3.

 

Anh cần viết cho em, để sống. Anh không thấy mình đang sống. Viết cho em để tìm lại cảm giác sống thật sự.

Anh đã đọc thư em, đọc đi đọc lại nhiều lần. Em cứ viết lạnh lùng và thẳng thắn như thế. Chỉ đừng nói dối anh thôi. Anh cần em cứng rắn với anh. Anh cần cách diễn đạt rõ ràng, minh bạch và đầy lý tính kiểu phương tây của em. Anh không giấu em, cơ thể và tinh thần anh đang chảy nhão; cũng như em, anh cảm thấy cái chất sền sệt dưới các chữ của anh.

Cách đây vài ngày anh mơ thấy em, lại mơ thấy em. Một giấc mơ có thật. Có thật và khiêm nhường. Mơ thấy người phụ nữ ta thương nhớ là giấc mơ khiêm nhường nhất trong các giấc mơ. Ở đây, mọi giấc mơ đều khoác chiếc áo quá  rộng, quá rộng so với chúng. Mọi giấc mơ đều quá lớn, quá lớn so với một giấc mơ. 

Về chuyện phụ nữ, em nói đúng. Đàn ông ở đây không coi phụ nữ là danh dự của mình, còn lâu mới có bình đẳng thực sự. Thiếu gì đàn ông sẵn sàng dâng vợ  hay em gái cho sếp hay cho đối tác để làm bàn đạp thăng tiến hoặc thủ lợi. Vợ họ, em họ còn bị đối xử như thế, sá gì việc con em người khác có đi làm nô lệ tình dục ở đâu. Gần đây thôi, một phụ nữ trí thức mỏng manh đã bị một đám đàn ông trí thức đánh tan nát trên hàng đống tờ báo. Đọc những bài đánh cô ấy mặt anh cứ đỏ rực, đỏ rực vì xấu hổ, thằng đàn ông trong anh xấu hổ, hóa ra anh còn biết xấu hổ. Và cô ấy lại bị một đám đàn ông trí thức khác cho thôi việc. Và đa số những đàn ông trí thức còn lại đồng loạt im lặng. Đồng loạt im lặng trước công luận và đồng loạt thì thầm trong những quán cà phê, trong những phòng khách. Anh không phủ định được đấy là những gì giới mày râu bọn anh có thể làm cho phụ nữ. Có lẽ bác sĩ của anh sẽ bảo : anh đừng băn khoăn, phụ nữ họ không cần chúng ta bảo vệ, họ làm họ chịu. Hoặc ông ấy sẽ nói : anh đừng lẩm cẩm nữa, phụ nữ họ còn không bảo vệ lẫn nhau, mất chi mà đàn ông phải dây vào.

Hôm qua, anh uống một mình. Anh quen một quán bar, ông chủ ở đó rất dễ thương. Dễ thương nhất là ông ấy chẳng bao giờ để ý đến anh, không bao giờ muốn hỏi han gì về anh, không bao giờ lưu ý việc anh chỉ đến đó một mình. Anh chọn cái bàn trong góc. Góc đó tối và ồn, chẳng mấy ai thích ngồi, thành ra cái bàn gần như là độc quyền của anh, gần như chỉ dành riêng cho anh.

Hôm qua quán đông một cách bất thường. Anh đã yên vị và đang mơ màng thì một người xuất hiện. Quán hết chỗ, chỉ còn một cái ghế duy nhất, cái đối diện với anh. Người đàn ông ngồi xuống và gọi đồ uống. Anh không có ý định bắt chuyện, anh cũng không thể tỏ ra khó chịu, vì tình thế bắt buộc chứ ông ấy cũng không muốn làm phiền anh. Đột ngột ông ta nói :

-Anh có bệnh, tôi nhìn biết ngay anh đang mang bệnh.

-Vậy sao ?

Quá bất ngờ và lập tức bị nhận xét của ông ta thu hút, anh mắc vào cái câu như một con cá đói chỉ nhìn thấy con giun mà không nhìn thấy lưỡi câu, chỉ ngửi thấy mùi vị của con giun chứ không ngửi thấy mùi vị của lưỡi câu. Anh để cho câu chuyện cuốn đi.

-Anh mắc bệnh phán xét con người. Đừng phán xét con người. Hãy yêu thương họ và đừng phán xét họ. Con người sinh ra để được yêu thương chứ không phải để bị phán xét. Kinh thánh nói như vậy.

-Kinh thánh ư ? Kinh thánh nói như vậy? Mười điều răn Chúa ban cho Moïse không để con người phán xét lẫn nhau ư ? Còn cuộc phán xử cuối cùng thì sao ?

-Anh nhầm rồi, phán xét con người là việc của Chúa, không phải việc của con người.

Thế này là sao ? Sao mình đi đâu cũng gặp bác sĩ thế này ? Anh tự hỏi rồi trả lời ông ta, không ăn nhập gì vào chủ đề câu chuyện :

-Anh có phải là bác sĩ tâm lý không ?

-Ồ… ông ta cười khoái chí, hai cái ly trên bàn rung lên lạch cạch. Tôi làm nghề viết luận văn thuê.

-Vậy sao ?

Anh đã đọc trên báo và biết về những đường dây chạy điểm vào đại học, những lò photocopie luận văn và cả những lò viết luận văn thuê, nhưng đây là lần đầu tiên mục sở thị, diện kiến một người bằng xương bằng thịt làm nghề này. Thì ra những người viết luận văn thuê có thể là như thế này sao ? Ông ta cười :

-Anh ngạc nhiên ư ? Có gì phải ngạc nhiên. Để sống ai chẳng làm việc gì đó, không làm việc này thì làm việc khác thôi. Đã có cầu phải có cung. Tôi không làm  người khác cũng làm, mà người khác làm còn tệ hơn tôi.

-Nó là như thế nào vậy ? Nếu ông không ngại.

-Mỗi năm tôi viết năm cái luận văn là đủ sống thoải mái. Tôi đoán nhé, tới đây con đường sự nghiệp của anh sẽ tiêu, anh sẽ không sống được bằng nghề. Anh cứ chờ mà xem. Điều  đó hiện rõ ở chân mày của anh. Tôi có biết một ít hình tướng. Còn tôi, anh thấy đấy, tôi sống được bằng nghề của mình đấy chứ. Tôi lại còn nhân đạo ở chỗ đã giúp cho cả  thầy lẫn trò hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thầy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, trò xuất sắc trong học tập. Phải nói là tôi đã ghé cái vai còm này để chống đỡ cho nền giáo dục nước nhà. Sự nghiệp của tôi chưa vĩ đại sao ?

-Ông hành nghề bao nhiêu năm rồi ?

-Hai mươi năm. Sau một thời gian, mọi thứ đã thành công nghệ rồi, tôi làm nhẹ nhàng lắm. Lịch sử vấn đề, ba chương chính của luận văn, kết luận. Chừng đó thôi. Lịch sử vấn đề chỉ có chừng đó tư liệu, tôi nắm thuộc lòng rồi. Ba chương thì… về cơ bản cấu trúc các luận văn đều giống nhau. Chỉ sau một vài năm ngòi bút của tôi thành ra giống như bút tiên, vẩy vài nhát là xong. Các thầy cũng thích những mô hình quen thuộc, quen thuộc tức là đã được kiểm định, đã qua thử thách và được thông qua. Còn những mô hình mới chưa có tiền lệ, đáng ngại lắm, không nên thử làm gì, có khi còn bị  khép vào cái tội « không đúng hướng », « lạc đường ». Kết luận  chỉ có mấy ý ấy thôi : tổng kết vấn đề, mở rộng và nâng cao, đề xuất một số hướng nghiên cứu tiếp theo. Dễ ợt. Với cả, kết luận phải nói đúng chủ trương đường lối, môn lịch sử mà. Mà chủ trương đường lối thì có thể đọc ở khắp nơi, không bao giờ có thể nhầm hay sai gì được. Vậy là yên tâm. Anh xuống thư viện của cái trường đại học nằm gần bờ sông ấy mà xem, anh sẽ kinh ngạc về số lượng các luận văn do tôi viết.

-Tổng cộng ông viết bao nhiêu ?

-Anh cứ nhân lên khắc biết. Tôi nói làm gì. Nhưng bây giờ tôi không làm nữa, tôi nghỉ hưu rồi.

-Nghề viết luận văn thuê cũng có nghỉ hưu ! Anh cười, anh ngạc nhiên nhận thấy mình cười. Hình như lâu lắm rồi anh không cười.

-Thật ra tôi còn hơn chán vạn những kẻ khác làm nghề đó. Tôi chẳng bao giờ chặt chém. Tôi làm cẩn thận, trình bày đẹp, không có lỗi đánh máy, các yêu cầu về hình thức đều đảm bảo, các yêu cầu về nội dung cũng đảm bảo. Trong khi làm tôi còn hẹn học viên đến để trao đổi giải thích cho họ, như thế họ cũng học được một cái gì. Có thể vì thế mà quan chức không bao giờ thuê tôi. Họ đâu có thời gian và cũng không có điên mà đi gặp người viết thuê cho họ. Họ chỉ tiền trao cháo múc, họ cần cái luận văn, bao giờ xong đưa họ, chứ họ đâu cần học cái gì. Và họ thuê thông qua trung gian chứ chẳng bao giờ xuất hiện trực tiếp. Sinh viên hay người học tại chức thì  thực ra nhiều người cũng muốn học được thêm cái gì đó. Tôi cũng có một chút uy tín trong nghề này, chứ không phải là không, cho nên càng về sau người ta tìm đến tôi càng đông. Nhưng đến lúc tôi không bị cơm áo thúc bách nữa. Con cái trưởng thành hết rồi.

-Ông có viết luận văn cho con ông không ?

-Anh đùa à ? Con tôi chúng nó đâu học cái ngành bạc bẽo này.

-Xem ra có bạc bẽo đâu. Hơn đứt cái nghề giảng viên của tôi đấy chứ. Anh lại cười, ông ấy làm anh muốn cười. Cũng dễ chịu.

-Ừ  thì, tôi nghĩ mình đóng góp cho giáo dục thế đủ rồi. Tôi biết lúc này đây, anh đang phán xét tôi. Nhưng anh xem, một ông bố trong gia đình, đẻ con ra phải nuôi con. Xã hội có nhu cầu, tôi đáp ứng. Pháp luật không ngăn cấm, nhà trường khuyến khích thì tôi làm. Mà công việc của tôi cũng góp phần giải quyết bao nhiêu vấn đề. Trước tiên giải quyết sinh kế cho gia đình tôi. Chúng tôi cũng là người, chúng tôi cũng phải được sống, và phải sống đàng hoàng chứ. Rồi thêm trường học phải có thành tích. Chẳng nhẽ tuyển sinh viên vào, tuyển cao học vào, cho con người ta đỗ vào học mà lại không cho con người ta ra trường, không cấp bằng cho con người ta ? Mà không như thế báo cáo hàng năm lấy gì mà viết, cần có con số đào tạo bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu thạc sĩ, bao nhiêu tiến sĩ. Không thì mất thi đua, Bộ cắt mất các loại đầu tư và tiền thưởng. Mà các thầy  sức đâu mà viết hộ cho bao nhiêu sinh viên như thế. Thế nên nghề viết luận văn thuê ra đời. Nó có cái lý của nó. Miễn là anh tìm được một cái lý, lương tâm anh sẽ biết cách tự giải quyết. Anh hãy nhìn những khía cạnh tích cực của vấn đề, không thì không sống nổi đâu. Cái gì cũng có mặt trái và mặt phải. Nếu chỉ nhìn mặt trái anh sẽ mắc bệnh phán xét. Mà phán xét của anh chẳng dẫn đến đâu. Khi mọi người đều nhìn ở mặt phải họ sẽ thấy sự phán xét của anh là lố bịch. Họ thấy mọi việc đều tốt đẹp và ổn, chẳng có gì đáng lo, việc gì anh phải hoắng lên như thế. Anh chỉ lo bò trắng răng thôi.

-Lo bò trắng răng. Thế còn chất lượng giáo dục ?

-Không phải tôi không biết điều đó. Về chuyện này, anh nên nghĩ theo cách này mới được, anh sẽ thấy ổn: Nếu tôi không làm, chất lượng luận văn của sinh viên sẽ kém lắm, kém lắm í, anh không hình dung được đâu. Họ viết câu còn chưa ra câu. Nhưng chất lượng luận văn có kém đến mức nào cũng phải cho sinh viên đỗ để họ ra trường, phải cho họ điểm cao nữa cơ. Thế đấy. Vốn dĩ điểm ấy đâu phải của họ, cũng là điểm thầy cho thôi mà. Giữa việc một luận văn kém được nhận điểm cao, và một luận văn tương đối tốt nhưng do tôi viết ra được nhận điểm cao, cái gì hợp lý hơn? Dĩ nhiên, cho một luận văn tốt điểm cao sẽ hợp lý hơn là cho một luận văn kém điểm cao. Cho một luận văn tốt điểm cao là thực chất, còn cho một luận văn kém điểm cao là không thực chất. Nền giáo dục này hướng tới thực chất, khẩu hiệu chăng khắp nơi, ai chẳng đọc được. Tôi góp phần tạo nên thực chất cho nền giáo dục. Công việc của tôi cao quý như vậy, còn chê trách gì nữa. Đấy, cái lý cho sự tồn tại của những người như tôi là như vậy đấy. Mục đích cuối cùng là để có một sản phẩm tốt, còn ai làm ra mà chẳng được, có quan trọng gì đâu. Hơn nữa, học viên còn cho tôi biết, có những thầy, nếu viết xong mà để thầy phải sửa, tổng cộng các lần sửa họ còn phải trả cao hơn số tiền họ trả để tôi viết toàn bộ. Còn nếu ra bảo vệ rồi mà bị hội đồng yêu cầu phải sửa lại nhiều thì mới kinh, con số mà sinh viên phải chi trả anh không thể tưởng tượng được.

- Ông mất bao nhiêu thời gian để tìm ra những lí lẽ  đó ?

-Dễ ợt à. Đâu có mất nhiều thời gian. Cách nghĩ thông thường. Ai chẳng nghĩ như thế.  Nhưng đến lúc tôi thấy nên dừng. Tôi không làm nữa. Vẫn có nhiều sinh viên đến tìm tôi. Thay vì viết thuê lấy tiền, tôi hướng dẫn cho họ cách làm như thế nào. Việc xào xáo các ý tưởng cũ để tạo ra ý tưởng mới cũng không phải quá khó. Đôi khi chỉ cần thêm vào một vài từ, hay đảo lộn trật tự câu, thế là có ngay một đề tài mới. Thực ra sinh viên không cần làm hộ. Để nghĩ ra cái mới thực sự phải có phương pháp mới, tài liệu mới, chứ nếu chỉ xào xáo thôi thì sinh viên họ làm tốt hơn mấy ông già như tôi rất nhiều.

-Ông kể những chuyện ở đâu, chứ ở đây dù sao cũng đâu đến nỗi.

-Anh cứ như trên trời rơi xuống. Có lẽ anh không làm thế nên anh không hình dung được. Nhưng tôi nói thật, giả sử anh biết có đồng nghiệp làm thế, thì sao ? Thì anh cũng sẽ im lặng chứ sao. Phải không nào ? Anh cùng làm việc với họ, anh đâu có thể xúc phạm họ được ? Anh im lặng, và học trò cứ thế trả tiền. Rồi anh nghĩ sao, anh sẽ nghĩ : chúng nó dốt phải trả tiền là đúng rồi. Đứa nào giỏi đã tự viết lấy luận văn. Đúng quá còn gì nữa. Tôi lao động, hay giáo viên hướng dẫn lao động, tức viết hộ,  phải trả tiền cho chúng tôi chứ sao. Có cái gì sai ở đây đâu nào ? Còn bằng của nhà nước cấp, cũng có gì sai đâu, luận văn xứng đáng được cấp bằng mà. Anh thấy chưa, mọi cái đều đúng. Bây giờ anh biết tôi rồi, tôi kể chuyện cho anh nghe rồi, anh có đi tố cáo tôi không ? Chúng ta chẳng phải đồng nghiệp gì, mà tôi vẫn chắc là anh sẽ không đi tố cáo. Mà tố cáo cũng chẳng sao, chẳng bao giờ anh tìm thấy bằng chứng gì. Một lão già say kể chuyện trong lúc say, ai tin anh ? Với lại, có tin anh người ta cũng sẽ chẳng làm gì sất. Khui chuyện ra, đâu phải chỉ mình tôi bị ảnh hưởng, uy tín của Khoa, của Trường, của cả Bộ, bị ảnh hưởng tuốt. Chẳng ai nhấc chân động tay gì hết, và anh sẽ trở thành kẻ vu khống. Anh cứ thử tố cáo mà xem, người ta sẽ đồng lòng bảo vệ tôi và lên án anh. Tôi thề đấy. 

Lúc nói đến đó ông ấy có vẻ say thật, nhưng mắt ông hơi giễu cợt:

-Bạn ơi, tham nhũng là chuyện lớn người ta còn không giải quyết, huống hồ mấy chuyện nhỏ như chuyện của chúng tôi. Hơn nữa, chúng tôi có lao động, chứ người ta còn chẳng làm gì. Họ ăn nhiều chứ chúng tôi ăn bao nhiêu. Có đáng gì đâu mà phải bày đặt phán xét chúng tôi. Chúng tôi cũng chẳng rỗi hơi mà tự phán xét mình. Cùng lắm chúng tôi chỉ mua vài cái nhà, cho con cái du học, chứ tài sản của những người tham nhũng cỡ bự con cháu họ phải tiêu mấy chục đời không hết. Có phán xét cũng chẳng ích gì. Vui lên đi! Bạn cứ như thế làm sao mà vui được!

Cuối cùng anh trả tiền rượu cho ông ấy, hậu tạ ông về bài học miễn phí, về phương thuốc chữa bệnh miễn phí mà ông đã hào phóng cho anh. Thực ra vài ly rượu mà gọi là hậu tạ cũng hơi quá, em nhỉ!

Chỉ có một điều anh hơi băn khoăn, tại sao mới gặp lần đầu mà ông ấy lại bắt đúng bệnh anh như thế. Anh tự hỏi không biết ông có bạn bè gì của ông bác sĩ không.

Em biết sao không ? Anh thấy rõ ông ấy thương hại anh, như một người khỏe mạnh thương hại một người mắc bệnh. Anh cũng biết mình trở thành chủ đề cho những cuộc đàm tiếu khắp trong giới của anh, trở thành một món nhắm trên các bàn nhậu. Chỉ có điều họ thương hại nên không để lọt đến tai anh. Họ thương hại anh, như những người khỏe mạnh thương hại một người bị bệnh.

Anh vẫn đang tiếp tục trị liệu. Hình như có một vài chuyển biến. Khi anh đọc tin trên báo tường thuật về chuyện một người đàn ông bị kết án tù về tội trốn thuế, anh có cảm giác gần như chấp nhận một cách bình thường những dòng tin đó. Anh để cho mình tin rằng người kia đáng phải vào tù vì trốn thuế. Rồi anh khựng lại, với một thao tác quen thuộc, anh tự hỏi mình : trước khi trị liệu mình sẽ đọc mẩu tin này như thế nào ? Anh ráng nhớ lại phản ứng trước đây. Có lẽ anh sẽ băn khoăn và tiếp tục tìm thông tin ở những địa chỉ cấm để xác nhận xem vụ này xử như vậy có đúng người đúng tội không. Và anh tìm kiếm trên mạng, lúc đó mới biết rằng có cả một làn sóng phẫn nộ trước vụ việc này. Bao nhiêu người đã thắp nến cầu nguyện cho công lý được thực thi, nhưng công lý vẫn chẳng thấy đâu. Rồi anh chợt nhận thấy có cái gì đã biến đổi trong anh. Làn sóng phẫn nộ ấy dường như không tác động tới anh. Anh tự nhủ : dù sao mình cũng chẳng làm được gì, mình chẳng thể nào làm được gì, chẳng ai làm được gì, dù sao người kia vẫn bị kết tội. Rồi anh đặt cái câu hỏi này, cái câu hỏi mà trước kia anh chưa hề đặt ra : « việc đó có liên quan gì đến mình đâu ? » Câu hỏi này làm anh nhói buốt tận tâm can. Anh không hiểu sao lại thế. Em đứng ngoài, có thể em nhìn thấy anh rõ hơn , hãy nói cho anh xem, vì sao ? Anh không hiểu vì sao câu hỏi đó lại làm đầu dây thần kinh anh tê liệt.

Anh gọi điện cho bác sĩ. Ông ấy trấn an anh. Ông nói rằng, khi anh uống kháng sinh nếu vào giai đoạn đầu bệnh nặng lên thì có nghĩa kháng sinh có tác dụng. Trị liệu này cũng thế, nếu anh thấy khủng hoảng hơn, chứng tỏ nó hữu ích. Anh cứ từ từ mà tuân theo phác đồ, thực hiện đúng các kỹ thuật. Ông còn bảo anh phải tăng cường gặp gỡ mọi người, trò chuyện trao đổi. Anh cần cảm nhận sự quý mến của người khác. Ông nói: “được yêu quý là điều hết sức quan trọng”. Ông giải thích cho anh khoảng mười lăm phút trong điện thoại về tác dụng của tình cảm yêu mến. Anh làm gì thì làm, không được mọi người quý mến là coi như vứt đi. Sự yêu mến của sếp là số một, rồi đến lòng yêu mến của đồng nghiệp. Anh cần gia nhập vào các cuộc vui của họ, tìm thấy tiếng nói chung với họ, gác lại sự phán xét của anh sang một bên. Để có thể yêu mến, cần gác lại sự phán xét. Để được yêu mến, cũng cần vứt bỏ sự phán xét.

Anh phải tiếp tục công việc, có lẽ anh sẽ tìm thấy sự thăng bằng trong công việc, trong quan hệ với tha nhân. Tha nhân, từ này nghe thật hay. Anh tạm dừng ở đây, anh không muốn viết cho em khi mà sự tỉnh táo dường như đang biến mất.

Gửi em giấc mơ của anh.

Ngày thứ bảy của  đợt trị liệu đầu tiên