V́ sao có chuyện đó ?
Có lẽ tôi khó mà quên được một bài kiểm tra giữa kỳ của một sinh viên đại học năm thứ ba mà tôi từng dạy. Tôi không c̣n nhớ tên của sinh viên ấy nữa, nhưng bài viết đó th́ rất khó quên. Trong trí nhớ vốn kém cỏi của tôi vẫn c̣n lại nguyên văn câu hỏi này : « Khi mà tất cả học sinh trong một lớp học đi phong b́ cô giáo, c̣n một học sinh không đi, th́ cái ǵ là phi lí và cái ǵ là có lí ở đây ? » Hoá ra cái phong b́ đă trở nên phổ biến ở cái độ tuổi mà ta vẫn thường h́nh dung là có tâm hồn như một tờ giấy trắng, thuần khiết và tinh khôi. Quan hệ thầy tṛ cũng thành ra là một quan hệ mua bán. Khi tham gia giảng dạy ở các loại h́nh đào tạo khác nhau, tôi cũng được nghe kể về những đ̣i hỏi, yêu sách của giáo viên, những đ̣i hỏi mà bản thân tôi, với tư cách là một người có viết truyện hư cấu, cũng khó h́nh dung nổi. Hai mươi năm trước đây, khi c̣n là học sinh, chúng tôi hầu như không hề phải chứng kiến những chuyện như vậy.
Câu hỏi của em sinh viên gợi lên cho tôi một câu hỏi khác : « Bao nhiêu người trong giáo giới thấy chuyện đó là b́nh thường và bao nhiêu người thấy chuyện đó là bất thường ? » Đương nhiên tôi không có lời đáp cho câu hỏi đó. - Trong thực tế hiện nay vẫn có những người thầy nhường cơm sẻ áo cho học tṛ, vẫn có những cô giáo vùng lũ hy sinh cả tính mạng của ḿnh để cứu học sinh - Nhưng có thể suy nghĩ về một câu hỏi khác nữa : « V́ sao có chuyện đó, và v́ sao chuyện đó trở nên b́nh thường ? » Khi truy nguyên vấn đề, ta sẽ thấy mối quan hệ thầy tṛ cần phải được nh́n nhận trong toàn bộ bối cảnh chung của xă hội. Ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào một vài điểm.
Một trong những căn nguyên sâu xa là ở chỗ : người giáo viên không sống được bằng đồng lương của ḿnh. Trong khi giá một tách cà phê của Trung Nguyên có thể lên đến 50000 đồng, th́ mức lương khởi điểm của một viên chức nhà nước cao nhất chỉ khoảng hơn 2 triệu đồng. Hăy thử tính xem một tháng lương của họ mua được mấy tách cà phê ? Và họ phải sống, phải lo cho bố mẹ, lo cho con cái, phải đi viện, v.v… Có nghĩa là họ phải có tiền. Và cách để có tiền dễ dàng nhất là khai thác mối quan hệ công việc của họ. Thế là học sinh có thể biến thành đối tác, hay tệ hơn, thành phương tiện khai thác. Đạo đức của người thầy v́ thế dễ dàng bị đe dọa bởi lư do mưu sinh.
Nếu xét từ góc độ lương tri xă hội th́ mức lương hiện nay của các viên chức nhà nước, không riêng ǵ trong lĩnh vực giáo dục, biểu hiện một sự thiếu tôn trọng đối với họ. Tại sao lại thiếu tôn trọng ? V́ họ làm việc nhưng không sống được bằng công việc của ḿnh. Đồng lương phán ánh sự công nhận của xă hội về giá trị của người lao động. Ta biết là cơ chế tuyển dụng ở các nước phát triển cho phép người lao động tự đề xuất mức lương của ḿnh, cho phép họ tự đánh giá năng lực và giá trị của họ. Nếu như lương quá thấp th́ có nghĩa là công việc của người lao động bị đánh giá thấp. Nếu một loại lao động bậc cao mà bị trả lương thấp th́ phải giải thích như thế nào ? Nếu lao động để rồi nhận được một khoản thù lao không đủ duy tŕ cuộc sống th́ phải giải thích như thế nào ? Người ta có thể suy diễn rằng trong tư duy của người trả lương, người lao động không được tôn trọng, không đáng để được sống cho ra sống, chỉ đáng sống một cách thấp kém. Một suy diễn như vậy hoàn toàn có thể, khi mà trong tương quan chung của xă hội hiện tại, cùng một công việc, th́ ở khu vực tư nhân, người lao động được trả công cao hơn gấp nhiều lần. Hiện nay quả thật rất khó t́m lư do để biện minh cho việc các cơ quan nhà nước trả lương thấp hơn quá nhiều so với các đơn vị tư nhân trong cùng lĩnh vực.
Người viên chức, khi chấp nhận đồng lương tồi tệ đó, th́ cũng có nghĩa họ chấp nhận bị đánh giá thấp về mặt giá trị và năng lực lao động. Rất có thể, một cách tự nhiên, ngoài tầm kiểm soát của ư thức, người viên chức quen dần với việc bị coi là thấp kém, quen dần với việc người ta muốn đối xử với ḿnh thế nào cũng được, quen dần với việc đánh mất ḷng tự trọng, và chỉ c̣n nghĩ đến việc làm thế nào để tồn tại. Lúc đó nhân phẩm không c̣n mấy ư nghĩa trước nhu cầu tồn tại. Lâu dần vấn đề nhân phẩm không c̣n đặt ra nữa. Mọi quan hệ đều có thể bị đánh giá bằng hiệu quả tiền bạc, kể cả quan hệ thầy tṛ.
Nói như vậy không có nghĩa là mọi viên chức đều rơi vào trường hợp trên đây. Cũng nhiều người kiếm sống bằng những công việc làm thêm chân chính. Nhưng hệ quả là họ có thể sao nhăng chuyên môn chính. Vấn đề là họ không thể sống bằng công việc chính của ḿnh. Biết bao nhiêu tài năng đă phôi pha v́ phải mưu sinh ? Biết bao nhiêu trí tuệ lẽ ra phải được sử dụng cho việc sáng tạo và kiến thiết rút cuộc đă chỉ được phát huy ở những khía cạnh mà ta gọi là có tính chất thực dụng, tức là để tạo ra tiền bạc ?
Nạn chảy máu chất xám của khu vực nhà nước hiện nay có một lư do c̣n sâu xa hơn cả nhu cầu mưu sinh, đó là nhu cầu được thừa nhận về giá trị. Những người có năng lực muốn rằng năng lực của họ được đánh giá đúng mức, muốn nhận được sự tôn trọng mà họ đáng được nhận. Họ cũng muốn có thể sống được bằng những đồng tiền mà họ làm ra một cách chân chính. Đồng thời họ muốn có cơ hội để thể hiện những khả năng của ḿnh. Đó là một nhu cầu chính đáng và lành mạnh mà tất cả các xă hội phát triển đều khuyến khích.
Mối quan hệ thầy tṛ c̣n bị ảnh hưởng do cơ chế tuyển dụng. Trong bài tham luận cho chương tŕnh tọa đàm « Doanh nhân trẻ đóng góp ư kiến cho dự thảo văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI »[1], Huỳnh Thế Du, giảng viên chương tŕnh Giảng dạy kinh tế Fulbright, đă có nhận xét rằng : « Môi trường ở Việt Nam có vẻ như KHÔNG khuyến khích hay CHƯA CÓ một nhu cầu thực sự về nguồn nhân lực chất lượng cao ». Tiêu chí đánh giá nhân lực vẫn là « khôn vặt », « làm hài ḷng cấp trên » thay v́ « tính sáng tạo » và « tinh thần doanh nhân ». Trong lĩnh vực kinh doanh mà c̣n như vậy. Trong lĩnh vực giáo dục, cơ chế tuyển dụng ở các trường công lập (hiện nay trường công lập vẫn chiếm đa số) thường[2] không dựa trên tiêu chí năng lực, mà, hoặc là thuần túy dựa trên quan hệ và tài chính, hoặc là năng lực cộng với quan hệ và tài chính, đôi khi chỉ tiêu chí tài chính cũng đủ. Tài chính có nghĩa là ǵ ? Có nghĩa là người xin việc phải bỏ ra một khoản tiền để được nhận vào làm việc. Thế là tuyển dụng cũng trở thành một h́nh thức mua bán. Như vậy, ngay từ khi khởi nghiệp, chấp nhận tuân thủ cơ chế tuyển dụng ấy, người giáo viên đă đánh mất ḷng tự trọng của ḿnh. Đạo đức đă suy thoái ngay từ lúc đó[3]. Hai nữa, bỏ ra một số tiền rất lớn để thu về một số lương quá ít ỏi quả là một nghịch lư. Để giải quyết nghịch lư đó, không ít giáo viên đă khai thác đối tượng học sinh của ḿnh. Và trong khi đa số giáo viên sống khó khăn v́ đồng lương eo hẹp th́ một bộ phận nhỏ quan chức giáo dục lại có siêu thu nhập không thể tưởng tượng được. Điều đó càng khiến người giáo viên không có lư do ǵ để giữ ǵn cái mà trước đây được gọi là đạo đức nghề nghiệp hay nhân phẩm.
Do vậy, giải quyết vấn đề lương không chỉ là giải quyết vấn đề đời sống cho giáo viên, cho viên chức, mà c̣n là để cứu văn cả nền tảng đạo đức xă hội. Cần nhận thức đầy đủ rằng sự băng hoại của các mối quan hệ giữa người và người - trong đó có mối quan hệ thầy tṛ - bắt nguồn từ chính sự thiếu tôn trọng nhân viên bằng việc buộc họ phải làm việc để nhận một đồng lương không xứng đáng với lao động của họ, không xứng đáng với nhân phẩm của họ.
Dĩ nhiên, lương chỉ là một trong rất nhiều yếu tố tác động tới quan hệ thầy tṛ thời đương đại. Những yếu tố đó đều cần được đưa ra thảo luận, nếu thực sự muốn cải thiện và thay đổi t́nh trạng.
Nguyễn Thị Từ Huy
Tp HCM, 15/11/2010
(Bài trả lời phỏng vấn của An ninh thế giới cuối tháng, số tháng 11/2010)
[1] Chương tŕnh tọa đàm diễn ra ngày 31/10/2010, ở Tp HCM, tại ṭa soạn báo Tuổi Trẻ, với sự tham gia của bà Hà Thị Khiết, Bí thư Trung Ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận TW.
[2] Đương nhiên là vẫn có những người được tuyển dụng nhờ khả năng của họ, và vẫn có những trường tuyển dụng dựa trên tiêu chí năng lực. Bức tranh giáo dục không hoàn toàn xám xịt, và cũng không bao giờ có thể hoàn toàn xám xịt.
[3] Ở đây đang nói tới đạo đức của người được tuyển dụng, c̣n đạo đức của người tuyển dụng trong những trường hợp như thế này chắc hẳn đă trải qua một quá tŕnh suy thoái lâu dài.