1997) mang về cho chúng tôi những nhận xét, đánh giá xác thực tại chỗ. Cùng với những thông tin từ những chuyến khảo sát khác nhau của các thành viên khác trong sự kiện Hà Tây và tại một số địa phương khác, Ban chúng tôi qua đó đă tổng hợp được cho ḿnh những quan điểm và h́nh thành được cái nh́n toàn diện về cụm vần đề nông dân - nông nghiệp - nông thôn rất hệ trọng của nước ta. Trong những lĩnh vực sản xuất công nghiệp, FDI, xuất nhập khẩu… công việc nghiên cứu của Ban có chất lượng một phần quan trọng là nhờ mạng lưới rộng và liên ngành như vậy.
Nh́n chung những kiến nghị của Ban (đặc biệt là vào dịp Hội nghị Trung ương 4 khóa đại hội VIII 1996-2001) tập trung vào đ̣i hỏi của đất nước về thay đổi chính sách và thể chế hành chính. Hôm nay nh́n lại có thể nói: Nội dung những đề nghị này từ các khía cạnh khác nhau thực chất đă đặt ra vấn đề cần xúc tiến cải cách chính trị.
Tổng hợp lại có thể kết luận: Những đóng góp của Ban trong 13 năm này trên lĩnh vực kinh tế vỹ mô và hệ thống chính trị nếu như được chấp nhận và thực hiện, trên đất nước đă có thể manh nha và h́nh thành được ở mức độ nhất định nào đấy như là những bước đi mở đầu vỡ vạc cho một cuộc cải cách chính trị, mà lănh đạo đảng đă tránh né ngay từ khi tiến hành đổi mới 1986, và Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01-2004) đă đưa ra 4 nguy cơ đă loại bỏ hẳn đ̣i hỏi này.
Viện Nghiên cứu phát triển[18]
(IDS, *27-09-2007 to -14-09-2009)
Một hôm, ít lâu sau khi IDS được thành lập, anh Quang A và anh Chu Hảo đến thăm tôi trong bệnh viện, mời tôi tham gia IDS. Phần th́ chúng tôi vốn chơi với nhau từ lâu và rất biết nhau, phần th́ IDS đáp ứng đúng nguyện vọng lâu nay của tôi, ngay lập tức tôi cảm ơn và nhận lời mời. Trong ḷng vui lắm và mừng cho đất nước, cảm ơn những người sáng lập.
Tôi không dám nói IDS là một think tank, nhưng sự thật nó là một tổ chức đang lớn lên với dáng vóc như thế, có thể xem đây là lần đâu tiên trong xă hội dân sự của đất nước XHCN của chúng ta có một viện nghiên cứu tư nhân những vấn đề vỹ mô của đất nước. Số thành viên cũng như nguồn lực tài chính của IDS rất khiêm tốn. Tuy nhiên có thể nói IDS rất giầu nhiệt t́nh gắn bó với vận mệnh của đất nước và cũng giầu có như thế trong khả năng huy động thông tin và kiến thức từ mọi nơi trên thế giới. Chúng tôi hy vọng rất nhiều: Với vốn liếng về sự gắn bó với thực tiễn cuộc sống đất nước và với mọi thông tin & kiến thức thu thập được, chúng tôi hoàn toàn hy vọng có thể giúp ích đất nước. Nhất là chúng tôi mong đợi sự có mặt của IDS trong cuộc sống sẽ khơi dậy những hoạt động như thế trong mọi nguồn trí tuệ của đất nước. Hai năm tồn tại và hoạt động của IDS cũng như sự hưởng ứng của xă nội đă nói lên điều này.
Xin hăy thử h́nh dung, điều ǵ sẽ đến nếu trí tuệ trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự vận động của đất nước chúng ta!?. Song chính triển vọng này lại là lư do chế độ chính trị phải cấm IDS!
Nh́n lại những ǵ đă xảy ra, có thể nói IDS là nguyên nhân đầu tiên của việc h́nh thành và ra đời quyết định kèm theo văn bản pháp quy của sự cấm đoán này cho mọi hoạt động tương tự trong cả nước!
Toàn viện chúng tôi đă bàn luận với nhau rất nhiều mọi chiều cạnh, đi đến kết luận phải chủ động tuyên bố tự giải thể, để IDS với chính danh là một tổ chức think tank có thể làm được việc cuối cùng nó phải làm: Đánh thức dư luận cả nước trước việc làm sai trái này của chính quyền. Cũng với mục đích này, tôi xin chép lại tại đây toàn văn tuyên bố ngày 14-09-2009 của IDS để bạn đọc tham khảo và t́m hiểu:
Tuyên bố của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS
IDS|14/09/2009
Ngày 24-7-2009 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng kư Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ban hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ (sau đây gọi là Quyết định 97), có hiệu lực từ ngày 15-09-2009.
Viện Nghiên cứu phát triển IDS nhận thấy Quyết định 97 có những sai phạm nghiêm trọng sau đây:
Một là: Điều 2 của Quyết định 97 không phù hợp với thực tế khách quan của cuộc sống.
Khoản 2, điều 2 trong quyết định này ghi: cá nhân thành lập tổ chức khoa học công nghệ “chỉ hoạt động trong lĩnh vực thuộc Danh mục ban hành kèm theo Quyết định này. Nếu có ư kiến phản biện về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, cần gửi ư kiến đó cho cơ quan Đảng, Nhà nước có thẩm quyền, không được công bố công khai với danh nghĩa hoặc gắn với danh nghĩa của tổ chức khoa học và công nghệ.”
Như vậy khoản 2 của điều 2 bao gồm 2 điểm chính là:
(1) các lĩnh vực được phép nghiên cứu quy định trong danh mục kèm theo Quyết định, và
(2) không được công bố công khai ư kiến phản biện với danh nghĩa của một tổ chức khoa học và công nghệ.
Về vấn đề danh mục các lĩnh vực được phép tổ chức nghiên cứu:
Cuộc sống vô cùng phong phú, có nhiều vấn đề chưa biết đến, luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, luôn luôn đặt ra những đ̣i hỏi mới, cần có các quyết sách mới và các giải pháp thích hợp. V́ vậy không thể bó khuôn mọi vấn đề được phép nghiên cứu trong cuộc sống vào một danh mục dù danh mục ấy có rộng đến đâu. Quy định như vậy sẽ bó tay các nhà khoa học, những người nghiên cứu độc lập, hạn chế sự đóng góp của họ vào việc xây dựng chính sách đổi mới và phát triển đất nước.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo nhằm khám phá các quy luật vận động trong tự nhiên và xă hội; từ đó tạo ra công nghệ mới, hoạch định chính sách phát triển và nâng cao dân trí để thúc đẩy xă hội tiến lên. Trong cuộc sống c̣n có những lĩnh vực, những vấn đề đă trở nên lỗi thời hoặc đă bị vượt qua. Thực tế này cũng là một đối tượng quan trọng của công việc nghiên cứu, nhất là trong t́nh h́nh một quốc gia phải ra sức phấn đấu khắc phục t́nh trạng nghèo nàn và lạc hậu. Trong một xă hội tiến bộ, công việc nghiên cứu với tính cách như vậy không thể đóng khung trong một danh mục gồm các lĩnh vực được quy định như đă nêu trong Quyết định 97.
Trong khi đó, công văn ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (thừa ủy quyền của Thủ tướng trả lời thư ngày 6-8-2009 của Viện IDS gửi Thủ tướng) cho rằng cách quy định một danh mục các lĩnh vực cho phép cá nhân được thành lập tổ chức nghiên cứu là thông lệ ở nhiều nước trên thế giới, có nước quy định một danh mục cho phép, có nước quy định một danh mục cấm, hoặc cả hai. Chúng tôi đă t́m hiểu kỹ th́ chưa thấy nước nào có quy định danh mục các lĩnh vực được phép nghiên cứu khoa học. V́ vậy cách trả lời trong công văn của Bộ Tư pháp là không trung thực, thiếu trách nhiệm. Cho đến nay, trên thế giới, việc phân loại các lĩnh vực khoa học là để thống kê, so sánh, không thể lấy đó làm căn cứ để quy định các lĩnh vực được phép nghiên cứu. Cách làm như Quyết định 97 sẽ bị dư luận chê cười, làm hại uy tín của lănh đạo và của đất nước.
Ư kiến trong công văn của Bộ Tư pháp cho rằng Quyết định vẫn để mở, sẽ tiếp tục nghiên cứu bổ sung dần các lĩnh vực cho phép, là một cách biện bạch gượng gạo, bởi v́ “cho phép” th́ không bao giờ đủ. Không ai có thể “cho phép” đời sống sẽ được phát triển đến đâu. Thực chất với Quyết định này, “cho phép” tức là cấm, và vùng cấm rộng gấp ngàn lần vùng được phép.
Về vấn đề phản biện:
Quá tŕnh đi lên của đất nước chưa có con đường vạch sẵn, cuộc sống có vô vàn vấn đề thuộc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phản biện để có thể xử lư đúng đắn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có rất nhiều ư kiến phản biện về đường lối chính sách bị cất hầu như không có thời hạn trong các “ngăn kéo” của các cơ quan chức năng hoặc của những người có thẩm quyền có liên quan. Có quá nhiều phản biện dưới mọi dạng như kiến nghị, đề nghị, thư, tài liệu nghiên cứu… không bao giờ được hồi âm.
Ví dụ nổi bật nhất là cải cách giáo dục – một vấn đề sống c̣n của sự phát triển đất nước, một yêu cầu bức xúc của xă hội đang được dư luận và giới nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm, phản biện công khai sôi nổi từ nhiều năm nay nhằm thực hiện những nghị quyết của Đại hội Đảng và các Hội nghị Trung ương Đảng về cải cách giáo dục. Tuy vậy, sự phản biện này chưa được đánh giá và tiếp thu nghiêm túc.
Một ví dụ khác gần đây là vấn đề bô-xít, được coi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Sự phản biện công khai, quyết liệt vừa qua của rất nhiều nhà khoa học và các hiệp hội thuộc các lĩnh vực khác nhau đă góp phần thúc đẩy việc ban hành quyết định ngày 24-04-2009 của Bộ Chính trị lưu ư những vấn đề phải quan tâm trong khai thác bô-xít ở Tây Nguyên. Tuy vậy, c̣n biết bao nhiêu phản biện quan trọng khác trong vấn đề khai thác bô-xít ở Tây Nguyên vẫn c̣n bị bỏ ngỏ.
Trong t́nh h́nh nêu trên, cấm các tổ chức khoa học công nghệ do các cá nhân thành lập phản biện công khai như nêu trong Quyết định 97 thực chất là cấm phản biện xă hội, hệ quả sẽ khôn lường.
Khoản 2 trong điều 2 của Quyết định 97 không viết thành văn nhưng hàm ư để ngỏ khả năng: cá nhân được phép phản biện công khai với tư cách riêng của ḿnh. Như vậy, sẽ không thể giải thích:
(a) Tại sao cá nhân th́ được phản biện công khai, c̣n tổ chức, tức trí tuệ tập thể và liên ngành được tập họp để có thể có chất lượng cao hơn, th́ lại không? Quy định chỉ cho phép cá nhân phản biện công khai tạo thuận tiện cho việc vô hiệu hóa hay h́nh sự hóa việc phản biện của cá nhân? Phải chăng quy định như vậy ngay từ đầu đă mang tính chất không khuyến khích phản biện, mà có hàm ư làm nản ḷng, thậm chí hăm dọa sự phản biện của cá nhân.
(b) Tại sao trong nhà nước pháp quyền theo định hướng xă hội chủ nghĩa, một văn bản pháp quy có tầm quan trọng như vậy lại có thể được thiết kế như một cái bẫy và để ngỏ khả năng cho việc vận dụng cái bẫy đó?
Hai là: Việc cấm phản biện công khai là phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ.
– Cấm như vậy là phản khoa học, bởi lẽ: Bất kể một phản biện nào nếu không chịu sự “sát hạch” công khai, minh bạch trong công luận, sẽ khó xác định phản biện ấy là đúng hay sai, độ tin cậy của nó, sự đóng góp hay tác hại nó có thể gây ra, khó lường được các khả năng sử dụng hoặc lợi dụng việc phản biện này.
– Cấm như vậy là phản tiến bộ, bởi lẽ: Người dân sẽ không biết đến các phản biện đă được đề xuất hay các vấn đề đang cần phải phản biện, càng không thể biết chất lượng và tác dụng của những phản biện ấy, không biết nó sẽ được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, tiếp thu hay xử lư như thế nào. Phản biện và tiếp thu phản biện không công khai sẽ không thể tranh thủ được sự đóng góp xây dựng từ trí tuệ trong và ngoài nước, hạn chế khả năng sáng tạo t́m ra con đường tối ưu cho sự phát triển đất nước và vứt bỏ lợi thế của nước đi sau. Trên hết cả, cấm như vậy là cản trở việc nâng cao trí tuệ và bản lĩnh của người dân, cản trở vai tṛ làm chủ đất nước của nhân dân. Cấm như vậy chẳng khác nào biểu hiện chính sách ngu dân.
– Cấm như vậy là phản dân chủ, bởi lẽ: Nhân dân – người chủ của đất nước – sẽ thiếu những thông tin để tự ḿnh t́m hiểu, đánh giá mọi vấn đề có liên quan của đất nước mà họ không thể không quan tâm. Cấm như vậy là tước bỏ hay làm giảm sút khả năng của nhân dân giám sát, kiểm tra, đánh giá hay đóng góp xây dựng, h́nh thành và nói lên các ư kiến của họ, tán thành hay bác bỏ một chủ trương nào đó; trên thực tế là cấm hay ngăn cản quyền của nhân dân tham gia vào công việc của đất nước. Cấm như vậy là ngược với tiêu chí Nhà nước của dân, do dân và v́ dân.
Ba là: Quyết định 97 có nhiều điểm trái với đường lối của Đảng và vi phạm pháp luật của Nhà nước.
– Trước hết, đối với Hiến pháp, điều 2 trong Quyết định 97 vi phạm Điều 53 quy định công dân có quyền tham gia quản lư Nhà nước và xă hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; Điều 60 quy định công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng tác; Điều 69 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật.
– Đối với Luật Khoa học và công nghệ, điều 2 Quyết định 97 không phù hợp với tinh thần của Luật này coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, khuyến khích sự tham gia nghiên cứu của các tổ chức và cá nhân, Nhà nước đảm bảo và hỗ trợ sự thực hiện những kết quả nghiên cứu, khuyến khích các hội khoa học và công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xă hội và tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ… v.v.
– Đặc biệt quan trọng là Quyết định 97 có nhiều điểm trái với tinh thần và nội dung Nghị quyết số 27 – NQ/T.Ư “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” mới được ban hành tháng 10-2008. Nghị quyết này nhấn mạnh thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức v́ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ, văn minh.
– Việc ban hành Quyết định 97 c̣n vi phạm khoản 2 và khoản 4 Điều 67 trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là đă bỏ qua tŕnh tự bắt buộc phải công bố dự thảo quyết định trước ít nhất 60 ngày trước khi kí để bảo đảm sự tham gia ư kiến của dân. Trong công văn trả lời Viện IDS, Bộ trưởng Bộ Tư pháp lập luận rằng: quyết định 97 được xây dựng và ban hành đúng luật v́ toàn bộ các bước soạn thảo, lấy ư kiến, thẩm định dự thảo quyết định đă được hoàn tất trong năm 2008 khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi năm 2008) phải đến 1-1-2009 mới có hiệu lực. Sự biện bạch này không thể chấp nhận được. Quá tŕnh soạn thảo, thẩm định bắt đầu từ bao giờ, kéo dài bao lâu, là việc nội bộ của các cơ quan hữu trách. Nhân dân, là những người chịu tác động của Quyết định, chỉ có thể biết ngày ban hành chính thức của Quyết định 97 là ngày 24-7-2009, hơn 7 tháng sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực. Như vậy rơ ràng là việc ban hành Quyết định 97 vi phạm luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. V́ sao một quyết định quan trọng liên quan đến một lĩnh vực lớn được coi là quốc sách hàng đầu, lại được thực hiện môt cách vội vă và tùy tiện như vậy.
Có thể kết luận, Quyết định 97 nếu được thực hiện sẽ làm nặng nề thêm thực trạng thiếu công khai minh bạch rất nguy hại cho việc xây dựng và thực thi pháp luật, làm trầm trọng thêm t́nh trạng tụt hậu hiện nay của đất nước.
* * *
Trong gần 2 năm hoạt động, Viện Nghiên cứu phát triển IDS đă làm được một số việc có ích cho đất nước, đóng góp ư kiến xây dựng đối với một số vấn đề hay chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, được dư luận xă hội, đặc biệt là giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Mọi hoạt động của Viện IDS từ ngày thành lập cho đến nay đều tiến hành đúng pháp luật, công khai, minh bạch.
Tuy nhiên trong thời gian qua, tồn tại dai dẳng một số nhận xét sai lệch của cơ quan an ninh về Viện IDS, thậm chí cho rằng Viện nhận tiền của nước ngoài và có hoạt động chống đối Nhà nước… Ngày 16-01-2009 Viện IDS đă có thư gửi các vị lănh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước nêu rơ quan điểm của Viện về những nhận định sai trái này, song tiếc rằng cho đến nay bức thư này của Viện chưa nhận được bất kể một hồi âm nào.
Ngay sau khi có Quyết định 97, Hội đồng Viện IDS đă thảo luận, phân tích những chỗ sai cả về thủ tục và nội dung của quyết định này. Với ư thức tôn trọng Chính phủ và Thủ tướng, và để biểu thị thiện chí của ḿnh, Hội đồng Viện chúng tôi nhất trí chưa bày tỏ ư kiến công khai mà trước hết gửi thư ngày 6-8-2009 nêu rơ với Thủ tướng những chỗ sai của Quyết định 97 và kiến nghị cách giải quyết nhằm tránh các hệ quả bất lợi về nhiều mặt.
Sau khi gửi thư, đại diện của Hội đồng Viện được mấy vị lănh đạo mời gặp, riêng Thủ tướng mời gặp hai lần; nhân dịp đó chúng tôi tŕnh bày rơ thêm và trao đổi ư kiến thẳng thắn về những nhận xét và kiến nghị đă nêu trong thư.
Viện IDS đă kiên tâm chờ đợi. Ngày 11-9-2009, Chủ tịch Hội đồng Viện IDS được Bộ trưởng, chủ nhiệm Văn pḥng Chính phủ thừa ủy quyền của Thủ tướng mời đến VPCP và trao cho hai văn bản. Một là công văn số 3182/BTP-PLDSKT ngày 8-9-2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng trả lời Hội đồng Viện Nghiên cứu phát triển IDS về những điều nêu trong thư của Viện gửi Thủ tướng ngày 6-8-2009. Hai là công văn số 1618/TTg-PL ngày 10-9-2009 của Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP thừa ủy quyền của Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và công nghệ ra văn bản hướng dẫn thi hành Quyết định 97 và thu thập ư kiến để kiến nghị bổ sung danh mục ban hành theo quyết định này.
Hai công văn này cho thấy tất cả các kiến nghị của Viện IDS về Quyết định 97 đều không được chấp nhận.
Toàn viện IDS và từng thành viên đă hết sức đề cao tinh thần trách nhiệm công dân, ư thức kỷ luật và thiện chí, nhưng những cố gắng đó đă không được đáp ứng.
Trước t́nh h́nh như vậy, với một quyết định hạn chế đến mức vô lư quyền nghiên cứu của một tổ chức khoa học, Viện nghiên cứu phát triển IDS không thể tiếp tục hoạt động theo sứ mệnh đă xác định trong mục tiêu ghi vào Điều lệ của ḿnh. Chấp nhận hoạt động theo Quyết định 97, viện IDS và các thành viên sẽ không thể làm đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương Đảng về trí thức mới ban hành, đồng thời không thể làm tṛn trách nhiệm công dân và nghĩa vụ người trí thức của ḿnh.
Ngày 14-09-2009, Hội đồng Viện IDS đă họp phiên toàn thể, quyết định tự giải thể để biểu thị thái độ dứt khoát của Viện đối với Quyết định 97. Quan điểm của Viện chúng tôi được tŕnh bày trong tuyên bố này và được công bố kèm theo các tài liệu liên quan [1]. Chúng tôi cũng giữ quyền sử dụng tiếp các công cụ pháp lư để bảo vệ sự trong sáng của luật pháp.
Làm tại Hà Nội ngày 14-09-2009
Các thành viên Hội đồng IDS đă kư
1/ Hoàng
Tụy, Chủ tịch Hội đồng IDS
2/ Nguyễn Quang A, Viện trưởng
3/ Phạm Chi Lan, Phó Viện trưởng
4/ Phan Đ́nh Diệu
5/ Lê Đăng Doanh
6/ Vũ Kim Hạnh
7/ Chu Hảo
8/ Phạm Duy Hiển
9/ Vũ Quốc Huy
10/ Tương Lai
11/ Phan Huy Lê
12/ Nguyên Ngọc
13/ Trần Đức Nguyên
14/ Huỳnh Sơn Phước
15/ Trần Việt Phương
16/ Nguyễn Trung
Kết thúc phần này, cá nhân tôi xin chân thành cảm ơn anh chị Hoàng Tụy tuy tuổi cao nhưng đă sống hết ḷng với IDS (chị Ngọc Anh đă mất). Anh Tụy cho chúng tôi một gương sáng về sự trung thực của người làm khoa học và những nỗ lực không mệt mỏi của anh cho cải cách giáo dục.
Tôi học được rất nhiều ở anh Quang A về sự cống hiến tận tụy cho IDS, và cũng nhân dịp này xin bày tỏ sự trân trọng của riêng tôi dành cho anh về sự dấn thân quyết liệt và không mệt mỏi của anh cho dân chủ và tiến bộ của đất nước. Đất nước chúng ta hôm nay đang rất cần những sự dấn thân xây dựng và có hiểu biết của mỗi cá nhân như thế trong cộng đồng dân tộc chúng ta, cố sao tạo ra được tiếng nói chung và nỗ lực chung cùng nhau đưa đất nước chúng ta đi lên.
Viết đến đây, tôi nhớ lại hôm nào cụ Nguyễn Trọng Vĩnh và các anh Việt Phương, Trần Đức Nguyên, Phạm Duy Hiển, Nguyễn Hữu Vinh, Xuân Diện, anh, tôi và một vài anh nữa đi thắp hương tại đài tưởng niệm các liệt sỹ tại Ba Đ́nh – Hà Nội, vào dịp nhớ đến ngày TQ tiến hành chiến tranh chống nước ta trên biên giới phía Bắc, song bị bảo vệ dứt khoát ngăn cản. Sau đó chúng ta đành dựng hoa và thắp hương phía bên kia đường bái vọng lại! Thật là buồn. Ít lâu sau Nguyễn Hữu Vinh bị bắt và kết án tù v́ trang Anh Ba Sàm, chúng ta đă làm hết cách mà không sao cứu được! C̣n nhiều chuyện buồn như thế trong trấn áp quyết liệt mitting, biểu t́nh phản đối những hành động thù địch của TQ trên Biển Đông, tôi đă điểm lại vài sự việc và nêu trong tiểu thuyết “Lũ” (chương 26).
Trong “vùng trời” hoạt động của IDS tôi “giầu” lên rất nhiều, v́ được gần gũi và học được rất nhiều ở những con người dễ mến ở mọi nơi. Tất cả đều thiện chí, cởi mở, dù tuổi đời giữa chúng tôi khác nhau thế nào… Thực sự họ là những người uyên bác, có tư duy sắc sảo và luôn luôn sẵn sàng chia sẻ… Các anh Đặng Hữu, Phạm Duy Hiển, Huệ Chi, Hoàng Xuân Phú, Trần Văn Thủy, Trần Văn Thành, Phạm Gia Khải, Nguyễn Văn Trọng, Phạm Gia Minh… … là những người luôn luôn mang đến cho tôi những điều buộc tôi phải động năo suy nghĩ. Xin cảm ơn tất cả các anh, được sống với nhau như thế nên chúng ta không thể lười được!..
Trong những năm tháng được tham gia Viện VIDS (Viện Nghiên cứu phát triển) của anh Thang Văn Phúc và anh Nguyễn Vi Khải, có một kỷ niệm buồn tôi nhớ măi. Đó là VIDS và Trung tâm minh triết của anh Nguyễn Khắc Mai đă phối hợp với tỉnh ủy Đà Nẵng tổ chức lễ thắp nến trên băi biển Đà Nẵng tưởng nhớ các chiến sỹ đă hy sinh trong bảo vệ Gạc Ma và những đảo khác ở Trường Sa đă bị TQ đánh chiếm. Cùng với lễ thắp nến trên băi biển là những hoạt động khác trong đất liền, bao gồm triển lăm tường thuật cuộc chiến bảo vệ Gạc Ma, tố cáo những hành động TQ xâm lược biển đảo, họp báo, hội thảo... Anh Nguyễn Khắc Mai, anh Vi Khải, anh Đinh Hoàng Thắng và tôi đă về tận nơi phối hợp với chính quyền và đoàn thể Đà Nẵng tổ chức chu đáo mọi việc. Song khoảng 12 tiếng đồng hồ trước khi tiến hành lễ thắp nến trên băi biển, tỉnh ủy thông báo cho chúng tôi: Có lệnh của trên phải dừng lại mọi hoạt đông ngoài trời, toàn bộ những hoạt động đă dự định chỉ được phép tiến hành trong nhà tại nơi triển lăm, hội thảo, họp báo! Đành phải thực hiện đúng như thế. Song các cháu thanh niên và nhân dân vẫn tự bảo nhau mang nến ra thắp trên băi biển, có tốp mang theo bức trướng ghi 2 câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Biển Đông vạn dậm giang tay giữ - Đất Việt muôn năm vững trị b́nh” do anh Nguyễn Khắc Mai sưu tầm.
VIDS và Trung tâm minh triết c̣n làm được nhiều việc đáng nhớ khác, kỷ yếu của VIDS là một ấn phẩm được nhiều độc giả hoan nghênh.
Kiến nghị 72 về sửa đổi Hiến pháp (19-11-2013)
Việc sửa đổi Hiến pháp 1992 được cả nước coi là sự kiện trọng đại và tham gia sôi nổi. Một số thành viên của Ban Nghiên cứu đă bị giải thể và của Viện Nghiên cứu phát triển đă phải tự giải thể đă cùng với nhiều nhân vật và nhân sỹ các ngành nghề khác nhau trong cả nước – tổng cộng là 72 người, soạn thảo Bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992, làm tại Hà Nội ngày 19-01-2013. Kiến nghị này do 72 người soạn thảo và kư tên, nên có tên gọi Kiến nghị 72.
Nội dung cốt lơi của Kiến nghi 72 là bỏ Điều 4, xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ trên nguyên tắc tam quyền phân lập, xác lập quyền làm chủ đất nước của nhân dân và các quyền công dân, sửa đổi quyền sở hữu đất đai, sửa đổi và bổ sung một số quyền và nội dung khác…
Toàn văn Kiến nghị 72 xin được chép lại tại đây như sau:
KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ư kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những người Việt Nam kư tên dưới đây, xin tŕnh bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ư kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lănh thổ và phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân và được h́nh thành từ sự thỏa thuận giữa các thành phần đa dạng trong xă hội. Dự thảo chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà nước bằng các cơ chế đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không thể vượt quá giới hạn được ấn định. Kiểm soát từ bên ngoài đối với công quyền được thực hiện bởi nhân dân với vai trò quan trọng của xă hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, biểu t́nh,...
Hiến pháp phải mang tính chính đáng được đo bằng nhiều tiêu chí. Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, kiến tạo tự do, dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng thời đoàn kết toàn dân, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ hai, hiến pháp phải thể hiện ư chí chung của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để lập ra các cơ quan nhà nước. Thứ ba, hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ biến của thế giới văn minh, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt nam đă tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt chúng tôi kiến nghị 7 điểm như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rơ mục tiêu của hiến pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an b́nh và hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời nói đầu cần xác định rơ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
“Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đă dựng xây và bảo vệ đất nước, đă đấu tranh v́ độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân,
v́ một xă hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, v́ tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.”
Trong Chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đ̣i hỏi phải tôn trọng ư của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đối với nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không còn lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đ̣i hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng Sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đă từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lănh đạo chính trị được xă hội chấp nhận.
Kiến nghị thứ hai về quyền con người.
Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người.
Dự thảo đă điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không tách rời nghĩa vụ” (Điều 20). Dự thảo c̣n quy định quá nhiều nghĩa vụ một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo các lư do về quốc pḥng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xă hội, ổn định chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, ... nhằm hạn chế những quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người, đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đă diễn ra trong thực tế những năm qua ở nước ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đă tham gia.
Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được thực thi nghiêm túc như hiện nay, th́ việc quy định các quyền ấy cũng trở nên vô nghĩa. V́ vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc gia về Quyền con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai.
Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đă tồn tại từ lâu trên đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đă gây ra rất nhiều bất ổn xă hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là duy tŕ quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của tảng băng ch́m hết sức nguy hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Dự thảo c̣n “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế - xă hội; đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xă hội.
V́ thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo, trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lư đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xă hội như nêu trong Điều 58 của Dự thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước.
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ṛi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Ṭa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang.
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lănh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ư đối với Hiến pháp.
Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với quyền lập pháp của Quốc hội. V́ vậy phải có trưng cầu dân ư để phúc quyết Hiến pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: "Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ư được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới."
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ư kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ư kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. V́ vậy, thời hạn lấy ư kiến của nhân dân chỉ trong ṿng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến t́nh trạng làm một cách h́nh thức cho qua chuyện. V́ vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ư kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy Ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên sẽ phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc - những đ̣i hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất nước.
Chúng tôi tha thiết mong mỏi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng bản Kiến nghị này bằng cách đăng kư tham gia kư tên theo địa chỉ thư điện tử :
Hà nội ngày 19 tháng 1 năm 2013
Kèm theo kiến nghị trên, một số chuyên gia luật ở trong nước đă soạn một dự thảo hiến pháp được gửi kèm Kiến nghị này như một tài liệu để tham khảo. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là một chỗ dựa quan trọng cho dự thảo hiến pháp này.
Song tiếc thay, quan điểm của chỉ đạo tối cao là Hiến pháp không được xa rời Cương lĩnh của ĐCSVN, do đó đă bỏ lỡ một cơ hội trọng đại cho phép mở ra một giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trên thực tế, kết quả đạt được là một Hiến pháp cơ bản như cũ, với tinh thần quyền lực quốc gia là thống nhất dưới sự lănh đạo toàn diện và tuyệt đối của ĐCSVN.
Kiến nghị 72 bị bác bỏ. Kiến nghị này và những người tham gia kư tên chịu sự phỉ báng gay gắt của báo chí lề phải và dư luận viên. Lần đầu tiên người dân được nghe trên Chương tŕnh Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2/2013 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT Nguyễn Phú Trọng: “… Vừa rồi đă có các luồng ư kiến th́ cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ ǵ nữa … Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai tṛ lănh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có những quan điểm ấy đấy!… Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Th́ như thế là suy thoái chứ c̣n ǵ nữa! Chỉ ở đâu nữa nào? … Tham gia đi khiếu kiện, biểu t́nh, kư đơn tập thể … th́ nó là cái ǵ?! … Cho nên các đồng chí (cần) quan tâm xử lư cái này...”
Riêng tôi cho rằng kể từ 30-04-1975, việc sửa đổi Hiến pháp với kết quả nêu trên là lần thứ 4 bỏ lỡ cơ hội mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới[19].
Thư ngỏ của 61 đảng viên 28-07-2014
Trước thềm đại hội XII của ĐCSVN t́nh h́nh đất nước có quá nhiều rối ren. Bên trong là tệ nạn tham nhũng trầm trọng, sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích trong hệ thống quyền lực, hệ thống chính trị sa đọa ngày càng trấn áp dân, thậm chí Đảng đứng trước nguy cơ phân ră. Bên ngoài Trung Quốc gia tăng can thiệp vào nội bộ ta, đẩy mạnh quân sự hóa trên Biển Đông, o ép nước ta trên nhiều phương diện; giữa lúc cục diện thế giới và khu vực ngày càng nhiều biến động lớn. Trong khi đó, quá tŕnh chuẩn bị Đại hội XII hầu như chỉ tập trung vào vấn đề nhân sự. Thực tế này làm nhiều đảng viên vô cùng lo lắng.
Đấy là nguồn gốc ra đời của Thư ngỏ ngày 28-07-2014 do 61 đảng viên kư tên, tiêu biểu nhất là thiếu tướng đảng viên Nguyễn Trọng Vĩnh. Con số 61 là ngẫu nhiên, chủ yếu mang tính đại diện trải khắp Bắc – Trung – Nam, tập trung vào nội dung của thư ngỏ là chính, hơn nữa thời gian rất gấp, do đó không đặt ra vấn đề phải có nhiều người kư tên.
Sau đây xin chép lại toàn văn Thư ngỏ và danh sách kư tên.
Ngày 28 tháng 07 năm 2014
Kính gửi:
Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xă hội theo mô h́nh xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị ḱm hăm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong khi đó, giới lănh đạo Trung Quốc từ lâu đă theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đă có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ư thức hệ xă hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dă tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đă đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau ḷng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lănh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về t́nh h́nh nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đă gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.
V́ vậy chúng tôi, những người kư tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện v́ nước v́ dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:
1. Trước t́nh thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của ḿnh, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xă hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn ḥa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về t́nh h́nh mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, ḥa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu t́nh yêu nước, đối với các tổ chức xă hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đă và đang bị kết án h́nh sự chỉ v́ công khai bày tỏ quan điểm chính trị của ḿnh.
2. Lănh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lănh thổ trong mọi t́nh huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng ḥa thuận, hợp tác b́nh đẳng, vun đắp t́nh hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đă kư kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra ṭa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, băi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của ḿnh.
Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc ḿnh, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!
*
DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KƯ THƯ NGỎ 28-07-2014
______________________
1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lư kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.
6. Tạ Đ́nh Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lư Thủ tướng Vơ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.
9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà Tuấn Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô Ḥa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài G̣n Giải phóng.
15. Vơ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn pḥng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ Đ́nh Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn pḥng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xă hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương tŕnh PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội (đă mất).
24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
26. Vơ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư kư Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
29. Hạ Đ́nh Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài G̣n, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư kư của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh
31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha Lương Ngăi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài G̣n Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.
33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đă nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài G̣n trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
42. Vơ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.
48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.
54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.
55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần Đ́nh Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1997, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn Nguyên B́nh, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.
_____________________
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:08
Toàn bộ những vấn đề nêu trong thư ngỏ 61 hôm nay vẫn là những vấn đề sống c̣n của đất nước, không thể khác được, nhất thiết phải thực hiện để đưa đất nước ra khỏi bế tắc hiện nay. Song đem đối chiếu với phẩm chất và năng lực hiện nay của quyền lực đảng và hệ thống chính trị hiện hành, chỉ có thể kết luận: quyền lực đảng và hệ thống chính trị chẳng những có sự bất cập quá lớn, mà c̣n đang ngày càng trở thành thành trở lực đối kháng những đ̣i hỏi phát triển của quốc gia! Thực tế khách quan này đang thách thức quyết liệt từng đảng viên, không một ai có thể tránh né!
Các văn bản Tuyên bố của IDS, Kiến nghị 72 và Thư ngỏ 61 tuy bị quyền lực cai trị đất nước bác bỏ quyết liệt, song chắc chắn những vấn đề trọng đại của đất nước được nêu trong 3 văn bản này trước sau là những vấn đề mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thế giới khắc nghiệt hôm nay đ̣i hỏi phải thực hiện.
Có thể nói đấy là những văn bản được viết bằng tất cả tâm huyết, ư thức trách nhiệm với tổ quốc và nhân dân, có sự cân nhắc cẩn trọng mọi bề của những người kư tên. Tất cả những kiến nghị đă nêu ra đều cố gắng bám sát thực tế cuộc sống của đất nước, cố chắt lọc những kinh nghiệm, những bài học của đất nước và của các nước khác trên thế giới, của lịch sử.., để chọn lọc ra được cho đất nước những vấn đề bức xúc nhất thiết phải giải quyết và hướng giải quyết.
Sự thai nghén và ra đời của mỗi văn bản bao giờ cũng bắt đầu từ những bàn luận cặn kẽ, trước hết của những người đề xướng, rồi đến những người được mời tham gia, quyết định yêu cầu và nội dung văn bản, giao cho một nhóm biên soạn bản khởi thảo, tiến hành thảo luận dự thảo đầu tiên, rồi tiến hành tiếp những ṿng thảo luận như thế, cho tới khi h́nh thành được văn bản chính thức.
Trong quá tŕnh này chúng tôi cũng phải “chuyên môn hóa” để công việc xuôn xẻ và kịp thời gian: tập thể lập ra nhóm được tặng cho cái tên là “3 ông đầu rau”, chưng dụng tôi vào việc lănh hội ư kiến của tập thể, tập hợp các bản khởi thảo hay bản thảo thành một bản thảo chung; anh Việt Phương làm nhiệm vụ rà xoát nội dung bản thảo chung; anh Trần Đức Nguyên gọt rũa lại các phần và lên khuôn hoàn chỉnh văn bản của bản thảo chung để những người tham gia quyết định. Bộ 3 này có nhiệm vụ đưa ra tập thể bản thảo chung đầu tiên và làm mọi việc tiếp theo cho đến khi tập thể thông qua được văn bản chính thức. Chúng tôi là 3 ông già lọ mọ, chỉ có chưa đến nỗi gàn bát sách thôi, mỗi người một nơi, làm việc với nhau nhờ email. Rất may là được mấy anh trẻ hơn và giỏi nghiệp vụ máy tính hỗ trợ đắc lực! Bộ 3 ông đầu rau chúng tôi bây giờ khuyết một rồi: Anh Việt Phương!
Cũng buồn, việc chưa thành mà bộ 3 đă khập khiễng!
Một chuyện khác về 3 ông đầu rau
Trong 2 năm chuẩn bị Đại hội XII, có thể nói 3 chúng tôi đứng ngồi không yên. Mỏi mắt t́m và căng tai nghe, trong sự chuẩn bị cho đại hội không t́m đâu được lấy một chữ nói về cục diện thế giới đă sang trang đi vào trật tự quốc tế mới – nhất là vấn đề Trung Quốc đă trở thành vấn nạn của thế giới và là thanh gươm Damocles lơ lửng trên đất nước ta, đ̣i hỏi của đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới, v… v… Nội dung dự thảo báo cáo chính trị hoàn toàn theo kiểu ngựa quen đường cũ… Bao nhiêu kiến nghị đúng đắn của đảng viên cũng như người ngoài đảng, bao nhiêu ư kiến và bài viết xây dựng.., tất cả chỉ như đước đổ lá khoai!..
Lo quá, tôi đề nghị với anh Việt Phương và anh Trần Đức Nguyên, và được cả hai anh đồng ư:
Chúng ta, với tư cách là những người lâu năm làm việc tại cơ quan đầu năo của đảng và nhà nước phải có ư kiến với Bộ Chính trị mọi việc liên quan đến Đại hội XII và kiến nghị những giải pháp cần thiết. Chủ trương phải nói thật, nói hết với tập thể Bộ Chính trị khóa XI, dưới dạng nói chuyện nội bộ, không đưa ra ngoài dư luận công khai.
Chúng tôi phân công nhau: Tôi tŕnh bầy báo cáo tổng quan để mở đầu, anh Việt Phương và anh Trần Đức Nguyên bổ sung và tŕnh bày thêm một số vấn đề chuyên, những kiến nghị cụ thể... Chúng tôi dự kiến chỉ tŕnh bầy trực tiếp với Bộ Chính trị, danh nghĩa chính thức là như vậy, tuy rằng không nhất thiết phải có mặt đầy đủ các ủy viên Bộ Chính trị, song dứt khoát sẽ không tŕnh bầy với bất kể ai do Bộ Chính trị cử đi nghe chúng tôi nói ǵ rồi về chuyền đạt lại với Bộ Chính trị - v́ 2 lẽ: bảo mật, và tránh tam sao thất bản. Chúng tôi đề nghị trực tiếp tŕnh bầy với Bộ Chính trị c̣n v́ lẽ dứt khoát phải tránh mọi hiểu lầm chung quanh câu chuyện bênh người này, bài bác người kia; v́ đấy không phải là công việc của chúng tôi. C̣n nếu chỉ một ủy viên Bộ Chính trị nào muốn nghe chúng tôi tŕnh bầy, chúng tôi cũng sẵn sàng, song sẽ phải có bảo lưu nhất định riêng biệt đối với từng người, không thể là những điều chúng tôi dự kiến sẽ tŕnh bầy trước tập thể Bộ Chính trị.
Chúng tôi dự kiến toàn bộ buổi tŕnh bầy gói ghém trong 1 giờ đồng hồ.
Thống nhất với nhau như vậy, chúng tôi gửi một thư cả ba cùng kư tên đến anh Trần Quốc Vượng, bí thư và chánh Văn pḥng Trung ương Đảng, nhờ báo cáo với Bộ Chính trị đề nghị của chúng tôi và tổ chức buổi tŕnh bầy.
Rất tiếc thư không có hồi âm.
Đại hội XII diễn ra như nó phải diễn ra, theo sự chuẩn bị dành cho nó[20].
…
Tại sao cứ phải kinh tế hạ nguồn?
Trước hết, xin nói từ những năm là vụ trưởng kinh tế ở Bộ Ngoại giao, tôi đă quan tâm đến vấn đề này, t́m hiểu t́nh h́nh các quốc gia châu Phi và một số nước đang phát triển ở nơi khác, rút ra kết luận: Chủ nghĩa thực dân mới Trung Quốc đă vượt xa chủ nghĩa thực dân mới của Âu châu trong việc bóc lột tài nguyên ở những nước này, và để lại đấy nguyên trạng phát triển như trước khi nó đến, ngoại trừ những khác biệt mới do môi trường tự nhiên bị hủy hoại và thêm một số tàn tích neo-colonialist khác made by China...
Vậy xin tạm hiểu: Kinh tế hạ nguồn là kinh tế khai thác tài nguyên khoáng sản, sản xuất các nguyên liệu khoáng sản, dầu thô, sắt, thép…, với những đặc điểm tỷ lệ lợi nhuận thấp, chiếm nhiều rừng núi, khu mỏ, đất đai, tiêu hao nhiều năng lượng, nước, gây ô nhiễm môi trường nặng nề, v… v… Ngay từ giữa thế kỷ 20 các nước phát triển đă t́m cách di chuyển kinh tế hạ nguồn sang các nước đang phát triển. Nói đơn giản: Đấy là những ngành kinh tế lạc hậu.
Học được những kinh nghiệm như vậy, trong những hội thảo cấp nhà nước của ta về chiến lược phát triển tôi được tham dự hai - ba thập kỷ trước đây, tôi luôn luôn theo đuổi quan điểm hạn chế xuống mức thấp nhất kinh tế hạ nguồn ở nước ta. Lư do: Nước ta đất ít, người đông, mật độ dân số cao nhất châu Á, không gian sinh tồn kinh tế của nhân dân ta rất hẹp, lợi bất cập hại, phải ưu tiên dành không gian sinh tồn kinh tế cho những ngành nghề phát uy được tiềm năng con người, sinh lợi nhiều hơn và thân thiện với môi trường hơn… Thậm chí đă có lần tôi phát biểu ở Ủy ban kế hoạch nhà nước: Ngay cả những mỏ than ở Quảng Ninh, nếu bắt thực hiện nghiêm túc khâu hoàn nguyên vùng đất/mỏ đă khai thác, hầu như chắc chắn sẽ không một mỏ than nào ở đấy có thể hoạt động có lăi! Tôi đă đề nghị cần sớm tính đến giảm sản lượng và giảm xuất khẩu than ở đây. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, với lư do phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân và công ăn việc làm của họ! Vân vân… Bây giờ th́ nước ta đang hàng năm phải nhập khẩu than!
- Vậy tại sao hầu hết cho đến hôm nay các tỉnh rất sính phát triển kinh tế hạ nguồn?
- V́ dễ kiếm chác nhất bỏ túi, c̣n mọi hệ quả và hệ lụy trước mắt hay lâu dài đă có dân hay đất nước chịu!
Thậm chí một thời gian dài tồn tại sự đánh tráo khái niệm có thể nói là vô liêm sỉ - ví dụ như đưa các sản phẩm khai thác quặng, cát, đá vôi… vào nhóm “sản phẩm công nghiệp” để báo cáo với nhà nước thành tích nâng cao tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong tính toán GDP tỉnh, với mọi dụng ư vụ lợi rất tiêu cực. Trong khi đó thứ “tỷ trọng” này càng cao, về dài hạn đất nước càng nghèo khó và lụn bại. Thực trạng này của đất nước hiện nay h́nh như chưa thay đổi bao nhiêu!
Xin điểm lại trong phần này một vài trải nghiệm khó quên.
Câu chuyện bauxite Tây Nguyên
Trong lần tháp tùng thủ tướng Vơ Văn Kiệt đi thăm Iceland năm 1995, tôi ngạc nhiên thấy quốc gia đảo ở giữa Bắc Đại Tây Dương mênh mông này có công nghiệp sản xuất nhôm rất phát triển. Để có được sản phẩm này có nghĩa quặng bauxite phải đi hàng ngàn cây số đến đây, và sản phẩm nhôm cũng phải đi hàng ngàn cây số như thế đến những nơi tiêu thụ. Tôi hỏi bà thủ tướng Iceland và được giải thích: Khoảng cách xa đối với vận tải biển không thành vấn đề lắm, quốc đảo Iceland có quá nhiều địa nhiệt điện (do núi lửa) và không biết để làm ǵ, nên sản xuất nhôm là ưu việt nhất, quặng từ tầu biển đổ thẳng vào nhà máy, xử lư bùn đỏ và chất thải đổ ngay xuống biển, nên mọi chi phí về vận tải và môi trường rất thấp, giá thành sản phẩm thấp, tỷ lệ lợi nhuận cao…
Tôi tưởng rằng bà thủ tướng giải thích cho ḿnh thế là đầy đủ, toan cảm ơn, nhưng bà thủ tướng nói thêm: Iceland đang tính toán, hoặc là gia tăng khâu tự động hóa để giữ nguyên sản lượng nhôm, hoặc bớt hẳn sản xuất nhôm, v́ ngày càng nhiều người dân quốc đảo này bỏ công nghiệp nhôm để chuyển sang ngành công nghiệp tin học… - bởi v́ toàn quốc đảo trên 100 ngh́n Km2 này chỉ có khoảng 35 vạn dân!
Câu chuyện bauxite/nhôm như vậy đến với tôi hoàn toàn ngẫu nhiên, và ngủ lại trong tôi như hàng trăm hàng ngh́n câu chuyên ngẫu nhiên khác tôi gặp trên đời này. Bẵng đi khoảng một chục năm sau, khoảng năm 2006 – 2007 ở nước ta rộ lên câu chuyện bauxite Tây Nguyên. Như một phản sạ tự nhiên, tôi hiểu ngay đây là câu chuyển chẳng lành rồi, v́ ngoài các lư do kinh tế - kỹ thuật – môi trường tự nhiên – văn hóa – dân sinh… của khai thác sản phẩm này không có lợi cho nước ta, c̣n có lư do Trung Quốc đối với vùng đất cực kỳ quan trọng và cực kỳ nhạy cảm này của nước ta trên phương diện an ninh.
Tôi tham gia vào 2 tổ chức phi chính phủ (NGO) là SPERI và CODE để cùng với các tổ chức NGO khác trong cả nước bàn luận và vận động dừng 2 dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), dừng khai thác bauxite Tây Nguyên nói chung.
Việc đầu tiên phải làm là tôi lên mạng t́m hiểu sự vận động của toàn bộ công nghiệp nhôm trên thế giới từ khâu sản xuất đến khâu thương mại để xây dựng những quan điểm của tôi về ngành công nghiệp này ở nước ta. Tôi đi tới được kết luận: V́ những lư do kinh tế, môi trường, địa lư và địa chất tự nhiên, dân sinh (bao gồm cả vấn đề các dân tộc ít người), văn hóa, an ninh và quốc pḥng nhất thiết nên gác lại toàn bộ vấn đề khai thác bauxite Tây Nguyên một thời gian dài cho đến khi xuất hiện những điều kiện hoàn toàn mới khác sẽ xem lại sau.
Tôi hiểu việc gác lại như vậy vấn đề khai thác bauxite Tây Nguyên có tầm quan trọng như một mệnh lệnh của quốc gia!
Một số nhà khoa học, học giả - trong đó có anh Nguyên Ngọc, người mà tôi vinh danh là “người con của Tây Nguyên” và đă giúp chúng tôi có những lập luận xác đáng phải bảo vệ môi trường và văn hóa Tây Nguyên – và các thành viên của CODE, SPERI, và một số tổ chức khác… Tham gia cùng với họ đi đi về về mấy năm liền trên Tây Nguyên để t́m hiểu tại chỗ, tôi đă viết khá nhiều bài tŕnh bày quan điểm của ḿnh, kể cả trực tiếp gửi cho lănh đạo đảng và nhà nước…
Rất may, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA – thời anh Hồ Uy Liêm) hậu thuẫn rất tích cực mọi nỗ lực của chúng tôi, huy động các chi hội ở các tỉnh cùng tham gia. Khi công việc đến thời kỳ quyết định, anh Hồ Uy Liêm, chủ tịch VUSTA, thay mặt toàn thể các tổ chức NGO và chúng tôi, và cũng nhân danh VUSTA, chính thức tŕnh bày với trung ương Đảng và Chính phủ đề nghị dừng lại dự án khai thác bauxite Tây Nguyên. Lần đầu tiên ở nước ta có một sự đối thoại như thế - nói nôm na: đối thoại giữa một bên là tiếng nói của xă hội dân sự, và một bên là đại diện của hệ thống chính trị/nhà nước về vấn đề trọng đại của quốc gia. [Thế mà hệ thống chính trị hiện nay vẫn dị ứng với xă hội dân sự như đỉa dị ứng với vôi!]
Có thể nói, chúng tôi đă làm mọi việc có thể với tất cả tâm huyết và hiểu biết của ḿnh, để bảo vệ bằng được Tây Nguyên!
Tiếc thay, chúng tôi không thành công, hoặc không thành công được bao nhiêu. Trong chúng tôi cũng có anh chị em đánh giá là đă thành công được một nửa: Thông báo của Bộ Chính trị số 245 TB/TW ngày 24-04-2009 nói khai thác bauxite Tây Nguyên là chủ trương nhất quán của Đảng từ Đại hội IX, cho phép tiến hành triển khai 2 dự án nói trên… được hiểu là làm thí điểm (người phổ biến thông báo nói miệng như vậy, song thực ra nội dung trên văn bản thông báo câu chữ không nói rơ hẳn ra ư này)[21].
Trong thực tế, vấn đề khai thác bauxite Tây Nguyên được coi là một dự án quan trọng, đă được ghi trong tuyên bố chung Giang Trạch Dân – Nông Đức Mạnh 03-12-2001 tại Bắc Kinh, trong thông cáo chung Nông Đức Mạnh – Hồ Cẩm Đào 17-11-2006 tại Hà Nội và trong tuyên bố chung Hồ Cẩm Đào – Nông Đức Mạnh 02-06-2008 tại Bắc Kinh, nên không thể thay đổi được nữa (!).
2 công tŕnh alumina Tân Rai và Nhân Cơ nói trên hoàn toàn có thể thi đua với tất cả những công tŕnh công nghiệp lớn khác do Trung Quốc xây dựng trên toàn Việt Nam về giá công tŕnh bị đội lên cao ngất ngưởng, công nghệ thấp, tiêu hao và lăng phí nguyên liệu / năng lượng, ô nhiễm môi trường… và mọi chuyên đau đầu khác.
2 xí nghiệp này hiện nay càng sản xuất càng lỗ - cách giải thích là “lỗ theo kế hoạch” không đứng vững được nữa, đồng thời luôn luôn thường trực những tai nạn môi trường nguy hiểm. Tất cả đang diễn ra đúng như các ư kiến phản biện trong cả nước đă cảnh báo. Chưa nói đến một vấn đề nan giải hàng ngày: Riêng vấn đề vận tải hàng trăm cây số đường Tây Nguyên với khối lượng cả đi và về của cả 2 nhà máy khoảng trên 2 triệu tấn / năm (nhiên liệu than và sản phẩm alumina) bằng những xe siêu trường siêu trọng làm nát bét hệ thống đường xá hiện có, phải giải quyết thế nào? Lấy tiền ở đâu? Chi phí này là ngân sách nhà nước chịu...
2 xí nghiệp này đang trong t́nh trạng bỏ th́ thương, vương th́ tội – nghĩa là duy tŕ hay xóa bỏ chúng đều là những gánh nặng lớn cho đất nước và ngay cho cả 2 địa phương trên nhiều phương diện – không biết đến bao giờ!.. Thực ra ngay từ đầu lúc mới động thổ khởi công, riêng tôi đă chính thức đề nghị - kể cả bằng thư trực tiếp gởi lănh đạo - giải thể 2 xí nghiệp này càng sớm càng tốt, bao gồm cả h́nh thức bán sắt vụn; v́ như thế vẫn c̣n nhẹ gánh hơn cho đất nước – cho dù phải trả nợ cho 2 công tŕnh này! Bây giờ có lẽ quá muộn để tính đến một giải pháp cực đoan như thế!
Biết làm sao bây giờ?
Hiện đang có dự kiến đưa sản phẩm alumina của 2 nhà máy này vào sản xuất nhôm ngay trên Tây Nguyên – giữa lúc Tây Nguyên đang thiếu cả điện và nước! Một con bạc cháy túi đang khát nước!?
Trong quá tŕnh đi khảo sát Tây Nguyên, càng đi tôi càng xót xa: chỉ cần dùng 1/3 hay 1/2 khoản đầu tư cho 2 xí nghiệp này vào phát triển một Tây Nguyên xanh, chắc chắn chúng ta đă sớm có ngay một Tây Nguyên hoàn toàn khác, và sẽ cải thiện được đáng kể đời sống của nhân dân toàn vùng, ngân sách có thêm nguồn thu mới chứ không phải mang nợ như hiện nay! Trong khi đi vận động băi bỏ khai thác bauxite Tây Nguyên, tôi đă tŕnh bày kỹ quan điểm này.
Formosa – Hà Tĩnh
Một bài toán khó khác.
Lần đầu tiên tôi được biết đến Formosa – Hà Tĩnh là trong cuộc hội thảo do tỉnh ủy Hà Tĩnh tổ chức, chính thức công bố với cả nước dự án này trước khi đi vào khởi công. Hội thảo rất hoành tráng, có đại biểu từ khắp cả nước và các Bộ, Ban, ngành.., trong đó có nhiều đại biểu các trường đại học, viện nghiên cứu… Một nghi lễ ra mắt dự án đúng hơn là một hội thảo – không hiểu tại sao người ta sính dùng ngôn từ một cách lung tung có dụng ư thế này!?. Thành phần các đại biểu lên nói trên diễn đàn này rất rôm rả, ngợi ca nhiệt t́nh...
Anh Nguyễn Mại, anh Phạm Gia Toàn và tôi được mời dự với tư cách là Tổ kinh tế đối ngoại trong Ban Nghiên cứu của thủ tướng Chính phủ. Càng nghe, tôi càng lo, v́ dự án vô cùng đồ sộ, nhưng tất cả đều nói xuôi chiều. Tôi quyết định đăng kư xin phát biểu cuối cùng trước khi sang phần nghi thức bế mạc.
Sự thật được mời đi dự hội thảo như thế th́ đi thôi, tôi không biết mô tê ǵ về dự án này, song các con số giới thiệu tại hội thảo về quy mô các mặt của dự án làm tôi lo lắng: Một công tŕnh vô cùng đồ sộ của kinh tế hạ nguồn ngay trên đất Hà Tĩnh không thể nói là giầu có về các nguồn lực, nhất là các nguồn lực của tự nhiên như đất đai, nước, khí hậu…
Tôi lên phát biểu rất ngắn – v́ lúc này có nói dài cũng không ai nghe nữa. Đại ư: Tôi xin lỗi là tôi khác ư kiến với các đại biểu nói trước. Dự án càng đồ sộ, tôi càng lo. Giữa lúc này trong những điều kiện hiện tại của nước ta và của ngay địa phương Hà Tĩnh, mở rộng kinh tế hạ nguồn sẽ có rất nhiều thách thức, các nguồn đầu vào khan hiếm, vấn đề môi trường sẽ có thể là thách thức rất lớn, lại là nước đi sau nữa, khó đuổi kịp về công nghệ và càng khó cạnh tranh, trong khi đó thị trường sắt thép trong khu vực rất phong phú nếu không muốn nói là băo ḥa. Mừng cho địa phương có dự án lớn, nhưng rất mong xem xét, tính toán lại kỹ các mặt để không bị bất ngờ.
C̣n phải giữ lễ xă giao, nên tôi hoàn toàn không nói đến nỗi lo của tôi về chính trị - v́ ngồi nh́n lên bản đồ tại hội thảo, tôi thấy công tŕnh Formosa – Hà Tĩnh dễ cắt đôi đất nước ta khi cần!.. Vả lại đây không phải là diễn đàn để nói chuyện này.
Ngay sau hội thảo này, tôi bắt đầu quan tâm ráo riết đến Formosa – Hà Tĩnh. Tôi có chỗ dựa tin cạy là anh Nguyễn Kư, nguyên chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh. Anh Nguyễn Kư đồng t́nh với những lo lắng của tôi và giúp tôi dần hiểu thêm nhiều chi tiết khác.
Nhưng khi xảy ra thảm họa ô nhiễm biển miền Trung, báo chí chỉ nói là sự cố, nhiều điều đáng sợ mới được phơi bầy ra ánh sáng: từ cách thức dự án ra đời, quá tŕnh phê duyệt siêu tốc, đánh giá ĐMC và ĐTM sơ sài, diện tích cho thuê quá lớn và thời gian cho thuê gúa dài, giá thuê gần như cho không, kiểm soát của địa phương và của Bộ vô cùng lỏng lẻo… Ngoài ra c̣n những hiện tượng can thiệp của quyền lực mềm Trung Quốc liên quan đến những xô xát với công nhân Trung Quốc trong khu công nghiệp, hiện tượng biểu t́nh phản đối Formosa bị bàn tay nào đó biến tướng thành đập phá trong ṿng chưa đầy 2 ngày một loạt xí nghiệp (có con số nói là khoảng gần một trăm xí nghiệp, tôi không có thông tin cụ thể) suốt từ ngoài Bắc vào đến B́nh Dương…
Ngày 18-07-2016 tôi gửi thư ngỏ đến lănh đạo đảng và nhà nước, đề nghị (1)đóng cửa khu công nghiệp Formosa, (2)thu hồi cảng Vũng Áng dưới dạng chuyển sang BT (build & transfer) để phía nước chủ nhà giành toàn quyền kiểm soát, (c)kêu gọi toàn dân đoàn kết cứu biển. Để tạo thế mạnh, đề nghị tiến hành trưng cầu dân ư đ̣i thực hiện 3 việc trên[22].
Thư ngỏ trên chưa ráo mực, qua báo chí tôi được tin phía kinh doanh Việt Nam muốn đảy nhanh tiến độ triển khai tiếp việc khai thác mỏ sắt Thạch Khê, liên doanh là các công ty Trung Quốc nhiều tai tiếng và tôi có một số thông tin về lai lịch của họ. Công việc này sở dĩ phải tạm dừng một thời gian v́ thiếu vốn.
Từ rất lâu tôi đă biết Liên xô thấy việc khai thác mỏ nảy rủi ro rất lớn. Sau này Krupp và một số tập đoàn nước ngoài khác cũng đă t́m hiểu cặn kẽ tại chỗ đề tài này và đều lần lượt rút lui… Ngay lập tức, tôi đề nghị CODE và Pan Nature mời các nhà khoa học cho ư kiến. Qua mấy cuộc họp chúng tôi đều thấy phải t́m cách ngăn việc này lại.
Ngày 26-07-2016 tôi gửi đích danh các vị lănh đạo đảng và nhà nước một thư mới, đề nghị ra chỉ thị đ́nh chỉ ngay việc tiếp tục khai thác mỏ sắt Thạch Khê. Tôi nêu rơ những đánh giá và cảnh báo của các chuyên gia: việc xúc tiến khai thác mỏ này sẽ có thể gây ra thảm họa Formosa thứ 2, nhất là đặc thù của mỏ này quá gần biển và nằm quá sâu dưới mặt biển, de dọa nhiều tai họa lớn cho cả vùng.
Gửi xong thư, trong ḷng tôi vô cùng băn khoăn: Không biết những người Việt muốn xúc tiến tiếp việc khai thác mỏ này, lại liên doanh với những đối tác đáng ngờ như thế, họ là ai? Kẻ hám lời? Kẻ giết người? Kẻ bán nước?
Titan và tim tan…
Trời cho nước ta một vùng duyên hải cực kỳ đẹp bao quanh đất nước! Càng đi, tôi càng thấy đất nước ta đẹp vô cùng.
Trong khi đi khảo sát Tây Nguyên, chúng tôi đă kết hợp khảo sát vấn đề khai thác titan rất hỗn loạn, tập trung vào vùng ven biển B́nh Thuận đang khai thác titan bán cho Trung Quốc!
Đến những nơi loang lổ các băi khai thác titan, có chỗ ăn ra sát băi biển, tôi có cảm tưởng có một con thú dữ nào đó… đang ngoạm từng miếng một trên da thịt ḿnh! Tôi kêu lên với mọi người đi cùng:
- Trời đất ơi, ti tan hay là tim tan?
Giáo sư Đặng Trung Thuận giải thích căn kẽ cho chúng tôi làm ăn như thế này đất nước đang mất ǵ được ǵ. Cũng như tại những nơi khác khai thác khoáng sản, thiên nhiên phải mất hàng triệu năm mới làm nên được kiến tạo đất đai và cảnh quan cho chúng ta như hôm nay… Song trong vài tháng, vài năm bàn tay con người chúng ta làm cho tan hoang tất cả. Phá sạch! Hủy sạch! Điêu tàn! Nham nhở!..
Đứng tại bờ biển B́nh Thuận, nghe giáo sư nói, nhưng trong đầu tôi liên hệ đến t́nh trạng khai thác khoáng sản trong cả nước, suốt từ chỗ tôi đang đứng, đi hết mọi miền, ngược măi lên đến Quảng Ninh, lan sang Lào Cai, Cao Bằng, ṿng xuống Tuyên quang, Yên Bái, Thái Nguyên…
V́ là thành viên của NGO Pan Nature và tham gia hợp tác trong một chuỗi các NGO dưới cái tên chung là Liên minh Khoáng sản, hàng năm tôi vẫn thường theo dơi t́nh h́nh khai thác khoáng sản trong cả nước, qua t́m đọc các báo cáo của phía các cơ quan nhà nước ta, các báo cáo và đánh giá của các tổ chức thế giới trong và ngoài Liên hiệp quốc về t́nh h́nh này của nước ta, liên hệ với những ǵ tôi mắt thấy tai nghe trên mọi miền đất nước… Tôi vô cùng xin lỗi và cho phép tôi rút ra kết luận trong một từ như thế này:
- LOẠN!
Nếu ở Hà Nội, bạn không cần phải đi đâu xa. Chỉ cần lần ngược hoặc xuôi vài chục cây số men theo sông Hồng, xem sự hoành hành của bọn cát tặc, đến những nơi sạt lở ven sông, thăm những gia đ́nh dân cư mất đất mất nhà.., bạn cũng có thể dễ dàng h́nh dung sự tàn phá thiên nhiên của bàn tay con người mà tôi đang nói tới ở trên!
Tôi đă tham gia khá nhiều hội thảo của các hiệp hội khoa học và những NGO có liên quan đến đề tài tài nguyên khoáng sản của quốc gia. Những cuộc họp này đă đưa ra không biết bao nhiêu cảnh báo, kiến nghị… Kết quả cho đến hôm nay: Hầu như toàn bộ sự việc vẫn vượt ra ngoài tầm kiểm soát! Với cái giá đất nước phải trả vô cùng đắt! Bài toán vẫn chưa có lời giải.
Cả người dân và người làm nhiệm vụ quản lư nhà nước đều có lỗi! Nan giải vô cùng! Song trước hết lỗi thuộc về sự bất lực và bất cập (và cả tham nhũng nữa) của quyền lực quản lư và của những chủ trương chính sách sai lầm.
Dưới đây là một trong không biết bao nhiêu ví dụ khắp cả nước.
Chúng tôi đi xem dự án thủy điện Xuân Nha thuộc bản Chiềng Nưa, nằm ngay trong khu bảo tồn thiên nhiên của tỉnh Sơn La, đă được tỉnh phê duyệt và cấp phép theo quyết định số 749 QĐ/UBND tỉnh Sơn La ngày 30-03-2016[23]. Thứ nhất, chúng tôi không thể hiểu nổi tại sao chính quyền tỉnh lại làm cái việc điên rồ như thế: sẵn sàng thủ tiêu khu bảo tồn thiên nhiên đă được nhà nước phê duyệt. Thứ hai, dự án này nằm trên con suối Nậm Quanh, chỉ có công suất 4MW, sẽ chiếm mất 28 ha ruộng và 16,9 ha rừng đặc dụng ở bản Chiềng Nưa, ngoài ra sẽ làm cho 50 ha của bản Thín bên cạnh bị khô kiệt. Hỏi han kỹ lưỡng mọi chuyện, chúng tôi té ngửa: Dân của bản cho rằng khai thác gỗ trong diện tích rừng đặc dụng được quy hoạch cho thủy điện này mới là mục tiêu đích thực của chủ dự án, sau đó có thể chiếm vùng đất bị tác động của bản Thín bên cạnh… Dân địa phương đang cầu cứu các NGO hỗ trợ họ bác bỏ dự án này!.. Đây c̣n là một ví dụ điển h́nh của sự phân cấp xé nát hay vứt bỏ luật pháp, thể chế quốc gia... Ví dụ này đủ phản ánh t́nh trạng lạc hậu của chế độ và hệ thống chính trị quản lư đất nước[24].
Trở lại câu chuyện khai thác titan ở B́nh Thuận để bán cho Trung Quốc: Sự thật là ngân sách địa phương thu được không bao nhiêu. Trong đó ngoài chuyện khai man thuế c̣n chuyện ăn cắp khoáng sản mang đi bán lậu, cũng cho chính khách hàng Trung Quốc – được chở bằng những sà lan trọng tải từ vài trăm tấn trở lên chứ không phải là bẳng những cái lá bàng! Việc khai thác titan ở B́nh Thuận hiện nay c̣n làm suy kiệt nguồn nước ngầm tại chỗ, khiến nhân dân trong vùng khốn đốn. Đương nhiên không ai ở các mỏ đang khai thác titan này cho chúng tôi con số cụ thể về bất kể câu hỏi nào. Tôi đành lấy những số liệu khai thác than thổ phỉ hàng năm ở Quảng Ninh để cố tưởng tượng ra một cách tương ứng phù hợp với mức độ thất thóat ở đây, những gian lận khác, những thiệt hại môi trường, những gánh nặng nhân dân tại chỗ phải chịu đựng…
Hỏi: Tại sao cứ phải bán quặng titan thô, không sơ chế hoặc không chế biến thành sản phẩm cao hơn?
Trả lời: Có đấy.
Chúng tôi được dẫn tới xem 1 «xưởng» sơ chế. Thực ra đấy chỉ là một cỗ máy tuyển quẳng tinh dưới một cái lán tôn, rỉ hoắc, đơn giản là máy đắp chiếu hàng năm trời rồi! Được giải thích: Máy đang phải đại tu.
Về hoàn nguyên đất đai nơi đă khai thác: Nếu trước khai thác là những băi phi lao bát ngát xanh, hàng trăm năm nay ngăn các băo cát, băo biển.., th́ bây giờ là những vạt cát lún phún những hàng phi lao mới trồng, không biết có sống nổi qua mùa nắng hạn.., và không phải mọi nơi đă đào bới lên đều đựơc trả lại bằng những vạt cây mong manh như thế!
Càng nghe những câu trả lời với mục đích chạy trốn người hỏi như thế, tai tôi càng điếc đặc, trong ḷng quặn đau – phần bực giận, phần sót sa.., tôi phải lùi lại phía sau mọi người một chút để giấu cảm xúc của ḿnh – kư ức ấy hôm nay vẫn c̣n nóng bỏng. Ngay lúc này cũng vậy, tôi chỉ muốn thốt lên với các bạn: B́nh Thuận của chúng ta đẹp lắm các bạn ơi! Nhắm mắt lại ở xa vạn dặm… tôi vẫn thấy biển B́nh Thuận th́ thào ai oán bên tai ḿnh, những đồi cát đỏ hớp hồn tôi và đang níu lấy chân tôi…
- Cứu thế nào !?..
Không phải không có tiếng nói của báo chí phê phán những ǵ đă xảy ra với khai thác titan trên toàn miền Trung, không riêng ǵ B́nh Thuận. Song hiệu quả mong đợi vẫn xa vời.
Gần đây ban lănh đạo mới của tỉnh ủy B́nh Thuận khóa đại hội XII chủ trương đ́nh chỉ việc khai thác titan trong địa bàn tỉnh để ưu tiên triển khai du lịch. Tỉnh ủy chủ động tranh thủ sự hậu thuẫn của chúng tôi, nhất là trong t́nh h́nh hiện nay đang có chủ trương của cấp trung ương tiếp tục khai thác titan theo như quy hoạch của nhà nước đă được phê duyệt! Pan Nature đang cùng với các NGO khác chung tay với tỉnh ủy B́nh Thuận hậu thuẫn chủ trương của tỉnh dừng khai thác titan để triển khai du lịch. Tôi hiểu Pan Nature và các NGO bạn trong đề tài này đang bước vào một cuộc trường chinh mới.
Từ nhiều năm nay Pan Nature nỗ lực vận động nhà nước ta tham gia tổ chức minh bạch công nghiệp khai thác tài nguyên thế giới có tên gọi là «Sáng kiến về minh bạch công nghiệp khai thác tài nguyên» (Extractive Industries Transparency Initiative – EITI, web: https://eiti.org ), thành viên tham gia phải là quốc gia ở cấp chính phủ, cam kết thực hiện các nghĩa vụ của EITI và được hưởng sự giúp đỡ của EITI trong vấn đề thực hiện kiểm xoát và khai thác tối ưu tài nguyên ở quốc gia ḿnh, điều kiện tham gia khá chặt chẽ; đất nước muốn bảo vệ và sử dụng tối ưu tài nguyên và môi trường tự nhiên của ḿnh rất cần lựa chọn sự tham gia này. Sự vận động của Pan Nature đến nay chưa có hy vọng ǵ, h́nh như ở nước ta cứ cái ǵ đụng đến khái niệm «minh bạch» (transparency) là húc đầu vào đá! … …
…Mỗi ngày tôi được nhận… một «món nợ»
(Trịnh Công Sơn – tôi xin lỗi được hát theo anh như vậy! – Nguyễn Trung.)
Nghĩ về những người tôi có may mắn được cùng sống và cùng hoạt động trong hoặc ngoài tất cả những NGO và trong suốt quá tŕnh tôi với tư cách là một công dân tự do được cùng tham gia vào các đề tài phục vụ lợi ích quốc gia. Chúng ta đă làm được nhiều việc khó, cho phép tôi nói một câu sung sướng:
- Xin vô cùng cảm ơn các bạn!
Đă có lần tôi mơ …Trên đỉnh núi Ba V́ thiêng liêng và yêu quư của chúng ta, chung quanh lửa trại bừng bừng, tất cả anh chị em NGOs chúng ta khắp cả nước về đây, tay trong tay hát những bài hát chúng ta yêu thích nhất, múa những điệu vũ tràn đầy sức sống của đất nước, tất cả cùng nhau công kênh đất nước chúng ta tiến lên phía trước, tham gia vào cuộc đua chung của cả thiên hạ hướng về tương lai… …
Giấc mơ này đến từ ước mong của tôi về một xă hội dân sự của học tập mà h́nh thành nên[25] - nơi nhân dân ta sẽ cất lên tiếng nói của ḿnh, nơi toàn dân ta sẽ quyết định mọi việc của quốc gia, rồi đây sẽ mở đường cho nước ta đi lên!..
Và trong ḷng tôi lúc này vang vọng câu hát …I faced it all and I stood tall and did it my way… (My Way – Frank Sinatra) để chuyển tải lời cảm ơn thầm lặng trong tôi đến tất cả các bạn về những chặng đường gian khó chúng ta đă cùng nhau vượt qua!.. (Tự nhiên, đến đây tôi như nấc lên, nhớ đến “hiệp sĩ công nghệ thông tin” Nguyễn Công Hùng – đă mất, 1982 – 2012, một trong những người anh hùng của tôi. Người thanh niên này đă vượt lên số phận nghiệt ngă của ḿnh, cống hiến hết ḿnh cho đời và cho xă hội dân sự - tôi đă dành cho Hùng một tấm bia nhỏ trong “Lũ” – tập I, trang 324).
Tôi không có lời cảm ơn nào tốt hơn. Tim tôi tự nói lên như thế, tôi xin chuyển đạt đến các bạn đúng nguyên như thế - mọi thành viên các NGOs mà tôi có may mắn được cộng tác trong nhiều năm qua…
Tôi ngả mũ kính phục những ǵ các bạn đă làm được cho nhân dân những nơi các bạn đi tới, cho nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước! Các bạn đă mang lại cho họ rất nhiều việc tốt đẹp, làm dịu bớt những khó khăn gần như bế tắc trong cuộc sống của họ - nào là thiếu nước sạch, nghèo đói, canh tác khô cằn, thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường, bệnh tật, những người tàn tật không c̣n hy vọng, cái dốt và hủ tục, nạn mù tin học, vân vân… Nhất là những người được các bạn giúp đỡ thường trở nên có nhiều năng lực tự giác hơn về những khó khăn của bản thân họ và lối ra… Các bạn thực sự đem lại cho họ hy vọng và sức sống mới…
Các bạn đă chứng minh: Hoàn toàn có thể tạo ra ở nước ta một xă hội dân sự hướng về chân-thiện-mỹ, xă hội dân sự của học tập, làm chỗ tựa cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước – v́ đấy là một trường học không thể thiếu cho công dân tự do của một nước tự do!
Tấm ḷng hỷ xả của các bạn, tấm gương dấn thân của các bạn cho niềm tin của ḿnh, nghị lực của các bạn qua những việc ḿnh làm phấn đấu cho cái chân-thiện-mỹ trên đời này, ư chí các bạn nuôi nấng tâm hồn ḿnh bằng niềm tin và hành động như thế, t́m thấy trong cái sống v́ mọi người có cuộc sống của chính ḿnh, cảm nhận được mọi người đang v́ ḿnh!.. Tôi biết, chẳng có ai làm chủ hay sai khiến được bạn cả. Chỉ có tâm hồn của bạn thôi thúc bạn sống và hành động như vậy… Tôi thấy các bạn như thế rơ ràng không phải là thánh, mà là người! Tôi t́m được bạn và tôi t́m được tôi cho tôi ở những người như vậy – các bạn! Đấy là lư do tôi cảm ơn – cũng có nghĩa tôi có thêm một món “nợ”: tôi phải cố xứng đáng là bạn của các bạn!
Nói dài ḍng như thế, cũng là để nói một lời rất riêng với từng bạn: Sống là một thành viên NGO như thế không dễ! Tôi rất hiểu. Xin các bạn hăy cố lên! Cố lên!..
Tổ quốc chúng ta đang cần những con người như thế, đang rất cần những NGOs như thế! Các bạn đang là những công binh mở đường cho một xă hội dân sự!.. – một con đường một ngày nào đó sẽ dẫn tới một xă hội dân sự của một nước Việt Nam văn minh, giầu đẹp, dân chủ, hạnh phúc!
Mỗi ngày t́m được một bạn tốt như thế, một tấm gương tốt như thế, là mỗi ngày tôi có thêm một “món nợ”! Một thứ nợ tôi không bao giờ từ chối! (Khái niệm nợ như thế này đẹp quá, tự nhiên khiến tôi nhớ đến một phim của Nhật rất cảm động “The lies she loves”!)
Tôi nhận được nhiều quá, hơn rất nhiều những ǵ tôi đă vắt tim vắt óc ḿnh cho đi trong những việc đă cùng làm với các bạn, trong những khoảnh khắc được sống cùng các bạn! Chính cái thặng dư tôi có được này – nói thế nào nhỉ? – khiến tôi cao thêm được vài centimètres nữa đấy! - ở cái tuổi xương cốt tôi đă vôi hóa hết rồi! Không một thực phẩm chức năng, hay thuốc dưỡng sinh, hay thần dược nào có thể làm được như thế đâu: Tôi nh́n được nhiều hơn trong cuộc sống tôi đang sống, và các bạn mang lại cho tôi niềm lạc quan tôi đang cần.
Viết đến đây, trong tôi bùng lên những cái tên thân thương Đặng Trung Thuận, Nguyễn Văn Ban, Trần Thị Lành, Nguyễn Thanh Sơn, Lê Văn Cương, Nguyễn Đăng Khoa (đă mất), Khổng Doăn Hợi, Đào Trọng Hưng, Phạm Kiều Oanh, Phạm Quang Tú, Nguyễn Cao Cương, Trịnh Lê Nguyên, chị Vân (Vusta), Bọ Ka, Minh Phương… ôi nhiều lắm… nhiều lắm, đông lắm.., khắp mọi miền trong cả nước.., không thể kể ra hết được! Mỗi người mỗi vẻ... Tất cả cứ như một giàn hợp xướng tổng ḥa, đủ hết từ tenor các lọai, đến vút lên cao ngất trời, các baritone mọi cung bậc, các soprano đầy nữ tính.., đến các loại bass nghe vỡ ngực!..
Xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn.
…
Thời cơ vàng… và Ḍng đời đầy thác Lũ…
Năm 2006 tôi có 2 kỷ niệm có ư nghĩa với chính ḿnh:
- Loạt bài báo Thời cơ vàng – 09-01-2006… (Thời cơ vàng / Hiểm họa đen).
- Bộ tiểu thuyết Ḍng đời - 2006 - ra mắt bạn đọc.
Cả hai ấn phẩm này đều là kết tụ của những năm tháng tôi day dứt về t́nh h́nh đất nước.
Hồi đó, ngày đêm tôi như bị dày ṿ giữa 2 thế giới: Một thế giới là chính đất nước tôi – tổ quốc của chúng ta, một thế giới khác là cái thế giới thực bao quanh chúng ta!
Đấy là một thế giới, cứ như là một tinh cầu bé nhỏ, lạc lơng, trôi dạt gần như vô thức v́ sự bàng quan hay vô cảm của nó đối với thế giới bên ngoài, – có khi là sự chạy trốn! – một ḿnh một vận động thụ động, do mọi lực tác động từ bên ngoài nhồi, đập, co kéo… – đó chính là nước ta!
Một thế giới là cái thế giới thực bao quanh chúng ta, lạnh lùng, khốc liệt, nó vận động theo lực của chính nó, không mảy may du di hay động ḷng trắc ẩn, không khoan nhượng.., hoặc là nó cuốn hút bất khả kháng mọi thứ đi theo nó, hoặc nó làm tan nát mọi thứ tự nhiên hay ngẫu nhiên va đập vào nó.
Quan sát sự vận đông trong ngoài như thế, mọi đau thương và những vết hằn của 4 cuộc kháng chiến đầy xương máu tạo nên trong tôi nỗi khát khao kinh niên làm sao có thể đưa nước ta cùng ḥa vào ḍng chảy chung thế giới đang tạo ra như thế, và tôi vô cùng dị ứng với bất kỳ va đập mới nào của nước ta với thế giới bên ngoài mà nước ta dù vô thức hay có ư thức mắc phải. Thành Đô 03 & 04-09-1990 là một sự va đập như thế tự ta chuốc lấy!..
Năm 2006 là năm nước ta đă trải qua 20 năm đổi mới, hồi sinh thay da đổi thịt ở mức đáng kể, đủ sức đứng lên đi bằng đôi chân của chính ḿnh, đủ trải nghiệm để t́m chọn con đường phải đi của chính ḿnh trên thế giới này! Nh́n lại, có thể nói đấy là 20 năm phát triển ngoạn mục nhất của nước ta trong toàn bộ lịch sử 43 năm đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất cho đến hôm nay!.. Đất nước bắt đầu có những bạn chiến lược ch́a tay ra với ḿnh. Trong khi đó kẻ thù chiến lược cũng mới chỉ đang ở thời kỳ mới thoát ra khỏi cái vỏ trứng, chưa đủ lông đủ cánh [Đương nhiên, hồi ấy trong bài tôi không thể viết toẹt ra như thế về Trung Quốc v́ những lư do đối ngoại. Song tôi cũng viết ra rất rơ trong bài báo này, không thể hiểu nhầm: “Lần đầu tiên trong hai thế kỷ nay Việt Nam bây giờ không có kẻ thù chiến lược… … … Trung Quốc cũng phải thay đổi quyết liệt để tham gia vào ḍng chảy chung này của thế giới, đưa quốc gia họ lên tầm cao mới…”]
Có thể nói, từ sau 30-04-1975, vào thời điểm này, sự vận động tự thân của đất nước ta cùng với bối cảnh thế giới bên ngoài như vậy đă tổng hợp thành cơ hội chiến lược cho đất nước: Thời cơ vàng của đất nước! Lần đầu tiên sau 4 cuộc kháng chiến đày hy sinh xương máu! Từ đây có thể bắt đầu tất cả! Từ đây sẽ là quốc gia khởi nghiệp!.. Trong khi đó Đại hội X của ĐCSVN đang tới gần – phải làm ǵ đó đưa cơ hội chiến lược này vào, làm nên nội dung quyết định của đại hội!
Trước đó tôi đă vấp ngă đau đớn với bức thư 09-08-1995, lần này cơ hội vàng của đất nước đang sừng sững trước mặt! Chính nhận thức này thôi thúc tôi phải hành động: Cơ hội vàng của dân tộc phải được nhận thức cũng là cơ hội của ĐCSVN! V́ muốn là đảng lănh đạo, đảng nhất thiết phải đi tiên phong trong nắm lấy cơ hội vàng này của dân tộc, quyết đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới!
Trong “Thời cơ vàng” (09-01-2006) tôi nói thẳng: “Kẻ thù nguy hiểm nhất đối với vai tṛ lănh đạo của Đảng ta là sự hẫng hụt về trí tuệ và phẩm chất so với đ̣i hỏi của sứ mệnh đảng lănh đạo trong nhiệm vụ dẫn dắt dân tộc ta tiến bước thành công trên con đường chấn hưng đất nước… … Sự hẫng hụt này đang từng bước đẩy lùi đảng lănh đạo xuống thành đảng cai trị, điều mà tôn chỉ mục đích của Đảng không bao giờ cho phép. Sứ mệnh lănh đạo và sự tồn tại của Đảng đ̣i hỏi phải khắc phục bằng được sự hẫng hụt này…”
Để làm rơ nội dung thời cơ không chờ đợi, nếu bỏ lỡ sẽ gắn liền với thách thức và hiểm họa, tôi đă cố gắng tŕnh bày tổng hợp những bước thăng trầm của đất nước ta 2 thế kỷ nay, chỗ mạnh chỗ yếu của nhân dân và đất nước ta cần nhận thức đầy đủ, không thể một chiều đổ hết mọi yếu kém cho thực dân đế quốc, bá quyền.., nêu rơ nguyên nhân quyết định nhất dẫn đến mất nước là sự lạc hậu của chính ta, đưa ra những thế mạnh phải phát huy trong thế giới hôm nay, mục tiêu khả dỹ ngay trước mắt nhất thiết phải giành lấy… Quyết liệt đặt cả nước và ĐCSVN trước câu hỏi định mệnh:
Hoặc là!.. Hay sẽ là!… Bí quyết đi lên là DÂN CHỦ!
Anh Vơ Văn
Kiệt nhận xét: Hai chữ hẫng hụt
được đấy, đụng thẳng vào tổ
kiến lửa!
Tôi bị bất ngờ, bài báo được cả nước hưởng ứng mạnh mẽ. Nó bắt đầu đi ra rừ Vietnamnet, rồi Nguyễn Anh Tuấn đă làm tất cả để bài báo đến một số báo chí quan trọng – trước hết là Tuổi trẻ! Một hoạt động báo chí sôi nổi cả nước.
Một ít lâu sau có bài dài của đồng chí Nguyễn Đức B́nh, ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác lư luận và tư tưởng của ĐCSVN, phê phán Thời cơ vàng. Trong những người lănh đạo bên đảng, bên chính phủ lác đác có những ư kiến phê phán Nguyễn Trung là xét lại, phản động…
Ngay sau khi đưa bài lên mạng, Vietnamnet xuất bản cuốn Thời cơ vàng, trong đó đăng tải kèm theo các bài báo khác nhau bàn luận sôi nôi vận mệnh đất nước.
Đồng thời anh Chu Hảo mở máy cho nhà xuất bản Trí thức phát hành cuốn “Tranh luận để đồng thuận” với nội dung tương tự như trên, nhưng thêm bài phê phán của đồng chí Nguyễn Đức B́nh. Lần đầu tiên trong một cuốn sách có sự tranh luận và phản biện nhau sôi nổi về vận mệnh đất nước. Sau này anh Chu Hảo bị đảng ủy cấp trên tiến hành kiểm thảo kéo dài mấy năm ḍng, v́ c̣n liên quan đến loạt sách được coi là “nhạy cảm” khác NXB Trí thức đă phát hành. Cuộc kiểm thảo gần đây mới xong, anh Chu Hảo đă bảo vệ được lư lẽ của ḿnh. – Xin nói ngay tại đây: Nhà xuất bản Trí thức là một vốn quư của quốc gia. Nó là một vườn ươm gần như đơn độc, đang t́m cách mang đi các hạt giống trí tuệ của văn minh nhân loại gieo trồng trên đất nước ta trong thời kỳ vật lộn t́m đường khởi nghiệp. Lẽ ra nó phải được chăm sóc, phát huy, song tuyên giáo của chế độ toàn trị đối xử nó chẳng khác ǵ kẻ thù địch. Dị ứng với trí tuệ như vậy, tự nó bóc trần bản chất chế độ toàn trị!
Giữa lúc sôi nổi của bài báo Thời cơ vàng, tôi nhận được điện thoại của anh Đặng Phong (đă mất): Có một cặp trí thức ở Tây Nguyên đă đọc bài Thời Cơ Vàng, sướng lắm! Đôi vợ chồng này đă copied ra nhiều bản và mời nhiều bạn bè cùng đọc, nhờ nhắn với tác giả khi nào vào TPHCM sẽ cố t́m cách gặp nhau!..
Đúng là bạn bè trong TPHCM dành cho tôi sự ân cần ấm ḷng người, đến đâu chuyện cũng không dứt… Trong đó có cả cặp vợ chồng trí thức ở Tây Nguyên (Lâm Đồng). Đi giữa TPHCM trong ṿng tay bạn bè, tôi như đang bay…
Đúng lúc này sức khỏe tôi suy sụp, huyết áp không ổn định. Bạn tôi phải đưa ngay vào bệnh viện Hoàn Mỹ kiểm tra siêu âm tim và và chụp cắt lớp hệ thống tuần hoàn, Hồi ấy chụp cắt lớp c̣n rất hiếm ở Hà Nội, nên tại bệnh viện Hoàn Mỹ tôi được kiểm tra rất kỹ càng. Lạy trời, chỉ có suy nhược do làm việc quá tải (surmenage!)… Xong xuôi mọi việc, giấy thanh toán viện phí 6 triệu VNĐ, nhưng giám đốc bệnh viện khăng khăng không nhận. Tôi nói thế nào cũng không được, kể cả việc đưa tiền thanh toán của tôi vào quỹ từ thiện của bệnh viện. Giám đốc bệnh viện trước sau vẫn một mực:
- Bài Thời cơ vàng của anh đă nói thay cho bọn em những điều bọn em muôn nói, phải nói! Mong anh ghi nhận đây là món quà kỷ niệm của bọn em!..
Trong ḷng, tôi nhận thêm một món “nợ” nữa với đời!..
…
Ḍng đời (tiểu thuyết)
Một cuộc phiêu lưu có bài bản, nhưng chưa biết thành bại ra sao!
Như đă nói trên (Phần một), tôi khao khát viết sử đất nước trong quăng thời gian của cuộc đời tôi, đúng như tôi đă trải qua và nhận thức được! Muốn sống cho đúng nghĩa, th́ cái ǵ của Ceazar phải trả lại cho Ceazar![26]
Song làm sao một ḿnh viết sử được, thời đại ngày nay Tư Mă Thiên có sống lại cũng không làm được! Bao nhiêu cơ quan viết sử, làm sử trong cả nước c̣n bó tay cơ mà!
Tôi đành chọn con đường góp nhặt những mẩu mosaic cuộc sống đất nước dựng lên bức tranh về đất nước vậy!
Nhưng tôi tuy học văn học, song chưa bao giờ viết tiểu thuyết, thậm chí ngôn ngữ nghề nghiệp suốt cả đời người làm ngoại giao khô không khốc, chẳng liên quan ǵ đến văn chương. Làm sao viết được?!
Song không nói lên suy nghĩ và ư kiến của tôi về con đường ḿnh đă cùng với đất nước trải qua, tôi cảm thấy sẽ là có tội. Đơn giản v́ quăng đường đă qua của đất nước quá nhiều đau thương, mất mát, người đi trước không nói lại để người đi sau dè chừng là thất đức! Nghĩa vụ đạo lư này lớn quá, tôi không được phép lẩn tránh!
Kho thu thập nguyên liệu thô từ vốn sống đă sẵn sàng rồi. Bây giờ phải làm bài tập trước đă để luyện tay nghề.
Tôi chọn viết thử một tiểu thuyết nhỏ.
Đấy là tiểu thuyết “Hiến dâng”, dài trên 400 trang, mất khoảng 2 năm, được xuất bản lần thứ nhất năm 2000, xuất bản lần thứ 2 năm 2002, và sau đó được chuyển tải thành phim truyền h́nh nhiều tập trên VTV – với tên phim là “Hồi sinh”, về chủ đề đấu tranh chống tiêu cực và tệ nạn ma túy, nghệ sỹ ưu tú Hoàng Dũng sắm vai chính diện.
Một sự cố nhỏ: Truyện đă lên phim, giữ nguyên cả nội dung và tên các nhân vật… Thế mà xem vài tập rồi tôi mới nhận ra phim được dựng từ truyện của ḿnh, mà người làm phim không thèm xin phép tác giả! Hỏi người làm phim, cũng được thú nhận như thế. Song cũng phải nhắc nhở gay gắt một chút, mới thấy tên tác giả và tên tiểu thuyết được nêu trong các tập sau của phim. Đương nhiên tôi không màng chuyện nhuận bút, nhưng không tán thành cái nhập nhèm.
Trong khoảng thời gian viết tiểu thuyết này việc tích lũy vốn liếng, chữ nghĩa… cho “Ḍng đời” ḥm ḥm…
Việc làm bài tập tạm coi là thành công, tôi bắt đầu thời kỳ lao động chết thôi.
Viết tiểu thuyết “Ḍng đời” – chạy ngược chạy xuôi đến bản thảo thứ 17 th́ được xuất bản, truyện chia thành 4 tập, khoảng 1600 trang. May là có máy tính nên mới làm nổi cái việc lao động khổ sai này. Đó là năm 2006, tại NXB Văn Nghệ - TPHCM. Tính ra mất khoảng dăm sáu năm, cũng có thể là gần 10 năm kể từ khi có ư tưởng đầu tiên – nghĩa là “Ḍng đời” thai nghén trong tôi từ khi tôi ư thức được nỗi đau của ḿnh về đất nước.
Việc đầu tiên tôi sao bản thảo nặng 1-2 kg giấy này (!) ra một số bản (soft hay hard copies), gửi các anh Nguyên Ngọc, Hữu Ngọc, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Bạch Đằng, Cao Huy Thuần, Phan Đ́nh Diệu, Trần Quang Cơ, Sơn Tùng, nhờ góp ư, và nếu được, xin viết cho vài lời b́nh, giới thiệu, với lời xin lỗi trước của tôi: Xin thể tất cho tôi mọi nhọc nhằn phiền toái – v́ bản thảo phải đo bằng “kg” này, và tôi xin cam chịu đă phạm tội cưỡng hiếp văn chương để chuyển tải suy nghĩ của ḿnh, v́ tôi không c̣n cách nào khác! Sau này với anh Lữ Phương liên quan đến Lũ tôi cũng nói thực t́nh như vậy. Tôi nhận được hồi âm gần như đầy đủ, chỉ c̣n thiếu mỗi anh Nguyên Ngọc – đến nay tôi cũng chưa có dịp hỏi lại.
Điều tôi không ngờ là sau một thời gian, anh Nguyễn Khoa Điềm mời tôi đến, cho biết: Vụ trưởng vụ xuất bản của Ban Tuyên giáo (Ban của anh Nguyễn Khoa Điềm) nhận xét không thể cho tiểu thuyết này xuất bản được, nó trái với đường lối quan điểm của Đảng... Song anh Nguyễn Khoa Điềm khuyên tôi: Chỗ nào phải lược bỏ th́ chịu khó lược bỏ đi, cố mà xuất bản, nếu không th́ uổng công quá!
Sau đó tôi vác bản thảo đến anh Nguyễn Phan Hách, NXB Văn Học, Hà Nội. Thoạt nh́n gói bản thảo mấy kg giấy này chắc đă đủ ngán, anh Phan Hách hỏi tôi mấy câu rất khiêu khích:
- Làm nghề ǵ?
- Nghỉ hưu lâu rồi, không c̣n nghề nữa.
- Truyện có cốt truyện không?
- Có.
- Có nhân vật chính / phụ không?
- Có.
- Có biết ngoại ngữ không?
- Có.
- Ngoại ngữ ǵ?
- Vài thứ.
Sau đó anh Phan Hách chỉ lên giá sách:
- Bản thảo các loại đang nhiều như lá tre đây này!.. – hẹn sẽ trả lời sớm…
Không chờ đợi, tôi bay vào TPHCM gặp NXB Văn nghệ. Đi đi về về vài lần, bản thảo được chấp nhận.
Anh Nguyễn Đức B́nh giám đốc NXB, chị Bích Ngân biên tập viên sau khi đọc lần đầu tiên đă fone cho tôi biết sẽ cho xuất bản, nhưng nói sẽ phải biên tập lại nhiều chỗ quá nhạy cảm!
Tôi chưa biết chị Bích Ngân sẽ làm ǵ, song chỉ nghe mấy từ “biên tập lại…” đă hốt! Tôi có cảm giác: Phải chuẩn bị tinh thần bị xẻo! Bởi v́ trước đó, một quyển sách của tôi viết về nghiên cứu kinh tế nước ta được NXB Trẻ, TPHCM, hoan nghênh nhiệt liệt… Tôi mừng lắm. Thế nhưng sau khi được biên tập lại để lên khuôn, tôi hầu như không nhận ra sách của ḿnh nữa, cả cái tựa đề của bản thảo là “Dấn bước đi lên!” – hàm ư phải vượt qua yếu kém và rào cản ư thức hệ… cũng bị đổi thành “Việt Nam định hướng xă hội chủ nghĩa” (thật ra đây là một cách “lách” của NXB Trẻ) – nhưng tôi đâu có muốn viết như thế. Tôi “mặc cả” lại: Thêm cho tôi một dấu hỏi vào cái tựa của sách vậy, nghĩa là: “Việt Nam định hướng xă hội chủ nghĩa?” Được không? – một yêu cầu vô cùng tối thiểu mà, chiều tôi đi!..
- Tại sao anh cứ phải đ̣i thêm một cái dấu hỏi như thế cho tựa sách?
- Để người đọc phải cảnh giác! Mà như thế sẽ gần với nguyên bản của tôi hơn.
- Không thể được anh Trung ạ!
Tôi thua!
Trở về Ḍng đời, biên tập khoảng 1600 trang bản thảo quả là một công việc khổ sai. Những chỗ chị Bích Ngân lược bỏ mạnh tay nhất là những chỗ đụng chạm mạnh quá đến vấn đề di tản, vấn đề ḥa hợp dân tộc, vấn đề Trung Quốc, sai lầm về ư thức hệ… Những chỗ tôi quyết giữ, may quá đều được chấp thuận dù phải gọt nhẹ đi một chút… – có lẽ bởi v́ chính chị Bích Ngân cũng đồng t́nh… C̣n nhiều vấn đề quan trọng khác cũng phải làm nhẹ bớt đi, song nh́n chung ở mức độ tôi chấp nhận được… Những lời b́nh và giới thiệu cũng là những hậu thuẫn lớn cho NXB.
Sau khi Ḍng đời được tái bản đến lần thứ 3, tôi được biết anh B́nh, chị Bích Ngân và cả NXB nữa bị “chiếu tướng”! NXB phải sáp nhập vào một NXB khác – thực chất là bị giải thể, anh B́nh thôi làm giám đốc – thực tế là mất chức, chị Bích Ngân bị nhận xét nặng nề… Tôi mang trong ḷng món nợ lớn đối với anh B́nh và chị Bích Ngân. Tuyên Giáo TPHCM có bài phê phán quyết liệt Ḍng đời.
Nội dung chính của Ḍng đời là những thập kỷ đầu tiên của đất nước sau khi giành được độc lập thống nhất.
Toàn bộ bộ tiểu thuyết tập trung vào vấn đề xuyên xuốt:
- Người đi giải phóng đất nước trở thành người chủ cai trị đất nước. Những tha hóa tự thân của quyền lực trong điều kiện như vậy sớm biến những thành những tham vọng chiếm hữu mới - ở thượng tầng kiến trúc là sự chiếm hữu tranh giành quyền lực, các tầng nấc thấp hơn biến tướng thành những hiện tượng chia chác na ná theo kiểu chia quả thực thời CCRĐ!..
- Thế nhưng người dân của đất nước độc lập thống nhất bây giờ đứng trước cuộc đấu tranh gian khó chưa từng có: Phải đứng lên tự giải phóng chính ḿnh để trở thành người tự do với tư cách là chủ nhân ông của đất nước!
Đó là thông điệp gửi đi cả nước, và cũng là kết luận được rút ra của bộ tiểu thuyết này!
Cuộc sống đời thực của đất nước trong những thập kỷ ḥa b́nh đầu tiên là:
Miền Nam được giải phóng, đất nước độc lập thống nhất sau những năm tháng chiến tranh kéo dài mấy thế hệ, đặt ra những vấn đề hoàn toàn mới, với tầm vóc hoàn toàn vượt ra ngoài tầm tư duy của lănh đạo vốn trưởng thành từ chiến tranh và khả năng của họ quản lư đất nước. Song lại thêm sự nôn nóng duy ư chí của lănh đạo: muốn thừa thắng xông lên xây dựng chủ nghĩa xă hội. Thực tế này khách quan tất yếu làm nảy sinh những mâu thuẫn và khó khăn mới không nên có thời hậu chiến. Đất nước chưa tắt hẳn khỏi lửa chiến tranh, song ngay lập tức đă phải đối mặt với những căng thẳng mới, mâu thuẫn mới. Trong khi đó không bao lâu đất nước bị căng ra mà đánh ở hai đầu bằng cuộc chiến tranh của Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc nước ta, và cuộc chiến tranh của Khmer đỏ quyết diệt hết “dzuôn” (chỉ người Việt) do Trung Quốc xúi giục ở phía Nam. Sự sụp đổ của các nước XHCN Liên Xô Đông Âu dội thêm vào nước ta những bế tắc mới về đường lối và con đường phát triển…
Bản thân cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứa trong ḷng nó 5 – 6 cuộc chiến tranh khác. Bi kịch lớn nhất của đất nước cho đến hôm nay là ở chỗ: Trong cuộc kháng chiến khốc liệt này có một cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài nhiều thế hệ, nhưng không được ư thức hệ của quyền lực thừa nhận. V́ thế, sự nghiệp độc lập thống nhất đất nước đă hoàn thành, song vết thương dân tộc tiếp tục chảy máu... Tất cả những ǵ trái với ư thức hệ, phản đối bất công, vạch ra những sai lầm yếu kém… đều bị đẩy thành thế lực thù địch để đối xử, thậm chí để đối kháng, ḥa hợp ḥa giải dân tộc bị coi là húy kỵ… Trong ḷng dân tộc vết thương cũ chưa lành, đă xuất hiện những vết thương mới, rạn nứt mới…
Ḍng đời đă dựng lại bức tranh toàn cảnh như thế của đất nước qua những thân phận của mỗi con người trong mọi tầng lớp nhân dân, ở mọi địa phương từ Bắc chí Nam thời hậu chiến.
Trong những ngày đầu tiên sau 30-04-1975, đại tá Phạm Trung Nghĩa từ Hà Nội bay vào trong Nam thăm em trai ḿnh tại trại cải tạo – đại tá quân đội CHVN Phạm Trung Lễ. Đây là cuộc đoàn tụ đầu tiên sau 30 năm gia đ́nh tan tác cùng với sự chia cắt đất nước. Cuộc hàn huyên da diết giữa hai anh em sớm bị cuộc tranh luận nẩy lửa giữa hai người với nhau đánh bật. Phạm Trung Lễ quyết liệt với anh ḿnh:
- Đất nước đă thắng cuộc chiến tranh này, nhưng anh chưa thắng được em! Anh sai rồi!...
Trong khi đó ngoài đời, con gái Lễ bị hải tặc hăm hiếp và giết chết trên đường đi di tản, gia đ́nh Lễ tan nát…
Gia đ́nh má Sáu Nhơn là nhà tư sản Huỳnh Tấn Nhơn nổi tiếng Sài G̣n – cơ sở của cách mạng ngay từ sau ngày 23-09-1945 cho đến ngày giải phóng. Con rể má là thiếu tướng quân đội cách mạng Lê Hải, nổi danh trên các chiến trường Sài G̣n – Gia Định và các tỉnh đồng bằng miền Đông Nam Bộ. Con gái má – vợ tướng Lê Hải – bị địch giết cả hai mẹ con trong trận càn Củ Chi. Con trai cả của má là cán bộ tập kết ra Bắc từ 1954… Nhưng ngay sau 30-04-1975, gia đ́nh má và 3 con trai má ở lại Sài G̣n – đều là những nhà kinh doanh thành đạt – tất cả đều bị cải tạo tư sản. 3 gia đ́nh con trai má quyết vượt biển di tản, người anh trai cả (cán bộ tập kết ra Bắc) can ngăn thế nào cũng không được. Ngay trong đêm sau khi tiễn 3 gia đ́nh các con trai ḿnh vượt biển đi di tản, má Sáu Nhơn quay về nhà lấy ra bản Tuyên Ngôn độc lập in litô chữ viết tay má đă cất giấu từ 1945 đến nay, xé toạc… Má toan ném vào xọt rác, nhưng ngẫm nghĩ hồi lâu, má lại gói ghém cất vào chỗ cũ… Nhiều năm sau, trước khi lâm chung, má gọi cháu đích tôn của ḿnh, Huỳnh Thái Vũ, trao tận tay bản Tuyên Ngôn bị xé, dặn ḍ:
- Cháu thay mặt các em các cháu ḿnh họ Huỳnh nhà ta, bảo nhau cha truyền con nối giữ bằng được bản Tuyên Ngôn bị xé này! Đây là văn tự của nhân dân đ̣i nợ chế độ! Dứt khoát không được đưa vào viện bảo tàng!..
Trong đại gia đ́nh họ Phạm của đại tá Phạm Trung Nghĩa ở Hà Nội bi kịch tiếp theo bi kịch. Đại úy Phạm Trung Nam, cháu ruột gọi ông Nghĩa là chú, hy sinh trên chiến trường Siêm-riệp trong cuộc chiến đánh bè lũ diệt chủng Polpot. Ông chú ruột của anh em ông Nghĩa, nhà tư sản Phạm Trung Học, ngày càng thất vọng với chế độ mới... Ông để lại chúc thư: …Cái giá phải trả cho độc lập thống nhất đất nước lớn quá, mà thành quả vẫn không trọn vẹn, đất nước vẫn nghèo và bị uy hiếp tiếp mọi bề. Gửi gắm vào niềm tin đi với Đảng nhân dân ta sẽ có tự do, đất nước ta sẽ hạnh phúc, nhưng hóa ra bị lừa, lần bị lừa đau đớn nhất trong đời!.. Các con cháu hăy nhớ lấy bài học này…
Bản thân đại tá Phạm Trung Nghĩa cùng với thủ trưởng Viện nghiên cứu chiến lược quân sự của ḿnh – thiếu tướng Lê Hải – được giao nhiệm vụ tổng kết 4 cuộc kháng chiến. Nhưng với những đánh giá khách quan và trung thực 4 cuộc chiến tranh đúng như nó đă diễn ra, cả hai ông bị quy kết là phản động. Tướng Lê Hải mất chức và Viện bị giải tán, đại tá Phạm Trung Nghĩa – tác giả chính của báo cáo tổng kết – chỉ c̣n cách một sợi tóc để nhận án tử h́nh.., nếu không có sự phá án kiên cường của sỹ quan t́nh báo đại tá Nguyễn Thạch!
Nhưng sức sống của đất nước là bất diệt. Vượt lên trên mọi thách thức và trở lực khó ḷng tưởng tượng nổi do chế độ và hoàn cảnh khách quan gây ra, các con cháu hai họ Phạm – Huỳnh vẫn t́m cách mở đường sống cho chính ḿnh và cho đất nước… - trên mặt trận kinh tế, và trên mặt trận dân trí…
…Dù rằng Yến – vợ liệt sỹ Phạm Trung Nam – có lúc phải kêu lên: Chết th́ chết, nhưng quyết không để cho sự hy sinh của chồng ta bị phản bội!..
…Dù rằng Huỳnh Thái Vũ, cháu đích tôn của má Sáu Nhơn, phải nói thật với lănh đạo Thành phố khi trao bản sao bản Tuyên Ngôn Độc lập bị xé: “…Đồng chí ạ, đảng trong tim tôi và đảng ngoài đời hôm nay là 2 đảng khác nhau mất rồi!..”
Trên bàn thờ gia tộc của họ Phạm và của họ Huỳnh bây giờ đều thờ Bản Tuyên ngôn Độc Lập bị xé và chúc thư Phạm Trung Học.
Những ḍng cuối cùng trong 4 tập truyện của bộ “Ḍng đời”:
Đón Tết đến cùng với chồng vừa mới thoát chết trở về từ trại biệt giam Thạch Thất, bà Phạm Trung Nghĩa nói với chồng:
- Anh Nghĩa ạ, anh và các đồng chí của ḿnh từ nay phải bước vào cuộc chiến đấu mới gian khổ chưa từng có!..
- …
Cho đến hôm nay (11-05-2018), viết đến đây tôi vẫn cứ phải tự hỏi ḿnh: Thông điệp của vợ đại tá Phạm Trung Nghĩa nói với chồng ḿnh như thế đă đủ rơ chưa?
Tôi không muốn than văn: Nước đă độc lập, dân chưa có tự do, c̣n người chiến thắng đă trở thành ông chủ của đất nước mất rồi!..
Tôi muốn giục giă: Nước đă độc lập, bây giờ nhân dân ta phải tự đứng lên giải phóng chính ḿnh thành người tự do!
Nhưng trong Ḍng đời mà viết toẹt ra như thế, có lẽ chị Bích Ngân sẽ phải liếc dao thật sắc và “xẻo” nốt! Hoặc là “Ḍng đời” sẽ không bao giờ ra đời!
Không biết thông điệp của vợ đại tá Phạm Trung Nghĩa đă đủ rơ chưa!?.. Tôi đă viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần mấy câu cuối cùng này, để lách!
Riêng tôi thấy chua sót lắm và lo lắng: Đă đi qua 4 cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt rồi, mà cuộc đấu tranh khó nhất của dân tộc vẫn đang ở phía trước! Tính sao đây!..
…
Lũ (tiểu thuyết)
Đấy là bộ tiểu thuyết thứ hai, bộ tiếp theo của bộ “Ḍng đời”.
“Lũ” được viết xong và đưa lên mạng viet-studies.net của anh Trần Hữu Dũng năm 2012, ai muốn đọc th́ đọc. Đơn giản v́ tôi viết lách như vậy không thể có cửa để NXB nào trong nước dám in. Anh Tống Văn Công và anh Nguyễn Khắc Mai viết lời giới thiệu.
Truyện lang thang trên mạng, th́ anh Lê Xuân Khoa mail cho tôi: Nên cho in ra ở Mỹ để ai không lên mạng cũng có thể đọc được. Tôi cảm ơn nhă ư của anh Lê Xuân Khoa:
Truyện đă lên mạng rồi, nên nó trở thành tài sản chung của người đọc mạng. Nếu anh thấy nên in ra sách, tôi rất cảm ơn và hoan nghênh, tùy anh lựa chọn NXB và quyết định. Tôi chỉ đề nghị (a)giữ đúng như nguyên bản, (b)tôi không lấy tiền nhuận bút để hạ thấp giá của sách, dễ cho bạn đọc…
Anh Lê Xuân Khoa và tôi vốn quen biết nhau đă lâu, từ khi IDS c̣n tồn tại và anh Lê Xuân Khoa muốn cùng hợp tác với IDS một số đề tài – chủ yếu trong lĩnh vực giáo dục. Tiếc thay mong muốn hợp tác không thành, v́ những điều kiện trong nước chưa chín muồi. Tôi rất cảm kích, v́ anh Lê Xuân Khoa có nhiều khó khăn về sức khỏe mà vẫn quan tâm đến “Lũ”. Cuối cùng, anh Lê Xuân Khoa đă t́m được NXB Tre xanh – USA ISBN: 978-1-5196-5365-7, nxbtrexanh@gmail.com. Tôi đă đọc lại và chỉnh sửa cập nhật – v́ những diễn biến trong nước và trên thế giới càng về sau càng quyết liệt. Truyện được xuất bản năm 2015, theo đúng những ǵ tôi yêu cầu. Một lần nữa xin cảm ơn nhiệt t́nh của anh Lê Xuân Khoa và NXB Tre xanh.
“Lũ” đề cập tiếp “Ḍng đời” t́nh h́nh đất nước khoảng 2 thập kỷ gần đấy nhất: thời kỳ chế độ toàn trị và dối trá lên ngôi, tham nhũng trở thành cướp – chỗ này chỗ khác đă gây xung đột cục bộ với dân, trấn áp gia tăng, đạo đức văn hóa xă hội xuống cấp chưa từng có, môi trường trong cả nước bị tàn phá, hệ thống đảng và hệ thống chính trị bị lũng đoạn nghiêm trọng, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trong khi đó bên ngoài th́ Trung Quốc coi như đă hoàn thành trên thực tế việc chiếm và quân sự hóa Biển Đông, ngày càng đẩy mạnh can thiệp quyền lực mềm, thế giới đă sang trang đi vào thời kỳ vận động mới – đang dấy lên những biến động chưa từng có và khó lường!..
Trong một số bài viết của ḿnh nhiều năm qua, tôi coi đây là thời kỳ đất nước mạt vận kể từ sau 30-04-1975!
…Không gian và thời gian của đất nước trong “Lũ” là thời kỳ ra đời và hoành hành của chủ nghĩa tư bản hoang dă ở nước ta, vào lúc quyền lực đảng đẩy đất nước rơi vào chế độc tài độ toàn trị, nguy cơ đất nước sụp đổ và bảo loạn ngày càng tích tụ. Chính thực trạng đất nước nêu trong “Lũ” này ở ngoài đời sau này đă dẫn tới thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên lăo thành, cảnh báo đanh thép ĐCSVN và lănh đạo của nó phải thức tỉnh.
…Một trong những cái nôi của chủ nghĩa tư bản hoang dă ở nước ta trong không gian và thời gian của “Lũ” là “cái tổ chấy” Cường đá, lúc đầu chỉ là một cái ổ thông tin của thế giới ngầm. Với triết lư buôn quan hệ, nắm đất đai, ta sẽ nắm tất cả! – cái tổ chấy Cường đá trở thành một trung tâm, một thế lực lũng đoạn Sài G̣n.
Từ một kẻ du thử du thực trong xă hội, không nghề nghiệp, đường cùng đi làm phu khai thác đá, Cường đá dần dà thôn tính được cả mỏ đá và vợ con của chủ mỏ, c̣n chủ mỏ bị loại khỏi ṿng chiến “…trong một cái chết v́ tai nạn lao động!...” – đất đá không có miệng để cải chính.
- Mấy núi đá tao c̣n bạt sạch trơn! Đừng có thằng nào muốn sống mà đụng vào tao!..
Đấy là câu nói cửa miệng gần như hàng ngày của Cường đá, vừa để uy hiếp đối tác, đối thủ hay bất kỳ ai đứng trước mặt y, vừa để xả nỗi khát vọng như thiêu như đốt muốn làm một bố già, một playboy, muốn chinh phục đời – v́ cần thỏa măn nhục dục và mọi thèm muốn khác đă đành, song quan trọng hơn thế là muốn trả thù đời!.. Ác nỗi, trời không cho Cường đá có con. Để thỏa chí của ḿnh, Cường đá đem hết tinh lực và mọi yêu quái của ḿnh dạy bảo, vun đắp cho đứa con dượng: Hai Điểu.
Ngấm máu anh chị của bố dượng, học xong trung học, đốt sách, mổ lợn liên hoan chia tay bạn bè, Hai điểu thách đố:
- Tụi bay khao khát thi vào đại học, tao chọn con đường đốt sách, xem ai thành đạt hơn ai!
Với cái chọng sắt và cuốc xẻng trong tay, cùng với cái xe chở cát sỏi bố dượng bao, hổ tử Hai Điểu mau chóng vượt lên hổ phụ. Nứt mắt vào nghề, Hai Điểu nhanh chóng trở thành trùm một đội quân “xe vua” siêu trường siêu trọng, chuyên chở vật liệu xây dựng hoặc các phế thải, băm nát đường xá Sài G̣n và mấy tỉnh chung quanh, sẵn sàng nghiến bẹp xe cộ hay người đi đường không biết tránh nó… Có tiền, Hai Điểu thuê thầy một lúc quyết học cho ḿnh bằng được 2 bằng đại học luật và quản trị kinh doanh, để chiến đấu có bài bản. Miệng nói tay làm, Hai Điểu mau chóng khuất phục cái ban quản trị cao ốc Skyline toàn đám mũi lơ nói tiếng Việt như ranh (Hai Điểu), trở thành nhân vật quyết định của dự án này. Cái máu hoang dă của Hai Điểu lớn lên từng ngày trong cái môi trường xă hội cúi đầu trước dối trá, đồng tiền và quyền lực. Chỉ có cái tiếng Anh éo éo Hai Điểu ghét cay ghét đắng, v́ không làm chủ được!
Một bên là Cường đá: quyết đưa con ḿnh ngoi đến một vị trí nào đó ở cấp Trung ương của Đảng, để bản thân ḿnh có thể vênh mặt với đời là người thuộc tầng lớp trên cùng của đất nước, cố xóa đi cái kư ức Cường đá phu mỏ ngay trong nội tâm của ḿnh.
Một bên là tha hóa của quyền lực Đảng: nh́n thấy ở Hai Điểu một tài năng trẻ từ thành phần giai cấp lư tưởng – như nêu trong lư lịch trích ngang khi kết nạp đảng viên, phải sớm đưa vào Đảng để thay máu cho Đảng!
Cả hai gặp nhau ở Hai Điểu.
Tuy nhiên, sự giao cấu giữa tư bản hoang dă và tha hóa quyền lực Đảng lại đẻ ra một Hai Điểu không như cuộc làm t́nh này mong đợi. Hai Điểu có lần đă nói thẳng với bố dượng của ḿnh và với người đỡ đầu muốn dắt ḿnh vào hàng ngũ quyền lực Đảng:
- Con nói thật cho các bố biết nhé, làm vua mà vua không có ǵ để trao đổi, vua cũng không hơn ǵ mơ! Nếu mơ có cái vua cần, th́ vua cũng phải gọi mơ bằng anh!
Nhưng Cường đá và quyền lực đảng tha hóa vẫn không buông tha cho Hai Điểu.
Về phần ḿnh, trước sau Hai Điểu cũng quyết không chịu khuất phục!
Trong con mắt của Hai Điểu, đất nước này làm ǵ có vua, chỉ có các “VIP” được Hai Điểu đánh số 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10.., thế thôi – một hiện tượng mà ngoài đời anh Nguyễn Văn An có lần đă công khai gọi cả đội ngũ “VIP” này là vua tập thể!
Hai Điểu giải thích cho bố ḿnh:
- Ba ơi, máu bốp chát như con, tội ǵ ép xác vào một cái ghế!.. “Làm quan hệ, ăn quy hoạch” là 6 chữ vàng của con đấy ba ạ! Chẳng ghế nào so được. “Đất đai sở hữu toàn dân và giữ vững định hướng xă hội chủ nghĩa” là vũ khí số 1, lại thêm cái lệnh miệng có nhăn mác VIP, con vô địch! Bây giờ con quy hoạch cả người!.. Lần lượt các VIP này đến VIP kia là quân cờ của con, có thưởng có phạt phân miêng đàng hoàng… Làm thái thượng hoàng của các VIP, th́ có thể con sẵn sàng.., nhưng ghế th́ con không màng! Con muốn làm lịch sử. Con là lịch sử!..
Buôn quan hệ như thế, Hai Điểu lần lượt đánh số và đi săn các “VIP”, chinh phục một lúc 7 công ty con của tập đoàn quốc doanh VINACONS mà lại được hàm ơn cứu nhân độ thế và được phong anh hùng lao động, lật đổ tập đoàn Năm Hồng đă từng đủ quyền lực bức tử một cán bộ cao cấp, thôn tính ngân hàng SagoBank.., đánh đâu thắng đấy, chỉ đâu chết đấy… Nhưng trước sau Hai Điểu dứt khoát từ chối không tham gia vào danh sách cán bộ nguồn để đưa vào Đại hội đảng…
Chỉ có mỗi cái trường đại học nghĩa thục PH của đám con cháu hai họ Phạm – Huỳnh là cái pháo đài mà Hai Điểu đến nay không làm sao chinh phục được – nhưng không đội trời chung, trước sau quyết phá bằng được!..
Yến (vợ liệt sỹ Phạm Trung Nam trong Ḍng đời) đặt ra một cái tên chung cho tất cả những tập đoàn của chủ nghĩa tư bản hoang dă: “Nhóm đồng tiền ướt!” V́ những nhóm này ở nước ta đang trong giai đoạn vơ vét và làm giầu nhanh quá, tiền vào tay họ in ra chưa kịp khô, nên ngoài bản tính vơ vét ra, họ hẫng hụt và hoang dă về mọi mặt!
Là người chị lớn của anh em con cháu hai họ Phạm – Huỳnh, Yến là linh hồn của tập đoàn PH. Song v́ nhiều lẽ không thể xưng danh là tập đoàn – trước hết là để tránh hút đạn của quyền lực! Tập đoàn không xưng danh PH quyết đương đầu với nhóm đồng tiền ướt trên 2 mặt trận: Kinh tế và giáo dục!
Phương thức và triết lư kinh doanh của tập đoàn PH trở thành mẫu mực của các doanh nghiệp khởi nghiệp v́ ḷng tự trọng của bản thân, sự phục hưng của quốc gia, và ḷng tự hào dân tộc. Tập đoàn PH là một trong những trung tâm kinh tế năng động, cùng với tầng lớp doanh nhân mới trong cả nước đóng góp vào quá nửa GDP quốc gia. Trường đại học nghĩa thục PH là cái nôi đầu tiên của một nền giáo dục mới đất nước ta nhất thiết phải có, để đổi đời và tồn tại được trong thế giới hôm nay.
Phe đồng tiền ướt có hậu thuẫn hùng hậu của chế độ độc tài ṭan trị và mọi tha hóa của các loại h́nh quyền lực vật chất và tinh thần trong xă hội, và… - những đồng tiền bẩn từ bên ngoài...
Tập đoàn PH chỉ có các bậc cha mẹ ḿnh làm chỗ dựa. Đó là các bậc lăo thành đă bỏ xa cái nấc thang thất thập cổ lai hy, nhưng c̣n nguyên vẹn nhiệt t́nh yêu nước và các giá trị đạo đức đă làm nên chính con người họ.
- Tập đoàn PH c̣n có ǵ nữa?
- Trí tuệ, sự thôi thúc của tự do, và truyền thống đạo đức và văn hóa của gia đ́nh!
Hiển nhiên giữa đồng tiền ướt và PH như thế là một cuộc chiến không cân sức.
PH dốc toàn lực giành được chiến thắng cuối cùng, kể cả phải trả giá hy sinh tính mạng (Quân – chồng của Bảo Vân, bị đoàn xe vua của Hai Điểu giết để uy hiếp): Thành lập được trường đại học PH đúng với chuẩn mực nghĩa thục cả về tính chất và nội dung giảng dạy của trường, thu hút được về ḿnh những tri thức và kiến thức hiện đại của văn minh nhân loại. Song thành tŕ văn hóa này đang đứng trước nguy cơ thất thủ có thể tính được bằng giờ, bằng ngày…
Trong cuộc sống khắc nghiệt như vậy của đất nước, một ánh sáng mới manh nha trên ṿm trời... Các hậu duệ của con cháu hai họ Phạm - Huỳnh cùng với đồng lứa trong cả nước nỗ lực mở ra cho đất nước một chân trời mới trên con đường của xă hội dân sự. Họ muốn dấn thân cho cuộc đời đáng sống họ mong muốn cho cả nước. Trên con đường này, tai ác thay – hay là thử thách của đời? – Vi Thanh, người yêu của Phạm Trung Trung Nam và con dâu tương lai của Yến, không may bị bạo bệnh ung thư, sự sống chỉ c̣n được tính bằng tuần, bằng tháng. Nhưng Vi Thanh đă ngoan cường đến giờ phút cuối cùng, đă cùng với người yêu của ḿnh và bạn bè cùng trang lứa cả nước dấy lên ṿng tay đoàn kết trong chống bạo bệnh ung thư. Một luồng sinh khí mới đánh thức thế hệ trẻ cả nước… Một xă hội dân sự mới của đất nước d́nh thành lên vóc dáng đầu tiên!..
Trong khi đó, ngoài chức năng là chỗ dựa tinh thần cho con cháu minh, tuổi tác ngày càng bó tay thế hệ lăo thành của hai họ Phạm – Huỳnh. Ngày đêm họ chỉ c̣n lại sự dày ṿ không buông tha về thân phận đất nước.
Bi kịch của tướng Lê Hải là:
Cả một sự nghiệp cách mạng ông đă từng cống hiến trọn đời ḿnh từ lúc chống lại chế độ thực dân pháp đang c̣n thống trị đất nước, cho đến lúc chỉ c̣n gang tấc ông sẽ phải bước lên vành móng ngựa của quyền lực tha hóa – chỉ v́ ông bảo vệ đến cùng thành quả cách mạng và quyết không phản bội mọi hy sinh, tổn thất của dân tộc… Thế nhưng một sự nghiệp như thế của dân tộc và của chính ông đang bị phản bội!
Dằn vặt ḿnh đến hơi thở cuối cùng trước thực tế ác nghiệt này: “Đây là sự phản bội của quyền lực tha hóa? Hay là đầu hàng? Mà đầu hàng cũng là phản bội!.. Hay đây là hiện tượng bán nước!?”.., Tướng Lê Hải viết trong di chúc của ḿnh: “…Đất nước độc lập thống nhất bốn thập kỷ nay rồi, mà ḷng dân chưa thu về được một mối, quốc gia vẫn nghèo hèn so với thiên hạ và thách thức… Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xă hội đă thất bại, và chỉ c̣n là thứ ngụy trang cho Đảng Cộng Sản Việt Nam với tính cách là lực lượng chính trị độc nhất tự cho ḿnh quyền đứng trên Hiến pháp cai trị đất nước! Đă đến lúc cả nước phải một ḷng đứng lên giành lấy những quyền tự do dân chủ của chính ḿnh!.. …Trước nhân dân, trước đất nước, trước vong linh các đồng chí và đồng đội đă hy sinh, tôi xin cúi đầu nhận phần tội của ḿnh trong đấu tranh thất bại chống lại sự tha hóa của Đảng, nên đất nước mới phải chịu bao điều cay đắng hôm nay…” … … …
Không biết vong linh tướng Lê Hải có được dịu lại phần nào hay không, khi ông Phạm Trung Lễ từ Mỹ bay về viếng vong ảnh ông?..
Ông Phạm Trung Lễ trịnh trọng mặc lại cho ḿnh bộ trang phục đại tá Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, trang nghiêm trước vong ảnh ông:
- Xin kính cẩn vĩnh biệt tướng Lê Hải!
Giữa hai quân nhân này của hai bên chiến tuyến một thời đẫm máu dân tộc mấy thế hệ, từ lâu trong ḷng họ chỉ c̣n lại nỗi đau chung về thân phận quốc gia!
Đại hội Đảng càng đến gần, Yến càng ra sức cùng với đội ngũ trí thức chân chính cả nước vận động, thuyết phục lănh đạo Đảng phải xúc tiến cải cách chính trị, để đổi đời Đảng thành đảng của dân tộc và cứu nguy đất nước… Yến xếp hết mọi việc làm ăn lại. Không hề tiếc công tiếc sức. Kiên tŕ, nhẫn nại thuyết phục từng người!..
Giữa lúc Yến tại Hà Nội thuyết phục đại diện lănh đạo đảng phải chấp nhận cải cách chính trị cứu nước, trường đại học PH ở TPHCM bị công an vu cho tội họp mitting chống Trung Quốc, bắt giam con trai Yến Phạm Trung Trung Nam và đánh chết trong tù!
Tin dữ đến, Yến hét lên giữa trời:
- Polpot đă giết chồng ta! Hải tặc giết em ta! Hôm nay công an cộng sản giết con ta! Trời ơi sao chúng mày ác thế!..
…
Cả nước oằn lên!..
Toàn bộ những nỗ lực của hai họ Phạm – Huỳnh và con cháu họ 4 thập kỷ nay muốn phục thiện cái đảng thống trị đất nước đă tha hóa ruỗng nát và mong cứu văn đất nước.
Quyền lực tha hóa đă đáp lời: Giết chết Phạm Trung Trung Nam!
Đây chính là thông điệp của “Lũ”!
Thưa các người, về “Lũ”, xin hăy vứt bỏ hết cho tôi mọi trói buộc của nghệ thuật! Tôi không phải là người của nghệ thuật!
Tôi xin tất cả các người! Cả hai phía, kẻ cai trị cũng như người bị trị, hăy nghe cho thấu thông điệp của “Lũ”!
Không phải chỉ có đất nước đang phải oằn ḿnh lên chống cái ác! Trên đầu tổ quốc chúng ta là cả một thác lũ “vấn đề Trung Quốc” – một vấn nạn của cả thế giới – đang lăm le đổ ập vào đất nước ta!
…
Viết xong “Lũ”, trong đầu tôi đă h́nh thành “Sóng thần” – như một tiến triển của tự nhiên: Ḍng đời > Lũ > Sóng thần.
Thế nhưng từ 6 năm nay, loay hoay nhất là từ 3 năm nay, tôi cắn bút, không viết được chữ nào – mặc dù từ những suy nghĩ và lư lẽ, từ những dự báo, mong ước trong các bài tôi đă viết ra.., có lẽ đă đủ ư để viết tiếp bộ cuối cùng của trilogy này. Nhưng tôi vẫn chưa sao h́nh dung và dự báo nổi cái ǵ hiện thực nhất sẽ đến với nước ta sau “Lũ”!?
Khó hơn nữa: Nhân dân ta, đất nước ta có quyền và có khả năng lựa chọn tương lai cho ḿnh không!?
Trong ḷng ngổn ngang trăm ngàn nỗi lo…
[11] Thư của Thủ tướng Vơ Văn Kiệt ngày 09-08-1995 gửi Bộ Chính trị - https://www.diendan.org/tai-lieu/bao-cu/so-048/thu-vo-van-kiet-1995/
[12] Có nhiều bạn đọc dị ứng gay gắt với khái niệm “chúng ta” tôi dùng ở đây, tôi ṃn được thông cảm. Tôi nói “chúng ta” ở đây trong tinh thần của ḥa giải dân tộc, hơn nữa để dễ thảo luận. – Nguyễn Trung./.
[13] Tham khảo: Nguyễn Trung, “Phải sống”
Một là: Nhiệm vụ xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giầu mạnh, tự do, hạnh phúc, là thành viên có năng lực, được tin cậy và được tôn trọng trong cộng đồng quốc tế.
Hai là: Nhiệm vụ tạo ra sức mạnh, trí tuệ và bản lĩnh thực hiện được lẽ tất yếu đời đời là láng giềng của ḥa b́nh, hữu nghị, hợp tác b́nh đẳng và cùng phát triển bên cạnh Trung Quốc, được Trung Quốc tôn trọng!
http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_PhaiSong.html
[14] Suy nghĩ này tôi đă nêu trong loạt bài “Thời cơ vàng” năm 2006 và trong một số bài viết khác.
[15] Tham khảo Nguyễn Trung, “Phải sống!” http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_PhaiSong.html
[16] Theo tôi, chính sách ngu dân của chế độ ta hiện nay đă vượt xa thời bị thực dân pháp đô hộ, có rất nhiều dân chứng trên giấy trắng mực đen để đi tới kết luận này. Chỉ riêng việc nhà nước ta không đủ bản lĩnh công khai làm sự so sánh rất nên làm này, đủ nói lên tất cả.
[17] Conspiration theory / gambit theory – nổi bật ở 2 điểm cốt lơi: (1)mọi nguyên tắc đều có thể thay đổi, và (2)mục tiêu biện minh cho biện pháp. Trong ứng dụng, khi t́nh huống đi vào bế tắc hay có khả năng đột biến, người chơi có thể xóa bỏ cuộc chơi đang diễn ra, tự ḿnh bày ra một cuộc chơi mới với những nguyên tắc mới và tham số mới, lôi kéo hay cưỡng ép người cùng chơi phải tham gia.
[18] Tham khảo:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87n_nghi%C3%AAn_c%E1%BB%A9u_Ph%C3%A1t_tri%E1%BB%83n
[19] Bỏ lỡ cơ hội lớn lần thứ nhất là ngay sau 30-04-1975, lần thứ hai là khi các nước LXĐA sụp đổ, lần thứ ba là chậm chân trong các vấn đề gia nhập ASEAN, b́nh thường hóa quan hệ với Mỹ, và gia nhập WTO.
[20] Tham khảo: Nguyễn Trung, Đại hội XII, một thất bại chung của Việt Nam!
http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_DaiHoiThatBai.htm
[21] Tham khảo: Bộ Chính trị kết luận về khai thác bauxite đến 2015
https://www.tienphong.vn/xa-hoi/bo-chinh-tri-ket-luan-ve-khai-thac-bauxite-den-2015-159234.tpo
[22] T́m xem: Nguyễn Trung – thư ngỏ 18-07-2016http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_ThuNgoQuocHoi.htm
[23] T́m xem: https://www.thiennhien.net/2016/09/20/thuy-dien-trong-khu-bao-ton-nguoi-dan-kich-liet-phan-doi/
[24] Cũng tại Sơn La, cách cái hồ thủy điện giết người này vài chục cây số, chúng tôi đến thăm một xí nghiệp khởi nghiệp của mấy thanh niên doanh nhân từ xuôi lên đă tốt nghiệp đại học và sau đại học: Sản xuất than từ lơi ngô bằng những thiết bị tự lắp ráp lấy và xây đặt. Khách hàng chủ yếu là các khách sạn làm đồ nướng sang trọng (babecue) trong các tỉnh miền Bắc và xuất đi Nhật, v́ đặc điểm loại than này là hầu như không có khói, nhỏ, gọn, các thỏi than xinh sắn, mỗi gói than được đóng gói rất đẹp mắt – như là một hộp bánh ngọt (!) – được bầy trên bàn ăn để khách ẩm thực tự làm babecue… Sản phẩm không đủ bán, trong khi đó nông dân mấy huyện chung quanh và cả bên tỉnh bạn (phần lớn thuộc các dân tộc ít người) có nguồn thu nhập mới đáng kể là thu gom lơi ngô bán cho doanh nghiệp này, lại bớt thêm được một chút ô nhiễm môi trường! Tôi nêu ra ví dụ này ở đây chỉ cốt nói lên: Loạn là do thể chế và chính sách, chứ không phải do không có lối thoát!
[25] Trong những bài viết gần đây về kiến nghị cải cách chính trị, tôi nhấn mạnh đấy phải là một sự nghiệp được phấn đấu thực hiện qua quá tŕnh học tập và tự giác của cả nước, nó không phải là một sự nghiệp của phong trào mang tính chất bầy đàn. Cách chuẩn bị và tiến hành cải cách chính trị trên cơ sở học tập như vây là yếu tố cơ bản để giành thắng lợi vững chắc, vai tṛ xă hội dân sự của học tập sẽ trở thành yếu tố vô cùng quan trọng mang tải quá tŕnh cải cách đến thắng lợi cuối cùng – đúng với chân lư: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Trí tuệ của văn minh nhân loại hôm nay hoàn toàn cho phép nước ta thiết kế và thực hiện một xă hội dân sự của học tập như thế. Chúng ta không nên lựa chọn một xă hội dân sự chung chung không đáp ứng những đ̣i hỏi hiện nay của đất nước.
[26] Điển tích trong kinh Phúc Âm.