BanTho-TuHuy

BÀN THỜ

 

Bàn thờ là một trong những nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam, là nơi để biểu thị ḷng tôn kính của thế hệ sau đối với các thế hệ trước trong gia đ́nh.

Hơn thế, bàn thờ c̣n thể hiện một khát khao sâu thẳm của người sống : ḿnh tôn kính, nhớ tới tổ tiên để sau này con cháu sẽ tôn kính, nhớ tới ḿnh. Bàn thờ là nơi ǵn giữ kư ức của gia tộc.

Cái bàn thờ sẽ trở nên quan trọng hơn khi người ta không có ǵ để lại ngoài con cái : không có phát minh nào, không có sáng tạo nào, không có tác phẩm nào, không có công tŕnh xây dựng nào, không có công thức toán lư hóa nào… Nghĩa là không có ǵ để ghi dấu sự tồn tại của họ sau khi chết. Con cái quan trọng, không chỉ là để đáp ứng nhu cầu của t́nh cảm, không chỉ là để duy tŕ và bảo tồn giống ṇi, mà c̣n là để duy tŕ kư ức về sự tồn tại, để nhắc nhở rằng ta đă từng có mặt ở trên đời này, rằng ta đă để lại một phần của ḿnh sau khi ra đi, nhờ đó mà ta sẽ tiếp tục sống. Cái bàn thờ nhắc nhở về sự hiện hữu của tổ tiên, chống lại sự tàn phá khốc liệt của sức mạnh lăng quên, nhắc nhở từng ngày, từng giờ những người thân trong gia đ́nh. Người thiên chúa giáo không cần đến bàn thờ này, v́  họ quan niệm cuộc sống vẫn tiếp tục sau khi chết, họ đă có thiên đàng để kéo dài những ǵ vốn hữu hạn trên trái đất.

Một người như Aristote có cần đến bàn thờ không ? Không. Dù không có bàn thờ th́ cả thiên hạ vẫn phải nhớ đến ông. Ông vẫn luôn hiện diện trong kư ức của tập thể, qua suốt cả chiều dài hàng ngàn năm.

Chúng ta cần những con người có thể sống cùng trí nhớ tập thể. Chính họ sẽ đưa cả cộng đồng của ḿnh vào trong kư ức lịch sử. Người ta sẽ không nói về Hy Lạp cổ đại nhiều đến thế nếu ở thời kỳ đó chỉ có những con người biết săn bắn, chăn nuôi và trồng trọt. Chính những Socrate, Aristote, Platon, Pithagor… đă đưa cả  Hy Lạp cổ đại vào kư ức chung của nhân loại.

Sở dĩ văn học Việt Nam giai đoạn 30-45 được yêu mến và được nhắc tới nhiều như vậy là nhờ những người như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Hàn Mặc Tử… Nhưng chúng ta cũng phải trung thực mà nói rằng họ cũng chưa đủ sức để giúp chúng ta thực sự có một chỗ  vững chắc trong kư ức chung của lịch sử văn học thế giới, dù rằng họ đă làm hết khả năng, đă đốt cháy hết ḿnh. Trong khi đó th́ chúng ta đă để lăng phí những Trần Đức Thảo[1], Nguyễn Mạnh Tường… và c̣n đang tiếp tục lăng phí những người như Bùi Văn Nam Sơn.

Vậy cần phải có những con người có khả năng sáng tạo, có khả năng kiến thiết, có ư tưởng, nghĩa là có khả năng giữ cho họ và cho chúng ta một chỗ trong kư ức của các thế hệ mai sau. Những người như thế sẽ ở đâu đây quanh ta, ở trong số con cái của những nông dân, những công nhân, những viên chức, những doanh nhân, những trí thức… Nếu không cho họ cơ hội, không để cho họ có quyền b́nh đẳng về cơ hội, th́ ta sẽ mất năng lực của họ ; con người họ vẫn c̣n nhưng năng lực th́ sẽ mất. Sẽ mất ngay cả khi chưa có dịp bộc lộ, sẽ mất khi không được sử dụng.

Bao giờ ta ư thức được rằng sự tồn tại lâu dài của tất cả chúng ta gắn với những người có khả năng đưa họ và chúng ta vào kư ức lịch sử, những người có được ḷng tôn kính và có thể sống trong trí nhớ của người khác mà không cần đến một bàn thờ nào, lúc đó ta sẽ hiểu cần phải làm ǵ :

Phải cho tất cả mọi người cơ hội như nhau. Phải sử dụng những người có năng lực. Phải tạo điều kiện cho họ phát triển. Phải để cho họ đứng ở chỗ của họ. Phải tạo cơ hội cho họ làm việc. Phải bỏ thói quen ḱm hăm họ, phải bỏ cả cái thói quen đố kỵ, nghi ngờ và chèn ép họ. Phải bỏ thói quen gây áp lực khiến họ sợ hăi, v́ sự sợ hăi sẽ tiêu diệt mọi năng lực sáng tạo. Điều này những nghiên cứu của y học hiện đại về năo bộ đă khẳng định. Con người không thể sáng tạo bất cứ điều ǵ nếu họ không được tự do tư duy hay không tự xây dựng cho ḿnh sự tự do tư duy. Phải bỏ cả nỗi sợ hăi rằng họ sẽ gây nguy hiểm, xóa bỏ được nỗi sợ hăi đó mới có thể mạnh dạn sử dụng các ư tưởng của họ. H́nh dung xem những Copernic, Bruno, Gallilé đă nguy hiểm như thế nào dưới mắt giáo hội đến mức phải bị kết tội lên giàn thiêu? Nhưng nếu họ không « nguy hiểm » như vậy, th́ cũng không có những thành tựu của khoa học thế giới ngày hôm nay. Có lẽ chúng ta chưa ư thức được đầy đủ rằng những con người ngày hôm nay bị coi là nguy hiểm đă cầm chắc một vé vào tương lai, chính họ chứ không phải ai khác. Phải dẹp bỏ tất cả những nỗi sợ hăi ấy, những thói quen ấy.

Làm được như vậy th́ chúng ta mới có thể mong một chỗ trong kư ức của các thế hệ tương lai, nơi đó mới là cái bàn thờ đích thực.

Tp HCM, 5/1/ 2011

Nguyễn Thị Từ Huy

 



[1] Việc để lăng phí một trí tuệ như Trần Đức Thảo đă khiến cho Việt Nam chậm lại cả một thế kỷ trong việc xây dựng ngành triết học vốn không hề có truyền thống trong lịch sử dân tộc. Và bỏ phí Trần Đức Thảo c̣n có nghĩa là Việt Nam đă bỏ mất một khả năng cùng với ông đóng góp vào sự phát triển của lịch sử triết học thế giới. Đến bao giờ chúng ta mới hiểu một cách rơ ràng rằng không phải hội đồng khoa học, không phải chức danh khoa học tạo nên lịch sử khoa học ; mà lịch sử khoa học được tạo dựng bởi những ư tưởng, những tư tưởng cho phép đưa nghiên cứu phát triển lên một cấp độ khác? Bao giờ chúng ta mới chịu thừa nhận rằng giá trị của công tŕnh khoa học không phụ thuộc vào độ tuổi, vào chức danh của người nghiên cứu, mà phụ thuộc vào chất lượng của các sản phẩm khoa học ?  Chỉ đến lúc đó ta mới thực sự thấy tiếc cho những ǵ đă bị lăng phí trong quá khứ và đang bị lăng phí ngày hôm nay.