Nam Dao giới thiệu:
Đẩy đến giới hạn, sự t́m hiểu vật giới của nhà khoa học và nhân giới của nhà văn có một thành tố chung. Đó là ḷng say mê. Và chính từ say mê họ sở đắc một bản chất chung: họ đều là những nghệ sĩ trong cuộc truy lùng những huyền diệu của bản giao hưởng giữa con người nhỏ nhoi hữu hạn với một vũ trụ vô cùng và bí ẩn. Cám ơn nhà khoa học Phạm Xuân Yêm đă chia sẻ với bạn đọc qua một bài viết khái quát nhưng rơ ràng về một lư thuyết vật lư quan trọng không mấy ai ‘’ngoại đạo’’ mà nắm được.
Phạm Xuân Yêm
Lược giải về thuyết tương đối
Nguồn : Talawas 9/2008
1. Ư tưởng sung
sướng nhất trong đời tôi
Một chiều Chủ nhật cuối tháng Năm năm
1905 đẹp trời nắng ấm, Albert Einstein và anh
bạn thân cùng sở làm Michele Angelo Besso dạo chơi trên đồi
Gurten, xa xa dưới chân là thành phố Bern cổ kính
hiền hoà, họ bàn luận trao đổi về bí
hiểm ether [1] , rồi
ngay tối hôm đó ông suy nghĩ tính toán và dần dần
h́nh thành thuyết tương đối hẹp để
vài tuần sau gửi đăng trên tạp chí uy tín
thời đó Annalen der Physik. Trong ṿng hai năm, công
tŕnh này gây được nhiều tiếng vang tán
đồng trong giới hàn lâm và nghiên cứu (đặc
biệt bởi Max Planck, người khai phá ra thuyết
lượng tử mà dấu ấn ngày càng in đậm
trong khoa học và công nghệ hiện đại), mặc
dầu c̣n một số người nghi ngại v́ khái
niệm cách mạng của thời gian không phổ quát mà co
dăn. Nhà vật lư thực nghiệm tiếng tăm Johannes
Stark [2] mời ông
viết một bài tổng hợp về lư thuyết
mới mẻ đó và b́nh luận về những hệ
quả cùng triển vọng. Công việc đ̣i hỏi
nhiều thời gian v́ ông vẫn phải tiếp tục
tám giờ mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần làm việc
tại Pḥng Đăng kư Bằng Sáng chế của thành
phố Bern để nuôi tiểu gia đ́nh gồm hai
vợ chồng và con trai Hans vừa tṛn ba tuổi. Nhưng
hoàn tất bài tổng hợp đó cũng là phương
cách để Einstein hy vọng t́m được một
chức vụ giảng dạy và nghiên cứu ở
đại học mà ông hằng ước mơ sau khi
tốt nghiệp trường Bách khoa Kỹ thuật ở
Zürich (ETH). Chỉ lúc rảnh rang trong giờ cạo
giấy ông mới có đôi phút suy tư về vật lư.
Rồi một ngày tháng Mười Một năm 1907,
đang ngồi trong Pḥng Đăng kư, Einstein chợt
nẩy ra một ư tưởng mà ông coi như măn nguyện
nhất trong đời: một người rớt
từ trên cao xuống không cảm thấy sức nặng
của ḿnh. Theo ông kể, ư tưởng giản dị
có vậy thôi, nhưng nó gây một ấn tượng
mạnh khiến tôi vô cùng sửng sốt và dần dà
đưa đẩy tôi khám phá ra một lư thuyết
mới về hiện tượng vạn vật hấp
dẫn. Để hiểu cái mới lạ ra sao, có lẽ
không ǵ hơn là trở về thời điểm của
cơ học cổ điển, khi Galileo Galilei (1564-1642)
phát hiện ra tính chất phổ quát của vật
chất rơi trong không trung bởi sức hút (hấp
dẫn hay trọng lực) của trái đất, theo
đó nếu vắng một sức cản nào của môi
trường, không khí chẳng hạn, th́ mọi vật
bất kể khối lượng lớn nhỏ ra sao,
ở chung một chỗ trên cao sẽ rơi xuống
hệt như nhau với cùng một gia tốc [3] . Chúng ta
chưa quên h́nh ảnh mấy phi hành gia đầu tiên lên
cung Hằng năm 1969 thả cái búa tạ cùng mấy
sợi lông tơ để thấy chúng quả thực
rơi xuống mặt trăng với cùng một gia
tốc v́ ở đấy vắng không khí cản trở.
Thí nghiệm này chỉ tượng trưng thôi chứ
chẳng gây chút ngạc nhiên nào v́ lâu lắm rồi chính
Isaac Newton (1643-1727), vài chục năm sau phát kiến của
Galilei, đă chứng nghiệm tính phổ quát nói trên khi quan
sát các chu kỳ dao động giống hệt nhau của
mấy chiếc quả lắc đồng hồ nặng
nhẹ khác nhau. Lực hấp dẫn, không như các
lực cơ bản khác (lực của điện từ
hay của các hạt nhân nguyên tử), mang đặc tính
độc đáo là nó áp đặt một gia tốc duy
nhất lên mọi vật thể đặt ở cùng
một chỗ, bất kỳ khối lượng lớn
nhỏ của vật đó.
Ngoài ra c̣n thêm một khía cạnh nữa là phương tŕnh
căn bản của cơ học F = m γ
bảo cho ta khối lượng m mang một
đặc trưng là nó diễn tả tính trây ỳ hay quán
tính của vật thể. Thực thế, bất kỳ
một lực F nào (trọng lực, điện
từ lực, lực hạt nhân, lực cơ bắp hay
máy móc) khi áp đặt lên một vật A mang khối
lượng m, vật đó sẽ chuyển
động với gia tốc γ. Cũng một
lực F ấy khi tác động lên một vật B
khác mang khối lượng ba lần lớn hơn A th́
dĩ nhiên gia tốc của B so với A giảm đi ba
lần, nó chuyển động chậm hơn A hay có
quán tính lớn gấp ba lần A. Vậy khối
lượng biểu lộ khả năng quán tính của
vật thể chống lại sự di động.
Kết hợp hai điều trên, trọng lượng [4] của một
vật (lực mà vật ấy bị hút bởi trọng
trường tạo nên bởi vạn vật trong vũ
trụ) lại tỉ lệ thuận với tính trây ỳ
của vật đó và tính phổ quát của Galilei
được chứng minh khi ta dùng phương tŕnh
cơ bản [5] của
động lực học [6] .
Mối liên hệ sâu sắc giữa trọng lực, gia
tốc và quán tính được Newton miêu tả -
bằng ngôn ngữ toán học ngắn gọn và chính xác -
trong định luật vạn vật hấp dẫn.
Chủ yếu Newton, tuy không t́m được nguyên nhân
tại sao có sự liên hệ như vậy, nhưng đă
nhận ra là khối lượng của một vật A
mang ba đặc trưng: (i) quán tính của A, (ii) A phải
phản ứng ra sao khi trọng lực (tạo ra bởi
một vật B khác ở ngoài) tác động lên nó, và (iii)
chính vật A cũng tự nó sinh ra một trọng
trường để lôi hút mọi vật khác ở xung
quanh [7] và dĩ
nhiên lên vật B. Trong ṿng hơn hai thế kỷ sau Newton,
nhiều nhà khoa học, mặc dầu làm việc trong
hệ h́nh (paradigm) của cơ học cổ điển,
hầu như đă quên mất chuyện quan trọng này,
chẳng c̣n mấy ai đào sâu t́m hiểu thêm ba vai tṛ tiên
nghiệm rất biệt lập của khối
lượng.
2. Và Einstein xắn tay mở khoá
Mối liên hệ giữa quán tính, gia tốc và trọng
lực mà trực giác Einstein linh cảm thấy trong một
buổi trưa tháng Mười Một năm 1907 phải
gói ghém một tín hiệu nào đó và ông bắt đầu
suy tư. Lao tâm khổ tứ, gian nan lặn lội trong sai
lầm rồi tỉnh ngộ, khi vui lúc nản trong tám
năm trường [8] để
cuối cùng ngày 25 tháng Mười Một năm 1915
bừng sáng, ông rẽ mây chỉ lối cho nhân loại khai
thác một kho tàng tri thức vô ngần sâu sắc, không
những của vật lư mà cũng của vũ trụ
quan và triết học nói chung. Ông mường tượng,
trước hết ta sẽ quan sát được ǵ trong
một cái thang máy đứt dây và rơi tự do trong không
trung bởi tác động của trọng trường
quả đất. Theo tính chất phổ quát của
Galilei, tất cả mọi vật ở trong thang, kể
cả chính nó đều rơi như nhau với cùng
một gia tốc g, nên so với sàn thang th́ chúng
hoặc đứng yên hoặc lướt đi
đều đặn với vận tốc cố
định. Ngày nay các phi hành gia lơ lửng trong những
hỏa tiễn thám hiểm vũ trụ là h́nh ảnh quen
thuộc của hiện tượng vô trọng
lực. Bất kỳ mỗi điểm trong thang máy
rơi đều có thể coi như một hệ qui
chiếu quán tính [9] , trong
đó trọng lực như bị xóa đi, phản ánh ư
tưởng sung suớng nhất trong đời Einstein.
Thêm bước nữa, ông mường tượng một
nơi xa lánh tất cả mọi thiên hà tinh tú, một không
gian ở đó vắng mặt trọng trường. Trong
cái không gian vô trọng lực ấy, có một hộp mà ta
đẩy mạnh lên cao với một gia tốc nào
đó, ta thấy mọi vật ở trong hộp
bị đẩy rơi ngược chiều xuống
thấp với cùng một gia tốc, giống
như hộp bị hút xuống bởi một trọng
lực, điều quá quen thuộc trên xe hơi khi ta
bất chợt nhấn mạnh phanh, mọi người
như bị kéo về phía trước. Vậy th́ vận
chuyển có gia tốc nào khác ǵ tác động của
trọng trường, có một mối liên hệ mật
thiết giữa gia tốc và sức hút của trọng
lực. Những tác dụng của một trọng
trường thực có thể như bị xóa
bỏ trong một hệ qui chiếu rơi tự do (gia
tốc ≠ 0), hoặc khi ta khảo sát vận chuyển
có gia tốc, một trọng trường ảo
như được tạo ra. Để hiểu lư
do tại sao Einstein lại chú tâm đến gia tốc khi
đang viết bài tổng hợp về thuyết
tương đối hẹp (trong đó chỉ có sự
di chuyển đều đặn, gia tốc = 0),
mời bạn đọc trở về với nguyên lư
tương đối mà Galilei tóm tắt trong
một câu ngắn gọn "di chuyển đều
đặn cũng như không’’, hàm ư rằng trong hai
hệ quy chiếu, một cái đứng yên (tọa
độ x,y,z,t), một cái di động đều
đặn với vận tốc v cố định
(tọa độ x’,y’,z’,t’), các định luật miêu
tả thiên nhiên đều giống hệt nhau [10] , hay
f(x,y,z,t) = f(x’,y’,z’,t’) hàm số f tượng trưng cho
một định luật vật lư nào đó [11] . Khi nguyên
lư này áp dụng cho điện từ để diễn
tả vận tốc ánh sáng c không thay đổi trong
tất cả các hệ quy chiếu quán tính th́ hàm số f
chính là f(x,y,z,t) ≡ (x² + y² + z²) - (ct)². Đó là
điểm khởi đầu, từ đó Einstein, Lorentz
và Poincaré mỗi người một vẻ đă xây
dựng nên thuyết tương đối hẹp
(hay thuyết tương đối đặc biệt,
phụ chú 12). Có lẽ trong tiềm thức, Einstein tự
đặt câu hỏi, các định luật sẽ thay
đổi ra sao trong trường hợp các hệ quy
chiếu di chuyển không đều đặn,
và khi phân tích những điều vừa kể trên về
thang máy rơi, ông nhận ra vai tṛ quyết định
của trọng trường trong sự nới rộng
phạm vi không gia tốc của thuyết tương
đối hẹp sang phạm vi có gia tốc của
thuyết tương đối rộng (hay thuyết
tương đối tổng quát). Câu "di
chuyển đều đặn cũng như không’’ của
Galilei, qua ư tưởng sung sướng nhất trong
đời của Einstein, nay biến thành "di chuyển
không đều đặn chẳng khác ǵ tác động
của trọng lực’’, đă mở đầu một
kỷ nguyên mới cho vật lư, nới rộng thuyết
tương đối đặc biệt sang thuyết
tương đối tổng quát để thay thế
thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton,
định luật cổ điển này chỉ là
truờng hợp xấp xỉ gần đúng của
thuyết tương đối rộng vô cùng chính xác.
Hơn nữa c̣n thêm một nguyên nhân thúc đẩy Einstein
mở rộng thuyết tương đối đặc
biệt v́ ông nhận ra có một mâu thuẫn giữa
thuyết này (theo đó vận tốc của mọi tín
hiệu đều có hạn, kể cả ánh sáng) và
luật cổ điển vạn vật hấp dẫn
(theo đó trọng lực truyền đi với vận
tốc vô hạn để vạn vật hút nhau tức
th́). Vậy bằng cách nào đó sửa đổi
luật hấp dẫn Newton sao cho ḥa đồng với
thuyết tương đối hẹp sẽ tự
động giải đáp được mâu thuẫn nói
trên. Dùng nguyên lư tương đương
giữa gia tốc và trọng lực như một tiền
đề, ông suy diễn, dùng dụng cụ toán học
để t́m một định luật mới về
hấp dẫn, hơn nữa c̣n đề xuất
những hệ quả và tiên đoán những hiện
tượng kiểm soát đo lường được.
Cách tiếp cận cách tân như vậy khởi đầu
từ Galilei - trong đó suy luận, phê phán bằng lư tính và
kiểm chứng bằng thực nghiệm đóng vai tṛ
chủ đạo - là bài học sâu xa cho hậu thế và
tiếp tục làm kim chỉ nam cho tiến tŕnh nghiên
cứu sáng tạo của khoa học ngày nay.
3. Không-thời gian bốn chiều biến dạng
từ phẳng sang cong
3a. Vài điều sơ đẳng về thuyết
tương đối hẹp, một giai đoạn
tối quan trọng cần thấu triệt để
đi xa hơn nữa trong tiến tŕnh khám phá ra thuyết tương
đối rộng. Einstein khởi đầu bằng
chấp nhận nguyên lư tương đối áp dụng
cho điện từ như một tiền đề - theo
đó vận tốc ánh sáng bao giờ cũng cố
định và bằng c, không thay đổi trong
bất kỳ các hệ quy chiếu quán tính nào - mà Michelson và
Morley đă chứng tỏ bằng thực nghiệm. Trong
hai hệ quy chiếu, một đứng yên (toạ
độ x,y,z,t), một di chuyển đều đặn
với bất kỳ vận tốc v cố định
(toạ độ x’,y’,z’,t’), vận tốc ánh sáng không
thay đổi được diễn tả bằng
ngôn ngữ toán học là b́nh phương khoảng cách
s² của ánh sáng truyền đi trong hai hệ quy chiếu
phải như nhau hay bất biến [12] : s² ≡
(x² + y² + z²) - (ct)² = (x’² + y’² + z’²) - (ct’)². Với
thời gian phổ quát duy nhất của Newton (t = t’) th́ s²
không sao bất biến được và đă làm đau
đầu bao nhà khoa học. Điểm then chốt
của thuyết tương đối hẹp là các vị
Lorentz, Poincaré, Einstein mỗi người một cách đă
phát kiến ra hệ số k = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²)
≥ 1 ch́a khoá mở đường vô cùng quan trọng cho
cơ học tương đối tính [13] . Từ
tiền đề nguyên lư tương đối và hệ
số k, Einstein suy ra nhiều hệ quả kiểm
chứng được bằng thực nghiệm,
trước hết là phương tŕnh E = kmc² của
thế kỷ, liên kết năng lượng E khổng
lồ với khối lượng m nhỏ bé [14] , tuyệt
vời và đại chúng. Thông điệp thứ hai, sâu
sắc và kỳ lạ, là chẳng có một thời gian
tuyệt đối và phổ quát trong một không gian
biệt lập với thời gian. Có muôn ức thời
gian (t’ và t dẫu khác nhau nhưng cả hai đều
chỉ định thời gian trong hai hệ quy chiếu)
nhanh chậm không đồng đều, thời gian
của mỗi hệ quy chiếu tùy thuộc vào vận
tốc chuyển động của hệ ấy. Mỗi
thời-điểm phải gắn quyện với mỗi
không-điểm trong một thực tại bốn
chiều gọi là thế giới Minkowski để
diễn tả một sự kiện. Khoảng cách thời
gian của bạn khác của tôi, ở mỗi điểm
không gian lại gắn liền một đồng hồ
đo thời gian với nhịp điệu tích tắc
khác nhau [15] . Sở
dĩ bạn và tôi tưởng rằng chúng ta chia sẻ
một thời gian phổ quát, chỉ v́ cộng nghiệp
con người trong cái không gian quá nhỏ bé của trái
đất so với vũ trụ, bạn và tôi đâu có xa
nhau ǵ, vận tốc tương đối giữa chúng ta
thấm ǵ so với vận tốc ánh sáng (v²⁄c² «
1, k ≈ 1). Hơn nữa không có mũi tên thời gian
lạnh lùng trôi của trực giác mà cơ học cổ
điển Newton thừa nhận, cũng không có khái
niệm hiện tại, cái bây giờ chẳng thể
xác định và giữ vai tṛ ưu tiên đặc thù nào
hết v́ cái lúc nào phải đi với cái ở
đâu. Hơn nữa, không gian và vật chất, cái
vỏ chứa và cái bị chứa, lại như h́nh
với bóng trong vũ trụ vô thuỷ vô chung co dăn
(thuyết tương đối rộng, xem phần 4, 5).
Đă không có hiện tại th́ nói chi đến quá khứ
và tương lai, đó là nội dung triết học quá
ư kinh ngạc của thuyết tương đối
hẹp và rộng trong nhận thức về thời gian,
nó không phải là mũi tên trôi một chiều từ quá
khứ đến tương lai mà chỉ là một trong
bốn thành phần của thực tại mang tên gọi
không-thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn hồi.
Diễn tả hàm súc nhất về nhận thức này có
lẽ nằm trong bức thư Einstein gửi cho con trai
của Besso [16] khi nghe tin
bạn mất. Bức thư viết: "Vậy
bạn đă trước tôi một chút, giă từ cái
thế gian lạ lùng này. Nhưng cái đó chẳng nghĩa
lư ǵ. Đối với chúng ta, những nhà vật lư có xác
tín, sự chia cách quá khứ, hiện tại, tương
lai chỉ là một ảo tưởng, dẫu nó dai
dẳng đến thế nào’’.
Điều cơ bản cần nhấn mạnh là không gian
và thời gian chẳng c̣n biệt lập nhưng mật
thiết liên đới trong một thực thể bốn
chiều không-thời gian mà Einstein sẽ khai thác sâu xa thêm
trong lư thuyết tương đối rộng với
sự thay đổi toạ độ quy chiếu phi quán
tính (gia tốc ≠ 0).
3b. Chúng ta khởi đầu đi từ không gian ba
chiều tuyệt đối của Newton để sang
thế giới không-thời gian bốn chiều của
Minkowski, cả hai đều phẳng theo nghĩa h́nh
học Euclid. Nếu khoảng cách vi phân b́nh phương
trong không gian ba chiều là |dX|² = dx² + dy² + dz² (quỹ tích là mặt
cầu Ѕ2 trơn tru) th́ b́nh phương khoảng
cách vi phân ds² trong không-thời gian bốn chiều là ds² =
(dx² + dy² + dz²) - (cdt)² (quỹ tích biểu hiện
bởi h́nh hyperboloïd Ѕ3 trơn tru). Đó cũng là
định lư Pythagoras mở rộng trong bốn chiều
với các hệ số ±1 thay v́ chỉ có +1 của |dX|². Khi
mở rộng quy mô vận chuyển không gia tốc
của thuyết tương đối hẹp
(với h́nh học phẳng của không-thời gian
bốn chiều Minkowski) sang quy mô vận chuyển có
gia tốc của thuyết tương đối rộng,
năm 1912 (vâng 5 năm sau cái ư tưởng sung sướng
nhất trong đời, trải qua bao nhiêu gian lao), trực
giác của Einstein cảm thấy cấu trúc h́nh học
phẳng sẽ phải biến dạng sang h́nh học cong [17] v́ gia tốc
c̣n hàm nghĩa sự quay, uốn lượn mà mặt
phẳng hay h́nh cầu trơn tru giản dị không
diễn tả được hết cái phức tạp,
tế nhị của mọi quỹ đạo trong thiên
nhiên. Để thống nhất các kư hiệu toán dùng trong
h́nh học bốn chiều phẳng hay cong, thay v́ t, x, y, z,
ta hăy dùng bốn tọa độ ct ≡ x0,
x ≡ x1, y ≡ x2, z ≡ x3, và
định nghĩa một tứ-vectơ xμ là
vectơ có bốn thành phần x0, x1, x2, x3 (thay v́ vectơ
quen thuộc x với ba thành phần x,y,z trong không gian ba
chiều). Trong h́nh học phẳng Minkowski, b́nh phương
khoảng cách ds² = (dx² + dy² + dz²) - (cdt)² giữa hai
không-thời điểm xμ và (xμ +dxμ) sẽ
viết dưới dạng ds² = ημν dxμ
dxν, các chỉ số μ (hay ν) có giá trị 0, 1, 2,
3 và hệ số ημν là những con số
thực như +1 hay −1 (thí dụ ηoo = −1, ηi
i = +1, ηoi = ηio = ηij = 0 với i ≠ j, i hay j là
1,2,3). Ngoài ra trong kư hiệu ngắn gọn ημν
dxμ dxν, ta theo quy ước [18]
Riemann-Einstein làm tổng hợp các đóng góp của cả
hai chỉ số μ,ν.
Làm sao mở rộng sang h́nh học cong những hệ
số ημν quá đơn sơ của h́nh học
phẳng Minkowski? Einstein nhớ lại những bài giảng
(của thầy dạy toán C.F.Geiser khi ông là sinh viên ở
ETH) về mặt cong hai chiều Ѕ2 mà nhà toán và vật
lư học trứ danh Karl F. Gauss [19] đă
từng phân tích cấu trúc lồi lơm của mặt quả
bóng bầu dục, so sánh với mặt quả cầu
trơn tru. Ngoài ra c̣n công tŕnh của nhà toán học Bernhard
Riemann, môn đệ của Gauss, đă tổng quát hóa
kết quả của thầy từ bề mặt bầu
dục hai chiều sang trường hợp nhiều
chiều. Để mở đầu, ta hăy xét
trường hợp những bề mặt hai chiều và
nhận thấy khoảng cách giữa hai điểm kế
cận vi phân trên mặt quả cầu tṛn trơn tru
chẳng khác chút nào khoảng cách giữa hai điểm
kế cận vi phân trên mặt phẳng, nếu ta h́nh dung
bao quanh hai điểm trên mặt cầu bằng trang
giấy phẳng tiếp xúc sát với h́nh cầu, và hai
trục tọa độ thẳng góc trên h́nh cầu sẽ
là hai đường kinh tuyến và vĩ tuyến quen
thuộc của trái đất lư tưởng phẳng phiu
tṛn trĩnh. Mặt cầu (như mặt phẳng) sẽ
bị bao trùm bởi một mạng lưới gồm muôn
vàn h́nh vuông vi phân, ta chỉ cần hai toạ độ x, y
như trên mặt phẳng để xác định
khoảng cách dl giữa hai điểm vi phân trên
mặt cầu, dl² = dx² + dy². Nếu mặt cầu (hay
bóng bầu dục) lồi lơm, ta cũng chẳng cần
một tọa độ thứ ba để đo
chiều cao hay chiều sâu, nhưng mạng lưới h́nh
vuông sẽ thành mạng lưới của các h́nh b́nh hành
bao bọc mặt cầu lồi lơm này. Định lư
Pythagoras của h́nh b́nh hành (chữ nhật không vuông góc) cho
ta khoảng cách dl giữa hai điểm vi phân của
mặt hai chiều Ѕ2 lồi lơm: dl² = g11 dx² + 2g12
dxdy + g22 dy². V́ mỗi điểm lồi lơm khác nhau
bị bao quanh bởi mỗi h́nh b́nh hành khác nhau (không như
trường hợp mặt cầu trơn tru chỉ có
một h́nh vuông duy nhất ở mọi điểm),
nên ba hệ số g11, g12 và g22 không nhất thiết là con
số mà là hàm của x, y trong trường hợp
chung tổng quát, vậy ta có g11(x, y), g12(x, y), g22(x,y). Suy
từ hai chiều sang bốn, ta thấy với
không-thời gian bốn chiều cong uốn của h́nh
học Riemann, b́nh phương khoảng cách giữa hai
điểm kế cận vi phân (xμ và xμ + dxμ)
phải là
ds² = gμν(xλ) dxμ dxν (I)
và ta gọi gμν(xλ), hàm của
tứ-vectơ xλ, là metric (như mét) đo lường
khoảng cách giữa hai không-thời điểm trong
cấu trúc h́nh học cong bốn chiều. Sự
đối xứng toàn diện trong hoán chuyển μ ↔ ν của ds²
bảo cho ta có tất cả mười [20] thành phần gμν(xλ)
gộp lại trong một đại lượng duy
nhất mà ta gọi là ma trận 4×4 g(xλ), cũng như
những tứ-vectơ xλ, xμ, xν đều có bốn thành phần x0, x1, x2, x3.
Để tóm tắt, trong giai đoạn đầu thai
nghén của thuyết tương đối rộng,
Einstein đặt nền tảng h́nh học của một
không-thời gian cong trong đó khoảng cách b́nh
phương giữa những sự kiện vật lư
tạo thành những h́nh hyperboloïd [21] . H́nh này là quỹ tích của tập hợp các
điểm cách trung tâm hệ quy chiếu O một
độ dài ds trong thế giới cong bốn
chiều, cũng như mặt h́nh cầu là quỹ
tích của tập hợp các điểm cách trung tâm O
một độ dài |dX| trong thế giới phẳng ba
chiều. Cấu trúc cốt lơi của h́nh học cong chính
là metric gμν(xλ), một hàm tổng quát
của tứ-vectơ xλ. Không có hệ qui chiếu nào ưu tiên hơn
hệ khác để diễn tả các hiện tượng
vật lư, các định luật vật lư đều
phải giữ nguyên dạng trong bất kỳ hệ qui
chiếu phi quán tính nào mà ta chọn. Einstein gọi nó là nguyên
lư tương đối tổng quát, mở rộng cái
nguyên lư tương đối hẹp của Galilei như
đă tŕnh bầy ở đoạn 2.
3c. Giai đoạn thứ hai vô cùng quan trọng trong
tiến tŕnh xây dựng thuyết tương đối
rộng là sự đồng nhất hóa metric gμν(xλ) của cấu trúc h́nh
học thuần túy với trọng trường
của vật lư. Đó quả thật là một cách
mạng trong tư duy khoa học của loài người khi
Einstein gắn bó hai đại lượng cơ học và
h́nh học mà trước ông ai cũng nghĩ rằng hoàn
toàn khác biệt. Nó thể hiện ư tưởng sung
sướng nhất đời của Einstein mà ông gọi
là nguyên lư tương đương giữa gia
tốc và trọng trường đă nói ở trên. Thực
thế, chúng ta hăy xem xét một quan sát viên trong hệ quy
chiếu quán tính của không-thời gian phẳng bốn
chiều Minkowski, người ấy không nhận ra một
trọng trường nào cả, mọi vật không rơi
mà di chuyển đều đặn hay đứng yên, và
thước đo lường khoảng cách không-thời
gian là metric đơn sơ ημν. Nay người ấy
ở trong thang máy rơi với gia tốc ≠ 0, anh ta
thấy hai điều (i) tọa độ không-thời
gian sẽ biến đổi một cách phi tuyến tính
với metric gμν(xλ) thay đổi
từ điểm này sang điểm kia rất phức
tạp (ii) mọi vật trong thang rơi nhanh, sự
chuyển động có gia tốc này giống như tác
động của một trọng trường ảo,
vậy metric gμν(xλ) diễn tả
trọng trường theo nguyên lư tương
đương. Cái gắn bó đồng nhất giữa
h́nh học và cơ học, giữa metric và trọng
trường đưa ta đến kết luận là hai
vật hút nhau chỉ v́ hai vật đó rơi t́m nhau theo
con đuờng trắc địa của h́nh học
cong diễn tả bởi gμν(xλ). Đường trắc địa [22] là con đường tối ưu (ngắn hay dài
nhất) nối kết hai điểm A và B với nhau,
đó chính là quỹ đạo của hai vật
đặt ở A, B chuyển động tự nhiên
(chẳng do một lực hút nhau nào tác động lên chúng
cả) trong cái thế giới cong bốn chiều của
không-thời gian. Dưới ánh đèn huyền ảo
của thuyết tương đối rộng, hiện
tượng vạn vật hấp dẫn cổ
điển "cơ bắp" của Newton nay tỏa hiện
như cảnh tượng cong uốn của không gian
để làm vật chất rơi t́m nhau!
3d. Giai đoạn cuối cùng trong quá tŕnh xây dựng
thuyết này là Einstein truy tầm nguồn gốc của
cấu trúc không-thời gian cong, nghĩa là khám phá ra
phương tŕnh mà metric h́nh học gμν(xλ) - nay chính là trọng
trường - phải tuân theo. Newton đă chứng minh chính
khối lượng của một vật, vừa là nguyên
nhân tạo ra trọng trường tác động lên
vạn vật, cũng vừa là quán tính diễn tả
vật ấy chịu sự chi phối của trọng
lực tạo ra bởi các vật khác nó. V́ năng
lượng cũng là khối lượng (m = E/c²)
theo thuyết tương đối hẹp, vậy chính
mật độ năng lượng đă tạo ra cái
cấu trúc cong của không-thời gian bốn chiều
để vạn vật rơi vào nhau theo những đường
trắc địa. Hơn nữa, mật độ
năng lượng phân phối trong không-thời gian
chỉ là một trong mười thành phần của
tenxơ năng-xung lượng [23] Tμν, vậy tenxơ Tμν này mới chính là
nguyên nhân tạo ra metric gμν(xλ)
để diễn tả cấu trúc cong của
không-thời gian. Chắc chắn chẳng phải ngẫu
nhiên mà cả hai đại lượng gμν(xλ) và Tμν đều có đúng
mười thành phần đối xứng với hoán chuyển
μ↔ν, hệ quả
của sự nhất quán giữa toán với vật lư trong
cách suy luận và diễn tả.
4. Cổng Rashomon và ống khói nhà máy
Lư thuyết tương đối rộng, hay định
luật vạn vật hấp dẫn của Einstein [24] có thể tóm tắt trong một câu: Không-thời gian
chẳng cứng nhắc mà đàn hồi, h́nh học
Minkowski bốn chiều phẳng lặng bị biến
dạng thành cong uốn bởi năng-khối
lượng của vật chất. Chính sự phân phối
năng lượng đă tạo ra cấu trúc cong của
không-thời gian, nhờ đó vạn vật rơi vào nhau
như một biểu hiện của trọng
trường chứ không có sức hút nào giữa chúng
cả. Ư tưởng vật lư đă thành h́nh, vấn
đề c̣n lại của Eintein là t́m ra phương tŕnh
toán học để diễn tả sự biến dạng
đàn hồi của thế giới phẳng Minkowski.
Tính đàn hồi của một vật là khả năng
vật đó trở lại trạng thái ban đầu khi
mất đi dần lực áp đặt lên nó để
làm nó biến dạng, và Robert Hooke [25] , nhà bác học Anh (1635-1703) đồng thời với
Newton, đă đặt nền móng khảo sát tính chất
này với phương tŕnh B = κ T, kư hiệu B chỉ
sự biến dạng đàn hồi và T là lực
căng làm biến dạng vật. Trong trường
hợp không-thời gian bị biến dạng bởi
năng-khối lượng, lực căng này chính là
tenxơ năng-xung lượng Tμν như đă phân tích ở
trên, hệ số tỷ lệ κ nhỏ th́ biến dạng
ít, hay 1/κ lớn th́
không-thời gian càng cứng nhắc. Sự t́m kiếm toán
tử B làm biến dạng cấu trúc h́nh học
phẳng kéo dài trong ba năm gian lao, khởi đầu vào
tháng Tám năm 1912, khi Einstein từ chức giáo sư
đại học ở Praha để trở về
đảm nhận chức vụ giáo sư thực thụ
ở trường cũ Bách khoa Công nghệ Zürich (ETH).
Tại đây ông đề nghị cộng tác với
bạn xưa cùng trường Marcel Grossmann, một nhà toán
h́nh học nay là chủ nhiệm khoa toán-lư của ETH trong
việc t́m kiếm toán tử B. Nhà toán học Grossmann,
không quen thuộc với h́nh học không gian phi thuần
nhất (chứa đựng vật chất và năng-xung
lượng) mà nhà vật lư Einstein cần đến, bèn
tham khảo tài liệu, thư mục và mách bảo cho
bạn những điều cần thiết chứa
đựng trong công tŕnh của Riemann và những nhà toán
học kế tiếp như Christoffel, Ricci và Levi-Civita
để Einstein đi từ gμν(xλ) mà xây dựng nên
đối tượng toán học B(gμν(xλ)) ≡ Bμν. Toán tử Bμν làm biến dạng
cấu trúc h́nh học phẳng thành cong không đơn
sơ chỉ là sự khác biệt gμν(xλ) – ημν như ta mơ
hồ đoán vậy. Thực thế, theo nguyên lư
tương đương giữa trọng trường
(vật lư) và gia tốc (h́nh học) “sung sướng
nhất đời ông” trong cái không-thời gian với
cấu trúc tổng quát phức tạp gμν(xλ), ta để thang máy
rơi tự do và câu hỏi là trọng trường có
thực sự bị xoá bỏ đi ở mọi
điểm trong cái thang rơi có gia tốc? Câu trả
lời là sự xóa bỏ trọng trường bởi gia
tốc không trọn vẹn, hăy c̣n chút đỉnh thặng
dư v́ thực ra hai điểm cách nhau vi phân không
rơi đồng nhất như hệt nhau với cùng
một gia tốc. Điều này thể hiện qua
việc metric gμν(xλ) thay đổi
từ điểm này sang điểm kia. Cái thặng dư
gia tốc đó có thể mường tượng qua thí
dụ thủy triều của nước biển sớm
tối trào lên và rút đi. Thực vậy nước
biển ở phần bán cầu trái đất gần
mặt trăng (mặt trời) bị “rơi kéo” vào
mặt trăng (mặt trời) với gia tốc khác
với gia tốc của nước biển ở bán
cầu đối nghịch xa mặt trăng (mặt
trời), và sự khác biệt kép ấy chính là nguyên nhân
của thủy triều. Vậy làm sao tính cái thặng
dư gia tốc ở mỗi thời-không điểm? Mà
nói đến sự khác biệt của gμν(xλ) giữa hai điểm vi
phân xλ và xλ + dxλ là nói đến
đạo hàm, vậy ta không ngạc nhiên khi thấy
đạo hàm của gμν(xλ)
(như hệ số Christoffel và tenxơ Ricci Rμν diễn tả
độ cong của h́nh học Riemann) xuất hiện
trong Bμν, và ông t́m thấy Bμν = Rμν – (½)Rgμν, đó là chặng
đường vất vả nhất kéo dài ba năm [26] . Giai đoạn chót là xác định được
hệ số κ
trong phương tŕnh Bμν = κTμν. Để t́m nó, định luật hấp
dẫn cổ điển của Newton được
Einstein khai thác như một dạng xấp xỉ gần
đúng [27] của phương tŕnh R00 – (½)Rg00 = κT00. Thực thế,
thành phần T00 (phụ chú 23) v́ tỷ lệ thuận
với mật độ năng lượng E = mc2 nên
cũng tỷ lệ với mật độ khối
lượng m trong thể tích của một vật
nào đó (trái đất chẳng hạn) và chính m
tạo ra gia tốc Gm/R2 áp đặt lên các
vật khác (ở cách nó một đoạn không gian R)
để làm chúng vận hành, và ông xác định
được [28] hệ số κ = 8πG/c4, G là hằng số Newton của
trọng lực. Ngày 25 tháng Mười Một năm 1915,
nhà vật lư Einstein sau ba năm lăn lộn với h́nh
học đă trao tặng cho nhân loại thuyết
tương đối rộng mà ngày nay mang đầy tính
thời sự khoa học nóng hổi, từ nghiên cứu
cơ bản (vũ trụ và sự h́nh thành, Big Bang, Big
Crunch, lỗ đen, siêu dây, năng lượng và vật
chất tối, chân không lượng tử, lư thuyết
thống nhất toàn thể) đến muôn vàn ứng
dụng (thí dụ hệ thống định vị toàn
cầu [29] mà chúng ta dùng hàng ngày trong các phương tiện di
chuyển). Mời bạn đọc chiêm ngưỡng
phương tŕnh Einstein mà vế trái mô tả h́nh học
không-thời gian bốn chiều trong đó vận hành
vạn vật, c̣n vế phải là vật chất xây
dựng nên cái cấu trúc cong uốn của không-thời gian:
Rμν – (½)R gμν = (8πG/c4)Tμν (II)
Trong mười thành phần của phương tŕnh
Einstein, chỉ có thành phần 00 là tương hợp
với định luật cổ điển vạn
vật hấp dẫn của Newton (sau khi ta áp dụng phép
tính xấp xỉ gần đúng), c̣n chín cái khác là mới.
Thông điệp vật lư gói ghém trong phương tŕnh trên
có thể tóm tắt như sau: khối lượng áp
đặt không-thời gian phải cong đi, c̣n
không-thời gian chi phối bắt khối lượng
phải chuyển động ra sao. Sự vận hành
của vật chất (ánh sáng cũng là vật chất)
bởi trọng trường không do một lực cơ
bắp nào hết mà thực ra sự di chuyển đó
lại ‘trây lười nhất’ theo đường
trắc địa trong một không-thời gian bị cong
bởi sự hiện hữu và phân phối của vật
chất. Đáp lại, vật chất và năng
lượng luôn luôn biến chuyển của chúng cũng
tác động tới độ cong của không-thời
gian, và cứ thế tiếp diễn liên hồi vũ
điệu giữa cơ học và h́nh học. Mật
độ năng-xung lượng càng lớn ở đâu
th́ không-thời gian cong uốn càng nhiều ở
đấy, đó là gốc nguồn của lỗ đen,
một không-thời gian tận thế ở đó bất
kỳ vật chất nào, kể cả ánh sáng và tín hiệu
thông tin, khi đi gần đều bị hút chặt vào
chẳng sao thoát khỏi. Mời bạn đọc coi
bức thư ông gửi ngày mồng 9 tháng giêng năm 1916
cho Karl Schwarzschild (nhà vật lư thiên văn Đức
đang hành quân ở mặt trận Nga - Đức trong
Thế giới Đại chiến 1914-1918, vào những
giờ phút ngừng bắn đă đầu tiên giải
được chính xác phương tŕnh của thuyết
tương đối rộng mà Einstein vừa công bố
tháng trước): “Cái đặc điểm của lư
thuyết mới này là không gian và thời gian tự chúng
chẳng có tính chất vật lư ǵ cả. Nói đùa thôi,
giả thử mọi vật trên đời biến
mất, th́ theo Newton ta hăy c̣n một không gian rỗng
tuếch phẳng lặng mênh mang và mũi tên thời gian
vẫn lặng lẽ trôi, nhưng theo tôi th́ tuyệt nhiên
chẳng c̣n chi hết, cả không gian lẫn thời gian và
vật chất [30] !” Thực là một cuộc cách mạng
về tư duy mà Einstein mang đến cho nhân loại: chính
vật chất trong đó có da thịt tâm tư con
người xây dựng ra vũ trụ. Vật chất và
không-thời gian chỉ là hai khía cạnh của một
bản thể duy nhất, cái này sinh cái kia, không có cái này th́
cũng chẳng có cái kia. Nhà vật lư Nhật bản Yoichiro
Nambu [31] qua bức tranh nửa trào lộng nửa trầm
tư minh họa vế trái phương tŕnh Einstein bằng
cổng Rashomon xa xưa của một thoáng không gian thanh
thoát bên bờ suối, c̣n vế phải bên kia cầu
vương vấn trong cảnh trần ai bởi khói than
nhà máy phản ánh vật chất nặng nề!
Ngay sau khi khám phá ra phương tŕnh (II) của thuyết
tương đối rộng, Einstein đề
xướng hai phương thức để kiểm
chứng thuyết đó bằng thực nghiệm [32] . Để đánh giá phần nào gia tài tri thức mà
Einstein trao cho nhân loại, mời bạn đọc nhớ
lại vào cuối thế kỷ 19, khoa học thời
"tiền tương đối” được
hiểu như sau: Không gian ba chiều như một sự
thực tiên nghiệm ‘trời cho’, một sân khấu
lạnh lùng hoàn toàn biệt lập với vật chất
thao diễn trong đó. Cấu trúc h́nh học của không
gian phẳng (tổng cộng ba góc h́nh tam giác bằng 180
độ) đă được khai thông bởi các nhà
hiền triết Hy Lạp Euclid, Pythagoras từ hơn hai
thiên niên kỷ. Thời gian như một mạch
đập "hiện sinh” của vũ trụ, một
mũi tên lặng lẽ trôi vô thủy vô chung. Vật
chất là một thực thể thường trực
vĩnh viễn không sinh không hủy, và sau hết lực tác
động tức thời lên vật chất làm chúng
vận hành. Einstein đă cho ta một nhận thức khoa
học và triết học khác: bước chuyển
thời gian là một ảo tưởng, chỉ có một
thực tại duy nhất không-thời gian bốn chiều
gắn bó với nhau, chẳng có cái "bây giờ”. Vạn
vật phù du, vô thường hằng, không ngừng
đổi biến. Hơn nữa toàn bộ không gian,
thời gian, lực, vật chất chẳng sao tách
biệt, cặp không-thời gian (cái vỏ chứa) và
cặp lực-vật chất (cái được chứa)
chồng chéo liên kết bên nhau, cấu trúc không phẳng mà
cong uốn của vỏ được xây dựng bởi
chính cái nội dung chứa đựng trong vỏ.
Năng lượng là gốc nguồn chung cho tất
cả, từ đó vật chất, lực, không gian,
thời gian được tạo dựng nên.
© 2008
talawas
[1]Chất liệu giả tưởng trong đó dao
động sóng ánh sáng, chất liệu ấy phải
trải rộng khắp vũ trụ, đâu cũng có, v́
ánh sáng đến với ta từ những thiên thể xa
xăm. Định kiến (trước năm thần
kỳ 1905) cho rằng phải có một chất liệu
ether để nhờ đó sóng ánh sáng mới truyền
đi được (như sóng nước phải có
nước, sóng âm thanh phải có không khí) đă ăn sâu vào
tâm khảm mọi người - kể cả Maxwell,
người khai phá ra lư thuyết điện từ và
chứng minh ánh sáng là sóng điện từ - không ai tin
rằng sóng điện từ có thể truyền đi
trong chân không mà nhờ Einstein ta biết (xem phần 3a và các
phụ chú từ 9 đến 16 về những điều
cơ bản của thuyết tương đối hẹp).
[2]Trớ trêu
thay, Johannes Stark cũng như Philipp Lenard (người khám
phá ra hiệu ứng quang điện mà cũng lại
Einstein giải thích năm 1905 bằng thuyết
lượng tử) sau này theo chủ nghĩa cực
đoan phát xít, đánh phá mạnh mẽ Einstein, con
người của lương tâm và trí tuệ, của
tự do dân chủ, ngay từ trước Thế giới
Đại chiến thứ Nhất (1914-1918) đă chống
chủ nghĩa quốc gia dân tộc và tôn giáo hẹp ḥi,
nh́n xa đề xướng một Âu châu ḥa hợp.
Lịch sử từng chứng kiến chuyện đánh
phá trí thức bởi đồng nghiệp như thời
Staline bên Liên Xô, McCarthy bên Mỹ, Cách mạng Văn hóa
của Mao bên Trung Quốc. Việt Nam cũng không là
ngoại lệ!
[3]Chuyện
kể Galilei đứng trên đỉnh tháp nghiêng của
thành phố Pisa, thấy đá và giấy rơi hệt
như nhau rồi phát hiện ra tính chất phổ quát
chỉ là huyền thoại, thực ra ông làm thí nghiệm
trên những mặt phẳng nghiêng mà suy luận ra tính
phổ quát nói trên.
[4]Trọng
lượng của A là sức hút (hay trọng lực) F
của trái đất - hay của mặt trăng, tinh tú
hoặc bất kỳ vật B nào khác A - áp đặt lên A.
Nếu M là khối lượng của vật B (trái
đất chẳng hạn) và m là khối
lượng của vật A, th́ theo Newton, trọng lực F
của B áp đặt lên A bằng GMm/ R2, với
R là khoảng cách không gian giữa A và B, G là hằng số
hấp dẫn Newton. Nói cách khác, B tạo ra một trọng
trường để lôi hút mọi vật về nó.
Trường (tỏa rộng khắp không gian và thay
đổi với thời gian để diễn tả tác
động của lực) là một khái niệm sâu sắc
của vật lư mà trực giác của Faraday (một nhà
thực nghiệm xuất chúng, tự học, làm thợ in
để sinh sống mà chỉ mê say nghiên cứu khoa
học) nhận ra khi ông nh́n những vụn sắt
trải đều đặn chung quanh hai trục bắc
nam của thanh nam châm. Điện tích di chuyển sinh ra
điện từ trường, c̣n khối lượng
tạo ra trọng trường.
[5]Thực ra
ở thời điểm Galilei và Newton, người ta
tưởng rằng có hai loại khối
lượng m và m’ khác nhau, m diễn tả
khối lượng để tạo ra trọng
trường trong công thức GMm/ R2, c̣n m’
(trong phương tŕnh cơ bản của động
lực học F = m’γ) là khối
lượng diễn tả khả năng trây ỳ
của vật thể chống lại sự di chuyển do
bất kỳ lực F nào (không nhất thiết
phải là trọng lực) áp đặt lên nó. Tính phổ
quát của Galilei được Newton minh giảng bằng
giả thuyết m = m’ (xem phụ chú 6). Giả
thuyết m = m’ được chứng nghiệm
bởi nam tước von EötVös vào cuối thế kỷ 19
với sai số 10−9, ngày nay sai số giảm xuống
10−12.
[6]Thực
thế, trọng lượng F = GMm/ R2
của A (nghĩa là lực tạo nên bởi trọng
trường của trái đất áp đặt lên A)
tỉ lệ thuận với m, khi kết hợp
với phương tŕnh cơ bản của động
lực học F = m’γ = m γ mà
Newton phát hiện năm 1686, cho ta thấy gia tốc γ
= GM/ R2 chuyển vận của A không phụ thuộc
vào khối lượng m của nó nữa, đó là
tính phổ quát của trọng trường mà Galilei t́m ra.
Thay v́ γ, các sách giáo khoa thường hay dùng kư
hiệu g (gravitation) để chỉ định gia
tốc chung cho mọi vật hút bởi trọng
trường của trái đất. Đo được g
≈ 9. 81 m/s2 là gián tiếp đo được khối
lượng khổng lồ M ≈ 5.97 × 1024 kg của
quả địa cầu (thực nghiệm của Henry
Cavendish năm 1798). Trái lại điệntừ trường
E và H áp đặt lên một vật thể (mang
điện tích q) làm cho nó chuyển động với gia
tốc thay đổi theo khối lượng m
của vật ấy. Thực thế, lực
điện-từ f = q (E + V× H), khi kết
hợp với f = mγ làm cho vật chuyển
động với gia tốc γ ~ q/m. C̣n trong
thế giới vi mô hạ nguyên tử, lực mạnh
(sắc động lực học luợng tử tác
động lên các hạt cơ bản quark để làm
chúng gắn kết với nhau thành hạt nhân nguyên tử)
lại chẳng giống trọng lực hay điện
từ lực chút nào. Lực mạnh tăng lên
với khoảng cách r giữa hai quark, trong khi lực
cổ điển của thế giới vĩ mô (trọng
lực và điện-từ) giảm đi như 1/ r2 .
[7]Sự
đối xứng, hoán chuyển toàn diện giữa M
và m trong sức hút lẫn nhau F = GMm/ R2 của
hai vật A và B cho ta thấy ngay chính A cũng tác
động lên B làm cho B di chuyển với gia tốc Gm/
R2 và ngược lại trọng trường tạo
ra bởi B làm cho A vận chuyển với gia tốc GM/
R2 .
[8]Như tác
giả kể lại, so với gian lao "siêu phàm",
lời của ông, trong việc sáng tạo ra thuyết
tương đối rộng th́ thuyết tương
đối hẹp (với những kết quả kỳ
diệu như E = mc2 , thời gian dăn nở, không gian
co cụm trong những hệ quy chiếu di động
đều đặn) chỉ là tṛ con trẻ mà ông khám phá
ra trong có một buổi chiều Chủ nhật tháng
Năm năm 1905, sau bữa dạo chơi và tṛ chuyện
về bí hiểm ether với anh bạn thân thiết Michele
Besso cùng sở làm ở thành phố Bern.
[9] Hệ quy
chiếu quán tính là hệ quy chiếu di chuyển với
vận tốc v đều đặn, cố định
với thời gian (gia tốc = 0), kể cả v = 0, kư
hiệu in đậm v chỉ định vectơ vận
tốc ba chiều không gian, và v ≡ |v|. Từ nay các
vectơ ba chiều đều được viết
dưới dạng in đậm như k, x … và k = |k|, x =
|x|…
[10]Ai trong chúng
ta khi đi máy bay cửa sổ đóng kín và không gặp băo
lay động mà có thể cảm thấy ḿnh di chuyển
với vận tốc khoảng ngàn cây số trong một
giờ? Khoảng bốn trăm năm trước đây,
Galilei cũng đưa ra một thí dụ tương
tự, mở đầu cho nguyên lư tương
đối mang tên ông: trong hầm kín mít không giao tiếp
ǵ với thế giới bên ngoài của một chiếc tàu
thủy di chuyển đều đặn, ta hăy quan
sát những con bướm bay khắp phía và những
giọt nước tí tách rơi. Nay để tàu
đứng yên, ta thấy bướm vẫn bay và
nước vẫn rơi hệt như trước,
chẳng có ǵ thay đổi. Rồi tàu lại di chuyển
đều đặn, nhưng với vận tốc và
chiều hướng khác, bướm vẫn bay và
nước vẫn rơi như khi tàu dừng ở
bến. Nói một cách khác: những định luật miêu
tả các hiện tượng thiên nhiên (bướm bay,
nước rơi) không chút thay đổi ǵ trên tàu di
chuyển đều đặn (bất kỳ vận
tốc và chiều hướng nào) kể cả tàu dừng
ở bến (v = 0). Người ở trong tàu nếu
chỉ quan sát đo lường những hiện
tượng động hay tĩnh trong tàu mà không tiếp
xúc với bên ngoài để so sánh th́ chẳng sao biết là
tàu đứng hay đi, và đi với vận tốc nào,
chiều hướng nào. Nói khác đi, tĩnh hay di
động đều đặn chỉ là chuyện
tương đối, chẳng có lư ǵ để khẳng
định bến hay tàu, cái nào đứng, cái nào đi.
[11](x,y,z,t)
chỉ định toạ độ không gian-thời gian
bốn chiều của một hiện tượng vật
lư xẩy ra trong hệ quy chiếu đứng yên, c̣n
(x’,y’,z’,t’) trong hệ quy chiếu di chuyển với
vận tốc đều đặn v so sánh với
(x,y,z,t).
[12]Các tọa
độ bốn chiều (x,y,z,t) và (x’,y‘, z’,t’) của hai
hệ quy chiếu phải liên hệ ra sao để làm cho
hàm f(x,y,z,t) nói trong bài, nay gọi là đại lượng
s² = (x² + y² + z²) - (ct)² = (x’² +y’² +z’²) - (ct’)² không thay
đổi, nghĩa là s² bất biến. Sự bất
biến của s² diễn tả hiện tượng
vật lư theo đó vận tốc ánh sáng c ~ 300000 km/s
đo lường trên hai hệ quy chiếu (một
đứng yên mà ta gọi là trên bến, một di
chuyển với bất kỳ vận tốc v nào mà ta
gọi là dưới tàu) đều bằng nhau và là c
cả. Thực thế khi s² = 0, c = r/t = ± r’/t’ (với
r² = x² + y² + z²), dấu ± để chỉ ánh sáng chạy
cùng hay ngược chiều trong hai hệ quy chiếu.
Hiện tượng này do Michelson và Morley phát hiện năm
1887, nó trái ngược với trực giác và định
kiến của mọi người trước năm
thần kỳ 1905 v́ họ tưởng (nhầm) rằng
nếu vận tốc ánh sáng đo trên bến là c th́
đối với người trên bến vận tốc
ánh sáng đo trên tàu phải là c ± v (tùy theo ánh sáng
chạy song song cùng chiều hay ngược chiều
với tàu). Cũng vậy, người trên tàu khi đo
vận tốc ánh sáng sẽ thấy vận tốc đó phải
khác với vận tốc ánh sáng truyền đi trên
bến, sự khác biệt đó cho ta v. Nay ta hăy thay bến
bằng ether (một chất liệu giả tưởng
trải rộng khắp vũ trụ nhờ đó sóng
điện từ nói chung và ánh sáng nói riêng truyền đi,
như vậy ether được coi như một hệ
quy chiếu hoàn toàn bất động), và thay tàu bằng
trái đất di động. Michelson và Morley khi so sánh
vận tốc ánh sáng phát ra theo hai chiều đối ngược
nhau trên trái đất, nghĩ sẽ đo được
vận tốc v của làn gió ether thổi so với trái
đất coi như đứng yên. Nhưng hai ông sau bao
lần đo lường thấy vận tốc ánh sáng lúc
nào cũng vẫn bằng nhau, và như vậy không sao phát
hiện nổi sự hiện hữu của ether. Đó là
nghịch lư của cơ học cổ điển
Galilei-Newton với định kiến chỉ có một
thời gian phổ quát (t’ = t) và một không gian tuyệt
đối chẳng mảy may liên hệ với thời
gian. Thực thế - trường hợp vận tốc v
song song cùng chiều với trục Ox - cơ học cổ
điển cho ta x’ = x – vt, y’ = y, z’ = z, t’ = t như vậy
th́ s² không sao bất biến được. Trái lại phép
hoán chuyển Lorentz x’= k (x- vt), y’ = y, z’ = z, t’ = k (t –(xv/c²)),
với k = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²) làm cho s²
bất biến. Giải đáp nghịch lư này bằng nguyên
lư tương đối áp dụng cho sự
vận hành của ánh sáng là gốc nguồn của lư
thuyết tương đối hẹp mà Einstein,
Lorentz, Poincaré đă đóng góp vào. Nếu w là vận tốc
của vật chuyển động trên tàu, th́ - đối
với người đứng trên bến - luật
cộng trừ vận tốc w ± v (cơ học
cổ điển cho ta) chỉ là dạng xấp xỉ
gần đúng và phải được thay thế bởi
công thức (w ± v)/(1 ± w v/c²). Bạn đọc
sẽ ngạc nhiên và thích thú nhận thấy khi w = c,
công thức (w ± v)/(1 ± w v/c²) không c̣n tùy thuộc
vào v nữa mà lúc nào cũng bằng c, minh hoạ
thực nghiệm của Michelson và Morley.
[13]Mà ta có
thể ‘đoán’ được k qua s²: s² = r² – (ct)² = r’² –
(ct’)². Thực thế thời gian t’ chỉ định
bởi đồng hồ di động đặt ở
vị trí x’, y’, z’ ( r’ = 0), cho ta ct’– 0 = (ct)√(1 – r²/t²c²) =
(ct)√(1– v²/c²), do đó t = kt’. Đồng hồ trong tàu di
động chỉ một giây, người ở ngoài
thấy dài hơn một giây, đồng hồ ở trong
tàu như chạy chậm lại.
[14]Một gam
khối lượng tuy nhỏ nhưng tiềm ẩn
một năng lượng khổng lồ tương
đương với nhu cầu dinh dưỡng của
vài chục ngàn người trong vài năm! Từ hệ
số k = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²) ông nhận ra
là khối lượng m của một vật không
cố định mà tăng lên với vận tốc
của nó, m(v) = m ⁄ √(1− v² ⁄c²).
Khi triển khai hạn chế theo (v² ⁄c²) «1, m(v)
= m + [1/c²] (½)mv² +… mà (½)mv² chính là
động năng quen thuộc của cơ học,
Einstein đă t́m ra công thức của thế kỷ E = mc²/√(1−
v² ⁄c²) công bố tháng 10 năm 1905. Cũng trong bài
báo đó ông c̣n b́nh giải ư nghĩa vật lư của công
thức: khối lượng m (của bất kỳ
một vật chất nào) chỉ là sự tích tụ
năng lượng E (chia cho c²) của vật đó
(khi nó không di động, v = 0). Phương tŕnh E = mc²/√(1−
v² ⁄c²) quả là một thay đổi cách mạng
trong sự hiểu biết và nhận thức về
vật chất: năng lượng và khối
lượng cùng chung một bản thể. Đặc
biệt ánh sáng thuần tuư (năng lượng) có thể
tạo ra vật chất ! Ngoài ra ông c̣n đề
xuất phương cách kiểm chứng E = mc²
bằng thực nghiệm, một vật - chẳng hạn
hạt nhân radium phóng xạ tự nhiên - khi mất đi
(hay thu nhận) một chút năng lượng δE th́
khối lượng nó giảm đi (hay tăng lên)
δE/c².
[15]Thuyết
tương đối hẹp bảo cho ta trên các hệ quy
chiếu di chuyển với vận tốc v, thước
đo không gian (theo hướng song song với v) bị co
cụm lại với hệ số 1/k = √(1− v²
⁄c²), trái lại (theo hướng thẳng góc
với v) thước đo không thay đổi. Cũng
thế khoảng cách thời gian dăn nở ra với hệ
số k, hay là nhịp độ tích tắc đồng
hồ đập chậm đi k lần trong một
đơn vị thời gian. Trên vệ tinh của Hệ
thống Định vị Toàn cầu (Global Positioning System,
GPS) trang bị các phương tiện vận tải,
sự chính xác cực kỳ của nhịp độ
đồng hồ là điều kiện tối quan
trọng cho GPS thành công. Bạn đọc sẽ thấy
ở các vệ tinh GPS, thuyết tương đối
rộng cho ta hệ quả ngược với thuyết
tương đối hẹp, khoảng cách thời gian co
cụm lại (đồng hồ tích tắc nhanh hơn) v́
cường độ trọng lực trên đó giảm
đi so với mặt đất. Sự co dăn thời gian
(nhịp độ đồng hồ) của các vật
chuyển động khác nhau đă được thực
nghiệm kiểm chứng nhiều lần với
độ chính xác cực kỳ, tiếp nối bởi
biết bao ứng dụng thực tiễn trong đời
sống con người .
[16]Người
bạn thân thiết nhất từ thuở hàn vi,
người duy nhất ông cảm ơn trong công tŕnh
để đời đăng trên Annalen der Physik
về thuyết tương đối hẹp trong lúc hai
người dạo chơi bàn luận ngày Chủ nhật
tháng Năm năm 1905, trong bài đó ông không hề trích
dẫn một tài liệu tham khảo nào mặc dầu lúc
ấy chẳng ai biết đến ông, đủ thấy
cá tính con người siêu việt này. Chữ
"gläubige" trong bức thư không nên hiểu theo
nghĩa tín ngưỡng tôn giáo, mà hàm ư xác tín vào lư trí.
Bức thư gửi chưa đến một tháng th́
Einstein cũng vào cơi vĩnh hằng.
[17]Tựa
như đường thẳng (quỹ đạo của
hạt di chuyển không gia tốc) biến dạng ra các
h́nh conic (quỹ đạo của hạt di chuyển có gia
tốc), hay h́nh cầu của bóng đá biến dạng ra
bóng bầu dục (ellipsoïd) v́ tác động của
trọng lực. H́nh học cong này có thể nhận ra khi
ta đứng yên quan sát một người ở trong
một sàn quay chung quanh trục thẳng góc với sàn. Anh ta
đo chu vi của sàn sẽ thấy lớn hơn π
≈ 3.14 lần đường kính của sàn. Thực
thế, vận tốc v của sàn quay tiếp tuyến
với chu vi của nó, vậy thước đo chiều
dài chu vi sàn bị co lại (phụ chú 15), trong khi
đường kính sàn v́ thẳng góc với v nên
thước không co. Ṿng tṛn trong h́nh học phẳng có chu vi
bằng π đường kính của nó, nhưng trong
h́nh học cong v́ thước đo chu vi co cụm nên chu vi
lớn hơn π đường kính.
[18]Khi viết
Aμ Bμ hay Aμν Bμν (với một hay
nhiều chỉ số cái trên, cái dưới ), th́ ta
phải cộng tất cả các đóng góp của chỉ
số lại, thí dụ Aμ Bμ = A0 B0 + A1 B1 + A2 B2 + A3
B3, ημν dxμ dxν = ηoo dx0 dx0 + ηi i dxidxi
+ η0i dx0 dxi + ηij dxidxj (i, j = 1,2,3 và i≠j). Xin nhớ
rằng tuy Aμ , Bμ hay Aμν, Bμν
đều là những vectơ hay tenxơ mang nhiều thành
phần, quy ước tổng hợp Riemann-Einstein cho ta
Aμ Bμ hay Aμν Bμν chỉ có một thành
phần duy nhất, nó là một đối tượng h́nh
học vô hướng (scalar).
[19]Gauss mới
khoảng mươi tuổi trong lớp tiểu học,
để giữ cho học tṛ khỏi quấy, ông giáo cho
bài toán sau đây: tính tổng số của một trăm
số nguyên 1+2+…+100. Trong khi cả lớp loay hoay cộng
dần vài số và kiểm điểm từng đoạn
tính toán cho chắc, Gauss nh́n trăm số nguyên một cách
tổng quát, thấy từng cặp số đầu (1) +
số cuối (100) cũng như số thứ nh́ (2) +
số áp cuối (99), 3 + 98 vân vân, tất cả 50 cặp
đều như nhau và bằng 101. Vậy chỉ vài phút
sau , cậu bé Carl Friedrich hănh diện mang đáp số 101x50
=5050, trước nỗi kinh ngạc của cả lớp
từ thầy đến bạn. Tên ông cũng gắn
liền với đơn vị cường độ
từ trường, với định lư Gauss dùng trong điện
tĩnh. Để mua vui bạn đọc, xin nhắc
đến một thần đồng nước ta, Lê Quư
Đôn, sinh trước Gauss, với bài thơ tạ
lỗi v́ cậu dạng chân tay trần truồng (giống
chữ Thái trong Hán tự) để đố bạn
cha ḿnh là chữ ǵ (ông bạn tưởng là chữ Đại),
hai chữ Thái và Đại viết khác nhau
chỉ có một cái chấm mà riêng con trai mới có. Cái
độc đáo là mỗi câu thơ mang tên một con
rắn: “Chẳng phải liu điu vẫn giống
nhà, Rắn đầu biếng học lẽ không tha,
Thẹn đèn hổ lửa đau ḷng mẹ, Nay thét mai
gầm rát cổ cha, Ráo mép chỉ quen tuồng
dối trá, Lằn lưng cam chịu vết roi cha,
Từ nay trâu lỗ xin siêng học, Kẻo hổ
mang danh tiếng thế gia.”
[20]Mỗi
hệ số μ, ν có 4 giá trị 0, 1, 2, 3, vậy ma
trận 4×4 gμν có 4 × (4 + 1)/2 = 10 thành phần đối
xứng trong hoán chuyển μ↔ ν , và 4 × (4 −
1) )/2 = 6 thành phần bất đối xứng.
[21]Khi tất
cả 10 gμν đều cùng dấu ta có bóng bầu
dục (ellipsoïde, đề tài của Riemann), khi gμν
có dấu khác nhau như trường hợp ημν,
ta có h́nh hyperboloïd mà Einstein nghiên cứu.
[22]Đường
trắc địa trên bề mặt quả cầu là
những h́nh tṛn lớn (cùng đường kính với
quả cầu). Trong h́nh học Minkowski v́ ημν mang
dấu ±1 nên cạnh AC (trên trục thời gian) của tam
giác ABC lại dài hơn tổng cộng hai cạnh AB + BC,
và đường thẳng trắc địa nối A và C
lại là đường dài nhất. Điều kiện để
con đường ŁAB = ∫BA ds (diễn tả
bởi sự di chuyển của điểm xλ = xλ
(s), thông số s đo độ dài trên con
đường) có chiều dài tối ưu là xλ (s)
phải tuân theo phương tŕnh vi phân bậc hai:
d²xλ /ds² + Γλμν [dxμ /ds]
[dxν/ds] = 0 (1)
Đại lượng Γλμν (hệ số
Christoffel) trong phương tŕnh (1) là những đạo hàm
của metric gμν(xλ), tính theo công thức sau
(với định nghĩa ∂μ gνσ ≡
dgνσ /dxμ )
Γλμν = (½) gλσ [∂μ gνσ +
∂ν gμσ ≡ ∂σ gμν] (2)
[23]Có 40 = 4 × 10
hệ số Christoffel Γλμν (4 từ λ, 10
từ μν), và gλσ là ma trận nghịch
đảo của gλσ (gλα gλβ =
δα β, kư hiệu Kronecker δα β = 0 khi α
≠ β và = 1 khi α = β ). Trong h́nh học phẳng
Minkowski không gia tốc, v́ metric ημν giản
đơn chỉ là những con số ±1 nên theo (2) hệ
số Christoffel Γλμν = 0, vậy (1) rút gọn
thành d²xλ /ds² = 0, do đó xλ (s) = aλ s +
bλ , chứng tỏ đường trắc địa
trong h́nh học phẳng là đường thẳng.
Sự liên kết ct với vectơ không gian ba
chiều x tạo ra tứ-vectơ không-thời gian xμ (ct,
x), một đối tượng bốn thành phần,
thường xuyên dùng trong thuyết tương đối
hẹp. Cũng vậy năng lượng E và xung
lượng (p = mv) liên kết thành tứ -vectơ
năng-xung lượng với bốn thành phần: pμ
(E, cp). Từ pμ ta xây dựng tenxơ năng-xung
lượng Tμν, một ma trận 4×4
(đối xứng μ ≡ ν) mà 4 thành phần
đường chéo là mật độ năng
lượng E và áp suất P (tỉ lệ với xung lượng
p), cùng 6 thành phần hỗn hợp giữa E với áp
suất P. Sau chót ta định nghĩa Tμν
≡ gμα gνβ Tαβ, và T00 ~ E = kmc2.
[24]Thuyết
tương đối rộng của Einstein thay thế và
bổ sung cho định luật vạn vật hấp
dẫn của Newton, thuyết cổ điển này chỉ
là trường hợp xấp xỉ gần đúng của
thuyết Einstein khi mật độ vật chất
nhỏ (trọng trường yếu).
[25]Tổng
thư kư Hàn lâm Viện Hoàng gia Anh, nhà thực vật
học đầu tiên phát hiện ra tế bào, nhà thiên
văn lỗi lạc có nhiều công tŕnh phong phú (dự
đoán luật hấp dẫn 1/ r² và động lực
học) nhưng bị thiên tài Newton áp đảo nên ít
được hậu thế nhắc đến. Ḷ xo
một đầu buộc chặt vào tường,
đầu kia kéo dài bởi một quả cân là thí dụ
điển h́nh của hiện tượng đàn hồi,
sự biến dạng sẽ từ từ mất đi khi
lực căng nhỏ dần.
[26]Tenxơ
Ricci Rμν lấy từ những hệ số
Christoffel như sau: Rμν ≡ ∂α
Γαμν – ∂ν Γαμα +
Γαβα Γβμν – Γαβν
Γβμα. Sau hết khi nhân ma trận gμν
(nghịch đảo của gμν) với Rμν,
ta có một đại lượng vô hướng R
≡ gμν Rμν. Chính đại
lượng R (mà riêng Einstein đă t́m ra và đặt
thêm vào Rμν ngày 25/11/1915) này đóng vai tṛ cần
thiết để tương thích với luật bảo
toàn năng lượng mà Tμν phải tuân theo.
Trước đó năm 1913 khi Grossmann và Einstein cộng
tác, hai người đă đi gần tới đích
với Bμν = Rμν không thôi.
[27]Trường
hợp trọng trường yếu (mật độ
năng khối lượng nhỏ như hệ mặt
trời), metric gμν không khác metric phẳng
ημν bao nhiêu : gμν(x) = ημν +
hμν(x), với x = |x|, và |hμν(x)| « 1, hμν(x)
thay đổi chậm chạp cũng như Tij « T0i
«T00 (xung lượng p = mv ≈ 0). Phương
tŕnh trội nhất R00 – (½)R g00 = (8πG/c4)T00
cho ta luật của Newton: h00(x) = 2GM/(c2x) ≡ 2
U(x)/c2 ≈ 10–9, M là khối lượng trái
đất, x là khoảng cách từ tâm quả đất
đến vật mà ta khảo sát, và U(x) = GM/x là
thế hút của trái đất làm cho vật rơi
với gia tốc g = –dU(x)/dx ≈ 9. 81m/s2.
[28]Trong hệ
thống đơn vị đo lường mét (m), kilogram (kg),
giây (s), G = 6.67×10–11 và κ ≈ 2 ×10–43 quá nhỏ, không gian
quá cứng nhắc khiến ta hiểu tại sao xưa nay
chẳng ai ngờ nó bị uốn cong bởi vật
chất, chỉ ở đâu và khi nào có mật độ
năng lượng lớn vô vàn mới biến dạng
độ phẳng lặng của không-thời gian.
[29]Tần
số N -nhịp độ tích tắc của đồng
hồ (đặt ở điểm x) - thay đổi
với cường độ của trọng
trường v́ metric g00(x) thay đổi với x, không
cố định như η00: g00(x) = η00 + GM/(c2x)
≡ –1 + 2 U(x)/c2 (phụ chú 27). Đó chính là ư nghĩa
của thời gian cong. Xin nhớ g00(x) là hệ số
của (cdt)2 trong phương tŕnh (I) nên ta suy từ
đó ra mối liên đới giữa tần số N và
g00(x):
N1/N2 = [g00(x2)/ g00(x1)]½ ≈ 1+ (1/c2) [U(x1) – U(x2)] (3)
Ở trên các vệ tinh GPS (điểm x1), cường
độ trọng trường nhỏ hơn so với
mặt đất (điểm x2), U(x1) < U(x2), vậy theo
(3) N1 < N2, thời gian như co lại (nhịp độ
tích tắc đồng hồ chạy nhanh hơn) trên các
vệ tinh GPS. Cũng trên các vệ tinh này di chuyển với
vận tốc v so với dưới đất, thời
gian trên đó lại dăn nở ra (nhịp độ tích
tắc đồng hồ chạy chậm lại) theo
thuyết tương đối hẹp. Tác động
của thuyết tương đối rộng và hẹp
về nhịp độ thời gian đối nghịch
nhau nhưng không hoàn toàn triệt tiêu trên vệ tinh, và nhu
liệu máy tính được gắn trong GPS để
phối hợp hai hệ quả đó. Sự co dăn thời
gian trên các vệ tinh GPS được ước tính vào
khoảng một phần tỷ (10–9), tuy nhỏ vậy
nhưng cực kỳ quan trọng v́ hệ thống
định vị toàn cầu đ̣i hỏi sự chính xác
bền vững đến một phần mười ngàn
tỷ (10–13) của đồng hồ nguyên tử. Theo
thuyết tương đối rộng, hai anh em sinh
đôi một ở trên núi cao, một ở dưới đồng
bằng, người ở dưới (v́ trọng
trường lớn hơn so với trên núi) thấy
thời gian dăn nở ra hay đồng hồ chạy
chậm lại và như vậy trẻ hơn người
ở trên cao (một giây trong trăm năm!). Hiệu
ứng Einstein về thời gian co dăn bởi trọng
trường được kiểm chứng nhiều
lần trên các hỏa tiễn bay cách xa mặt đất
khoảng 10000 km, ở đấy đồng hồ
chạy nhanh hơn độ 4.10–9 giây.
[30]Thực ra
khi vắng vật chất (Tμν = 0),
không-thời gian chỉ mất đi cấu trúc cong thôi, ta
vẫn c̣n chẳng những không-thời gian phẳng
của Minkowski mà cả muôn vàn sóng trọng trường dao
động trong một không-thời gian rỗng tuếch
phi vật chất chẳng do đâu tạo ra cả.
Không-thời gian chỉ thực sự biến mất (khi Tμν
= 0) nếu ông thêm vào vế trái của phương tŕnh (II)
một số hạng mới Λgμν và ông gọi
Λ > 0 là hằng số vũ trụ. Tuy nhiên cái nội
dung sâu sắc của bức thư là Einstein nhấn
mạnh đến sự liên đới chẳng sao tách
biệt giữa vật chất, lực, năng
lượng, không gian, thời gian; một cách mạng trong
nhận thức.
[31]Bài tổng
kết trong hội thảo quốc tế về vật lư
hạt cơ bản và năng lượng cao, Tokyo, 1978.
[32]Hai kiểm
chứng là:
(a) khối lượng mặt trời tạo ra xung quanh nó
một không gian cong uốn để cuộn khúc quỹ
đạo của hành tinh gần mặt trời nhất -
tức Thủy tinh - làm cho hành tinh này lại đến
trước một tí chút 43’’ trong một thế kỷ
(hiện tượng tuế sai) so với thời
điểm mà thuyết hấp dẫn cổ điển
của Newton chỉ định. Nhà thiên văn Pháp Le Verrier
năm 1859 - dùng thuyết cổ điển Newton - khi tính
toán chu kỳ Thủy tinh đă phát hiện ra sự tuế
sai nhưng ông không sao giải thích nổi. Einstein - qua
phép tính xấp xỉ bậc hai của phương tŕnh
(II) - tính toán ra độ cong không gian bởi khối
lượng mặt trời, độ cong đó tác
động lên chu kỳ của Thủy tinh và ông t́m ra
đúng con số 43’’ thần diệu khiến tim ông dữ
dội đập như ông về sau kể lại cho
bạn bè. Những hành tinh khác v́ ở xa mặt trời nên
chẳng mấy bị ảnh hưởng bởi
độ cong không gian quá nhỏ, ở xa mặt trời
thuyết hấp dẫn cổ điển của Newton
rất chính xác và Le Verrier tháng Tám năm 1846 đă tiên
đoán sự hiện hữu của Hải vương
tinh mầu xanh lơ rất đẹp mà ngay đêm 23 tháng
Chín năm ấy đă được đầu tiên nh́n
thấy trên bầu trời nước Pháp.
(b) Cũng như mọi vật chất khác, ánh sáng từ
một thiên thể xa xăm đến với ta sẽ
bị uốn cong khi đi gần mặt trời.
Để quan sát được tia ánh sáng bị bẻ cong
đó ta cần mặt trăng che lấp mặt trời
(nhật thực) rồi so với ánh sáng ban đêm (không có
mặt trời) đến từ cùng một thiên thể.
Sự khác biệt (giữa ban ngày nhật thực và ban
đêm) của tia ánh sáng cho ta biết không gian bị
uốn cong bao nhiêu bởi khối lượng mặt trời.
Thuyết tương đối rộng tiên đoán
độ cong phải bằng 1.75’’ và hai phái đoàn của
Hàn lâm Viện Hoàng gia Anh được gửi đi Brasil
và đảo Principe để quan sát ánh sáng bị bẻ
cong nhân dịp nhật thực ngày 29 tháng Năm năm 1919.
Kết quả đo lường đúng như Einstein tiên
đoán và sau buổi họp vô cùng căng thẳng và xúc
động ngày 6 tháng Mười Một năm 1919 của
Hàn lâm Viện Hoàng gia Anh, báo chí khắp nơi trên thế
giới đưa tin này (Newton nhường ngôi, Einstein
đăng quang!) làm ông bỗng nhiên một sớm lừng
danh trong đại chúng, mặc dầu thời ấy tin
đồn chỉ có ba người trên thế giới
hiểu được thuyết tương đối
rộng!
5. Hiện t́nh và
triển vọng
Dẫu mang quá khứ huy hoàng, hoạt động khoa
học nghiên cứu ở Âu châu - quê hương của
lượng tử và tương đối, hai trụ
cột của vật lư hiện đại mà hơn ai
hết Max Planck và Albert Einstein đóng góp vào - đă phần
nào bị lu mờ trong nửa thế kỷ sau Đệ
nhị Đại Thế chiến 1939-1945 thảm khốc
và phân hoá Đông - Tây. Năm nay 2008 mở đầu
một bước ngoặt đánh dấu sự phục
hưng của nền vật lư ở châu lục này với
hai sự kiện nổi bật: trên trời có vệ tinh
Planck được phóng lên không trung với kính viễn
vọng tân kỳ để quan sát đo lường ánh
sáng tàn dư từ thuở Nổ lớn (Big Bang) xẩy ra
cách đây khoảng 13.7 tỷ năm với chi tiết
chưa từng đạt, duới sâu hơn trăm
thước trong ḷng đất có máy gia tốc hạt LHC
(Large Hadron Collider) ở CERN [1]
với chu vi 27 cây số, khắp năm châu duy nhất
chỉ có máy này đạt tới năng lượng
cực cao làm đầu tầu trong công cuộc khám phá,
đào sâu t́m hiểu, thống nhất các định
luật cơ bản tận cùng của vạn vật.
Tháng Chín năm 2008, máy gia tốc LHC sẽ khởi
động và chương tŕnh khám phá ưu tiên là việc
săn t́m hạt cơ bản Higgs [2]
, hạt tạo ra khối lượng cho vật chất,
đề tài mũi nhọn của vật lư hiện
đại, ch́a khóa mở đường cho sự
thống nhất hoà quyện lượng tử với tương
đối rộng. Xin nhắc lại, khối
lượng là cơ nguyên khởi đầu của
không-thời gian, của vạn vật, của vũ
trụ. Không có khối lượng tức năng
lượng th́ chẳng c̣n ǵ hết. Nền tảng
của mô h́nh chuẩn là sự hiện hữu thiết
yếu của hạt Higgs vô hướng tràn ngập không
gian để cung cấp khối lượng cho tất
cả các hạt khác khi tương tác với nó. Lư
thuyết và thực nghiệm, tay trong tay vươn t́m
những bến bờ xa xăm sâu thẳm nhất của
tri thức khoa học, tiếp nối khát vọng chung
của con người xưa nay không ngừng t́m hiểu
thiên nhiên và bản thể của các hiện tượng.
Hơn bao giờ hết và càng ngày càng rơ nét là cách tiếp
cận cách tân của hai thế giới liên thông mật
thiết: vĩ mô của vũ trụ bao la diễn
giải bởi thuyết tương đối rộng và
vi mô của hạt cơ bản diễn giải bởi
thuyết lượng tử. Vệ tinh Planck và máy gia
tốc hạt LHC theo thứ tự là hai công cụ thực
nghiệm hiện đại sẽ khởi động
năm nay 2008 trong công cuộc đo lường, t́m
hiểu, khám phá, giải thích một cách nhất quán
những bí ẩn của hai thế giới vĩ mô và vi mô
nói trên. Ngành khoa học thống nhất và bổ túc lẫn
nhau của hai thế giới đó mang tên gọi thiên
văn-vật lư hạt (astro-particle physics). Xa xưa thiên
văn ngụ ư ngắm nh́n quan sát thụ động các
tinh tú vận chuyển, thêm bước nữa là thiên
văn-vật lư t́m hiểu các hiện tượng phóng
xạ và h́nh thành biến đổi của các thiên hà, tinh
thể qua các định luật phổ quát của vật
lư, ngày nay thiên văn hầu như đồng nghĩa
với vũ trụ học và gốc nguồn của nó
(tinh nguyên học) mà cốt tủy là thuyết tương
đối rộng. Thuyết này như nàng Bạch
Tuyết sau hơn nửa thế kỷ thiu thiu ngủ
đă bừng tỉnh cùng ông hoàng lượng tử
cất cánh vươn xa t́m biên giới của tri thức.
5a. Mấy bước ban đầu: Einstein là người
trước tiên nhận ra cái toàn bộ chẳng sao tách
biệt giữa vật chất-lực (cái bị chứa)
và không-thời gian (cái vỏ chứa). Tất cả
chỉ là một mà ông gọi là vũ trụ và khoa học
nghiên cứu cái toàn bộ đó mang tên là vũ trụ
học mà nguyên tắc - được ông xây dựng trong
một công tŕnh ra đời tháng Hai năm 1917 - vẫn
tiếp tục làm nền tảng rọi sáng cho măi
đến ngày nay, mặc dầu thay đổi nhiều
về chi tiết và mô h́nh ban đầu. Trước
hết ông nhận thấy phương tŕnh (II) của
thuyết tương đối rộng không có
nghiệm số nào tương ứng với một vũ
trụ vĩnh cửu bất biến với thời gian mà
định kiến ngàn xưa đều tin chắc như
vậy, ngay cả với con người cấp tiến
như Einstein! Ông đành thêm vào vế trái phương
tŕnh (II) một số hạng Λ gμν (ông gọi
Λ > 0 là hằng số vũ trụ v́ nó chẳng có
hệ quả cục bộ nào ở bất kỳ các quy mô
lớn hay nhỏ) để có được một
nghiệm số diễn tả vũ trụ ấm êm
tĩnh lặng, tuy cong về không gian nhưng lại phẳng
(không thay đổi) với thời gian. Nhưng
chỉ vài năm sau đó, các nhà thiên văn vật lư W. de
Sitter (Hà Lan), A. Friedmann (Nga) và G. Lemaître (Bỉ) khi xem xét toàn
diện mười thành phần của phương tŕnh
(II) chứng minh là vũ trụ không những cong về
không gian mà cũng phải cong cả với thời gian,
vậy vũ trụ hoặc dăn nở hoặc co nén chứ
không tĩnh tại. Hỗ trợ quyết định cho
phần lư thuyết trên là năm 1929 khi nhà thiên văn
Mỹ E. Hubble đo lường quang phổ ánh sáng của
các thiên hà và phát hiện chúng đồng loạt có tần
số sóng bị giảm đi so với quang phổ đo
trên trái đất. Tương tự như hiệu
ứng Doppler trong âm thanh, theo đó tiếng sáo phát ra trên tàu
chạy xa bến th́ người đứng yên trên bến
nghe sáo trầm hơn, ngược lại nếu tàu
tiến gần vào bến, tiếng sáo nghe bổng hơn [3]
. V́ quan sát thấy tần số ánh sáng giảm, Hubble suy ra
là khoảng cách từ chúng ta tới các thiên hà tỷ lệ
thuận với tốc độ của chúng, càng ở xa
vận tốc càng lớn. Như vậy vũ trụ không
c̣n tĩnh lặng mà dăn nở như quả bóng khi ta
bơm hơi vào, một thực tại chẳng sao chối
căi. Sự kiện thiên văn quan trọng hàng đầu
này ngày nay được xác định rất vững vàng
bởi nhiều đo lường khác, do đó hằng
số Λ (mà Einstein đưa ra như một tiên
đề để giữ tĩnh lặng cho vũ
trụ) chẳng c̣n cần thiết nữa khiến ông coi
đó là sai lầm lớn nhất trong đời ḿnh.
Nhưng cái ǵ làm vũ trụ dăn nở? Nhiều nhà vật
lư cho rằng có thể chính là hằng số Λ, ai
ngờ cái sai lầm hơn nửa thế kỷ
trước, nay có thể trở nên một thành viên chủ
yếu chiếm ngự đến 70 % năng lượng
của hoàn vũ dưới cái tên mới là năng
lượng tối để làm dăn nở vũ
trụ, cái năng lượng tối đầy bí ẩn
này chưa ai biết là ǵ tuy nhiên nó chẳng phải do
vật chất tạo thành mà lại mang đặc tính
năng lượng của chân không [4]
. Việc tiên đoán sự dăn nở của vũ
trụ thực là một kỳ công của thuyết
tương đối rộng.
5b. Vụ Nổ lớn (Big Bang): Đo
lường được vận tốc dăn nở
(hằng số Hubble) của vũ trụ ngày nay, bạn
hăy mường tượng thời gian lần
ngược trở lại tựa như một cuốn
phim chiếu giật lùi và thấy các thiên hà càng xa xưa bao
nhiêu lại càng sát gần nhau bấy nhiêu khiến cho vũ
trụ trước kia nhỏ hơn và phải có lúc xuất
phát từ một khoảng không gian li ti. Ta suy ra khoảng
13.7 tỷ năm trước có một hiện
tượng kỳ dị theo đó, từ một nguồn
năng lượng và nhiệt độ vô hạn, nén ép
trong một không gian cực kỳ nhỏ bé đă xẩy ra
vụ Nổ lớn làm không gian dăn nở rồi lạnh
dần để h́nh thành vũ trụ như ta quan sát ngày
nay với hàng trăm tỷ thiên hà trong đó có giải sông
Ngân và trái đất xanh lơ của chúng ḿnh. Nơi
xảy ra vụ nổ lớn chính là chỗ bạn đang
ở, cũng như ở bất cứ nơi đâu trong
vũ trụ bao la v́ ở thời-điểm ấy,
mọi chỗ ngày nay tách biệt hàng tỷ năm ánh sáng
thực ra đă cùng chụm lại ở cái
không-điểm kỳ dị ấy [5]
, chẳng có một trung tâm vũ trụ ban đầu nào
cả. Theo G. Gamow, phương pháp tinh tế nhất
để kiểm chứng bằng thực nghiệm mô h́nh
Big Bang là quan sát được hiện tượng bức
xạ nền [6]
, tức là sóng điện từ vi ba tràn ngập không gian.
Đó là ánh sáng rơi rớt lại từ thuở Big Bang
(nhiệt độ 1032 độ ban đầu cách đây
khoảng 13.7 tỷ năm, nay nguội dần chỉ c̣n
2.735 độ K tuyệt đối). Bức xạ nền
có hệ quang phổ của một vật đen [7]
, đối tượng nghiên cứu đă đưa Planck
đến giả thuyết lượng tử [8]
. Mười năm qua chứng kiến nhiều phát
triển trong sự hiểu biết của chúng ta về mô
h́nh chuẩn vũ trụ mang tên gọi ΛCDM [9]
mà ṇng cốt là vụ Nổ lớn.
5c. Lỗ đen: Ở nơi đâu tập trung
mật độ năng-khối lượng càng lớn
th́ sự biến dạng đàn hồi của
không-thời gian càng nhiều ở đó, sự biến
dạng tăng trưởng cho đến khi tính dẻo
dai của nó bị đứt, tựa như cao su nếu
bị kéo quá căng sẽ hết co dăn đàn hồi. Khi
trọng trường lớn vô hạn, sự thay
đổi trạng thái từ dẻo dai sang đứt
vỡ làm xuất hiện các không-thời điểm
kỳ dị, một hiện tượng tổng quát
của thuyết tương đối rộng.
Đại lượng đo sự biến dạng
của không-thời gian là h00(x) ≈ hii (x) ≈ 2GM/(c2x),
phụ chú 27. Khi 2GM/(c2x) ≈ 10–6 như
trường hợp mặt trời, ta có thể dùng phép
tính toán xấp xỉ gần đúng như Einstein đă dùng
để giải đáp hiện tượng tuế sai
của Thủy tinh và tiên đoán độ cong của ánh
sáng khi đi gần mặt trời (phụ chú 32). Nhưng
khi trọng trường cực mạnh như
trường hợp lỗ đen và sao neutron, ta không
thể dùng phép tính gần đúng nói trên nữa mà phải
xét toàn diện chính xác phương tŕnh phi tuyến tính
của Einstein. Sao neutron (ở đó electron và proton nén ép
thành neutron và neutrino) có mật độ khối
lượng vô cùng lớn, đường kính sao R
chừng 10 km mà khối lượng M lại lớn
như mặt trời, 2GM/(c2R) ≈ 0.4 (con
số này so với 10–9 của trái đất), không gian trên
sao neutron cong đến nỗi tổng cộng ba góc h́nh tam
giác bằng 250 độ, nhịp độ tích tắc
đồng hồ chậm bằng 78% so với đồng
hồ chúng ta trên trái đất. Xin nhắc lại mô h́nh
diễn tả cuộc đời của các thiên thể là
tiến tŕnh tổng hợp nhiệt hạch của chúng,
nôm na là sự phân ră tiêu thụ nhiên liệu hạt nhân
nguyên tử của chúng. Quá tŕnh đó đưa đến
cấu trúc nhiều vỏ bao quanh nhau của thiên thể,
giống như củ hành với nhiều màng lớp.
Nếu khối lượng của v́ sao đủ lớn,
tác động của trọng trường khá mạnh làm
tâm lơi của nó bị nén ép xô vào nhau và thu nhỏ lại,
c̣n vỏ ngoài th́ bùng nổ tung bay và xuất hiện siêu sao
mới (supernova) bừng sáng trong khoảnh khắc. Tùy theo
khối lượng lớn bao nhiêu ban đầu, thiên
thể này vào cuối đời (khi hạt nhân nguyên tử
của nó bị phân ră hết) sẽ biến thành hoặc
sao neutron hoặc lỗ đen, diễn tả trạng thái
thiên thể bị co ép lại trong một không gian cực
nhỏ. Lỗ đen là kết quả của sự sập
đổ liên tục của một thiên thể có
khối lượng lớn tới hạn, sự sập
đổ đó không dừng lại khi h́nh thành sao neutron mà
tiếp tục tới cùng để xuất hiện
một không-thời gian kỳ dị (chân trời lỗ
đen, 2GM/(c2R) = 1) ở đó từ
vật chất đến ánh sáng và tín hiệu thông tin
chẳng cái ǵ thoát ra khỏi [10]
. Ngoài mật độ khối lượng M vô cùng
lớn, lỗ đen c̣n mang điện tích Q và tự
quay tṛn quanh trục của ḿnh với momen J, ba thông
số (M,Q, J) xác định tính chất vật lư
của nó. Khi nối kết với vật lư lượng
tử, S. Hawking và J.D. Bekenstein khám phá ra là lỗ đen
cũng phóng xạ nhiệt ra ngoài chân trời tối kín
của nó như một vật đen và mang entropi luôn
tăng trưởng, một liên hệ sâu sắc giữa
vật lư cổ điển (trọng trường,
nhiệt động học) và lượng tử.
5d. Đâu rồi phản vật chất? Sự
hiện hữu của phản vật chất (do Paul A.M.
Dirac dùng suy luận mà tiên đoán và C. Anderson khám phá ra sau
đó) là hệ quả sâu sắc nhất của bản
giao hưởng tuyệt vời giữa hai cột trụ
của vật lư hiện đại: tương
đối hẹp và lượng tử [11]
. Máy chụp h́nh nổi PET (Positron Emission Tomography) trong y
học ngày nay là một ứng dụng trực tiếp
của hạt phản electron hay positron để
rọi sáng chi tiết vi mô trong năo bộ. Có vật chất
th́ cũng phải có phản vật chất, khi tụ
hội chúng tự hủy để biến thành năng
lượng, và ngược lại nếu đủ
năng lượng th́ các cặp vật chất-phản
vật chất được tạo ra và đó là
chuyện thường xuyên xẩy ra trong các máy gia tốc
hạt. Vũ trụ lúc nổ lớn chỉ chứa
đựng duy nhất năng lượng với nhiệt
độ vô cùng cao, từ đó khi nguội dần nẩy
sinh ra vật chất và phản vật chất, chúng
tương tác, biến chuyển, phân ră tuân theo bốn
định luật tương tác cơ bản của
vật lư: mạnh, yếu, điện từ, hấp
dẫn. Số lượng vật chất và phản
vật chất phải bằng nhau chẳng cái nào nhiều
hơn cái nào v́ chúng đều khởi sinh vài phút sau Big Bang
từ năng lượng thuần khiết ban đầu.
Bức xạ nền - mà COBE, WMAP và sau hết vệ tinh
Planck năm nay sẽ khởi động đo
lường với chi tiết chưa từng đạt -
chẳng bảo cho ta ánh sáng tàn dư đó chính là sản
phẩm của sự va chạm cách đây 13.7 tỷ
năm giữa vật chất và phản vật chất
nẩy sinh từ năng lượng cực lớn sao? Mà
vật chất chính là nguyên tử, khí và thiên thể
giăng đầy vũ trụ ngày nay, c̣n phản vật
chất lại chẳng thấy tăm hơi, tại sao
vũ trụ ngày nay lại chỉ có vật chất? Đó
là một bí ẩn của mô h́nh Big Bang v́ ba lực
(mạnh, điện từ và hấp dẫn) trong bốn tương
tác nói ở trên đều tuân theo luật đối
xứng vật chất-phản vật chất (đối
xứng CP, nói theo ngôn từ của lư thuyết chuẩn các
hạt cơ bản), không có sự dị biệt giữa
chúng. Chỉ tương tác yếu (ba thí dụ điển
h́nh của tương tác này: sự tổng hợp
nhiệt hạch trong tâm mặt trời và các tinh tú, sự
phân ră β của các hạt nhân nguyên tử và hạt
neutrino) mới vi phạm phép đối xứng CP, theo
đó tương tác yếu của phản vật chất
và của vật chất không giống y hệt nhau mà khác
đôi chút. Sự khác biệt đó được diễn
giải hoàn hảo trong mô h́nh chuẩn hạt cơ
bản và được kiểm chứng vô cùng chính xác
bằng thực nghiệm. Nhưng sự vi phạm nhỏ
của phép đối xứng vật chất-phản
vật chất trong các pḥng thí nghiệm trên trái đất
không giải thích nổi về mặt định
lượng tại sao trong vũ trụ ngày nay vật
chất lại áp đảo toàn diện phản vật
chất, tại sao cái này lại biến đi ngay từ
trong trứng nước thời Nổ lớn? Trong
việc diễn giải sự vi phạm đối
xứng vật chất-phản vật chất, tại sao
mô h́nh chuẩn hạt cơ bản thành công mà mô h́nh
chuẩn vũ trụ Big Bang lại thất bại? Đó
là đề tài nghiên cứu ưu tiên của LHC cùng với
sự săn t́m hạt cơ bản Higgs (phụ chú 34).
5e. Sóng trọng trường: Nếu điện
thoại và máy vi tính di động tân kỳ là tảng
băng nổi của sóng điện từ trường
với bốn phương tŕnh Maxwell [12]
mà công nghệ thông-truyền tin hiện đại khai thác
tuyệt vời, th́ sự hiện hữu của sóng
trọng trường là hệ quả tất yếu
của mười phương tŕnh Einstein trong thuyết
tương đối rộng, minh họa tính dẻo
đàn hồi của không-thời gian. Tiến tŕnh khai thác
và ứng dụng của sóng trọng trường là cả
một chân trời kỳ diệu đang hé mở. Thời
cổ điển truớc Einsein mọi người
mặc nhiên chấp nhận khái niệm tiên nghiệm
của không-thời gian cứng nhắc chẳng chút nào liên
đới đến vật chất-năng lượng
chứa đựng ở trong. Einstein qua thuyết
tương đối rộng chỉ dẫn cho ta một
nhận thức khác hẳn: sự phân phối
năng-khối lượng vật chất (thí dụ
hệ thống hai lỗ đen dao động và hút nhau)
không những bẻ cong cấu trúc không-thời gian mà
sự biến dạng đó lại truyền đi vô
tận khắp nơi dưới dạng sóng với
vận tốc c của ánh sáng. Vậy sóng trọng
trường phản ánh sự phân phối dao động
của vật chất và sự biến dạng đàn
hồi của không-thời gian, một đặc trưng
của thuyết tương đối rộng. Tín
hiệu để nhận diện và đo lường
được sóng trọng trường là sự thay
đổi δL của khoảng cách L giữa hai vật
bị nhiễu loạn bởi sóng đi qua nó, cái thay
đổi δL/ L đó quá nhỏ khoảng 10–22 mà các giao
thoa kế như Ligo (Mỹ), Virgo và Geo (Âu châu), Tama
(Nhật) cùng Lisa (quốc tế) đang và sẽ tích
cực đo lường.
5f. Chân không lượng tử và sự dăn nở
vũ trụ với hằng số Λ: Chân
không lượng tử (quantum vacuum), viết gọn thành Không
được định nghĩa như trạng thái
cơ bản tận cùng của vạn vật, nó vô
hướng, trung ḥa, mang năng lượng cực
tiểu trong đó vật chất, tức là tất cả
các trường lượng tử kể cả
điện từ, đều bị loại bỏ hết.
Nhưng không phải v́ Không chẳng chứa
trường vật chất nào mà năng lượng
của nó bằng 0. Theo nguyên lư bất định Heisenberg,
năng lượng của bất cứ trạng thái vi mô
nào là chuỗi (1/2)hν, (3/2)hν, (5/2) hν...chứ
không phải là 0hν, 1hν, 2hν...
Cũng dễ hiểu thôi, nguyên lư bất định
bảo ta nếu xung lượng |k| được xác
định rơ rệt bao nhiêu th́ vị trí trong không gian |x|
lại mơ hồ rối loạn bấy nhiêu, vậy
năng lượng tối thiểu ε = (1/2) hν
≠ 0 chính là một thỏa hiệp tối ưu b́nh
đẳng cho cả hai bên |k| và |x|. Thực thế,
nếu ε = 0, |k| = 0, vậy |x| không sao
được xác định nổi. Phản ánh nguyên lư
này, thế giới vi mô luôn luôn dao động ngay ở
nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất
(năng lượng cực tiểu) và đó là ư nghĩa
của sự thăng giáng lượng tử (quantum
fluctuation). Thang mức vi mô nói chung là cả một vũ
đài náo nhiệt và hỗn loạn, "vạn vật
sinh hủy, hủy sinh, ôi phí phạm thời gian"
như nhà vật lư kỳ tài Feynman từng hài hước.
Không gian trống rỗng tưởng như yên tĩnh
phẳng lặng thực ra chỉ là tổng quan trung b́nh
của một thực tại vô cùng phong phú và sôi sục
ở mực độ sâu thẳm, tựa như biển
hiền ḥa nh́n phiến diện trên bề mặt phẳng
mượt vậy mà đang diễn ra dưới ḷng sâu
một đợt sóng ngầm dao động liên hồi.
Bởi năng lượng cực tiểu khác 0 và v́
tần số ν có thể là bất cứ con số nào
từ 0 đến vô tận nên Không có năng
lượng phân kỳ [13]
khi ta lấy tích phân tất cả các mốt dao
động. Tuy chẳng sao định lượng nổi
(v́ năng lượng phân kỳ), nhưng chân không
lượng tử vẫn có thể biểu hiện tác
động của nó qua hiệu ứng Casimir [14]
, một đặc trưng quan sát đo lường
được. Chính v́ vô hướng, trung ḥa lại có
năng lượng vô hạn, nên chân không lượng
tử mang ẩn dụ một hư vô mênh mang tĩnh
lặng, từ đó do những kích thích nhiễu loạn
của năng lượng trong Không mà vật chất
(cùng phản vật chất) được tạo thành
để rồi chúng tương tác, biến đổi,
phân ră rồi trở về với Không, cứ thế
tiếp nối bao ṿng sinh hủy! Chân không lượng
tử chính là trạng thái cơ bản, cội nguồn và
chốn trở về cũng như ra đi của vạn
vật. Nó không rỗng tuếch chẳng có ǵ mà là cái
thế lắng đọng của tất cả. Chân
không-Vật chất-Không gian-Thời gian chẳng sao tách
biệt, đó là hệ quả của Tương
đối (hẹp và rộng) hợp phối cùng
Lượng tử! Nhưng năng lượng cực kỳ
lớn của chân không lượng tử (tai họa chân
không) lại vượt xa quá nhiều mật độ
năng lượng tối làm dăn nở vũ
trụ mà các nhà thiên văn ước lượng bằng
cách đo lường gia tốc của các siêu sao mới.
Xin nhắc lại năng lượng tối
mang đặc tính của chân không (với hằng số
Λ vô hướng, xem 5(a) và các phụ chú 36, 41).
Điều này minh họa sự mâu thuẫn cơ bản
giữa hai trụ cột của vật lư hiện
đại lượng tử và tương đối
rộng.
6. Tạm kết
Hai thuyết lượng tử và tương đối
rộng đều cần thiết để diễn
tả các hiện tượng vật lư khi hai thế
giới vi mô và vĩ mô cận kề chẳng c̣n tách
biệt như trong trung tâm sâu thẳm của lỗ đen,
trong trạng thái vũ trụ ở kỷ nguyên Planck (giây
phút ban đầu của Big Bang với nhiệt độ
kinh hoàng, không gian độ dài Lp cực nhỏ, năng
lượng Ep cực lớn, phụ chú 45), hoặc trong
các máy gia tốc hạt năng lượng cao mà LHC là
điển h́nh tốt đẹp nhất. Ở những
điều kiện cực độ ấy, các
định luật của trọng trường và của
lượng tử không tương thích với nhau, h́nh
học không-thời gian cong uốn trơn tru của
thuyết tương đối rộng lại xung
đột sâu sắc nhất với cái sôi động,
thăng giáng lượng tử, các phương tŕnh
của hai thuyết khi kết hợp cho ra những đáp
số vô hạn, phi lư. Ngoài ra ở kỷ nguyên Planck,
cường độ của trọng lực (không đáng
kể ở nhiệt độ và năng lượng b́nh
thường) không c̣n nhỏ nữa mà tương
đương với cường độ của ba
lực cơ bản khác: điện-từ, mạnh và
yếu. Ba lực này thành công tuyệt vời trong sự ḥa
đồng với cơ học lượng tử và
như vậy chúng diễn tả chính xác và nhất quán
mọi vận hành từ thế giới vi mô hạ nguyên
tử đến thế giới vĩ mô của các thiên
thể trong vũ trụ bao la. Theo thứ tự, sự
phối hợp với lượng tử của ba lực
cơ bản trên mang tên điện động lực
học lượng tử (QED, Quantum Electro-Dynamics), Sắc
động lực học lượng tử (QCD, Quantum
Chromo-Dynamics) và Điện-Yếu lượng tử
(Quantum Electro-Weak Interaction), tóm tắt trong Mô h́nh chuẩn
hạt cơ bản với không dưới hai chục
giải Nobel trong khoảng 30 năm gần đây. Có
thể khẳng định rằng điện
động lực học lượng tử là nền
tảng phát triển kỳ diệu của công kỹ
nghệ thông-truyền tin hiện đại với vi
điện tử, quang điện tử, spin-điện
tử.
Trong khi đó, luật hấp dẫn lại mâu thuẫn
với lượng tử. Nguyên nhân sự khác biệt
giữa ba lực trên với trọng lực - khi cả
bốn kết hợp với nguyên lư bất định
Heisenberg (bị lượng tử hoá, nói theo ngôn từ
chuyên môn) - có thể nhận ra như sau: các trường
(vật chất và điện từ) của ba lực khi
bị lượng tử hóa sẽ biến thành
đơn vị rời rạc vận hành trong một
không-thời gian liên tục trơn tru. Trái lại trọng
trường theo thuyết tương đối rộng
lại chính là metric của không-thời gian trơn tru liên
tục đó, khi bị lượng tử hóa cái trơn tru
ấy chẳng c̣n giữ lại được
đặc tính dẻo dai nguyên thủy nữa mà bị
mất tính đàn hồi, có nếp gấp và lỗ
thủng (nói theo ngôn ngữ toán học topo) tựa như
mảng cao su căng quá bị xé rách. Ta không thể không
cảm thấy có cái ǵ trục trặc ở mức cơ
bản nhất, tại sao thiên nhiên lại có thể tùy
tiện phân chia những định luật, chính xác ở
một quy mô nào đó, để rồi trở thành vô lư
ở thang mức khác, cái nghịch cảnh này chỉ
phản ảnh sự thiếu sót của ta trên
đường t́m kiếm luật hấp dẫn
lượng tử (Quantum Gravitation). Đó quả là vấn
đề số một của vật lư hiện
đại mà tai họa chân không minh họa ở trên
là thí dụ.
Thuyết siêu dây (Superstring) là một trong vài [15]
lư thuyết mang khả năng, về nguyên tắc, dung ḥa
và giải quyết mâu thuẫn nói trên để mô tả
nhất quán tất cả bốn tương tác cơ
bản trong cả hai thế giới cực lớn của
vũ trụ bao la và cực nhỏ của hạ nguyên
tử, thống nhất mọi điều về một
mối. Theo thuyết này, thành phần cấu trúc cơ
bản của vạn vật không phải là hạt điểm
(0 chiều) mà là dây hay màng (1 hay nhiều chiều) cực
nhỏ với kích thước độ dài Planck cỡ
10–35 m luôn dao động. Hai nền tảng mà thuyết siêu
dây dựa vào là tương đối hẹp và
lượng tử, như vậy lúc khởi đầu có
sự cách biệt giữa cái vỏ chứa
(không-thời gian phẳng Minkowski) và cái bị chứa
(dây đàn hồi dao động). Ngạc nhiên thay, kết
quả điểm đến là cái bị chứa
chuyển giao tính đàn hồi cho cái vỏ chứa,
cái không-thời gian này hết cứng nhắc mà trở
thành cong uốn đàn hồi của thuyết tương
đối rộng, như vậy trọng lực là hệ
quả tất yếu suy ra từ siêu dây. Một
đặc điểm khác, siêu dây là thuyết duy nhất
đầu tiên trong vật lư xác định được
con số D = 10 chiều của không-thời gian
(trước siêu dây, số chiều 4 của không-thời
gian ta quen dùng chỉ là một định đề tiên
nghiệm ta tự cho ta, do cảm nhận và quan sát) minh
họa không-thời gian là bộ phận chẳng thể
tách rời khỏi vật chất mà thuyết tương
đối rộng đă hé mở cho ta thấy. Sáu
chiều không gian c̣n lại, tuy bị cuốn tṛn quá
nhỏ để ta không quan sát được trong
đời sống hàng ngày, có thể làm thay đổi chút
xíu luật 1/R2 của trọng lực Newton, một
đề tài thực nghiệm nóng hổi. Đặc
điểm thứ ba của siêu dây là khả năng thống
nhất điện từ với trọng lực mà Einstein
trăn trở t́m kiếm không thành, nôm na điện-từ
trường như siêu dây hở (hai đầu dây tự
do) và trọng trường như siêu dây kín (ṿng kín).
Nhưng cần nhấn mạnh là mặc dầu có
những tiến bộ kinh ngạc, nhiều khía cạnh lư
thuyết của siêu dây c̣n xa mới hoàn toàn sáng tỏ và
nhất là không có một tiên đoán nào của nó
được chứng nghiệm dẫu gián tiếp. Edward
Witten - chuyên gia đầu ngành của thuyết này, nhà
vật lư đầu tiên được huy chương
Fields uy tín về toán, không một nhà vật lư nào, kể
cả những giải Nobel, có công tŕnh được trích
dẫn nhiều bằng ông - đă một lần tuyên
bố: thuyết siêu dây là một bộ phận của
vật lư thế kỷ 21 đă t́nh cờ rơi xuống
thế kỷ 20, ngụ ư có lẽ cần biết bao
năm nữa mới được hoàn tất! Cơ sở
toán học của nó quá phức tạp, các chuyên gia siêu dây
phải tự ḿnh ṃ mẫm sáng tạo, không như Einstein
đă sẵn có h́nh học cong Riemann làm nền để
khai sinh ra thuyết tương đối rộng.
Vào cuối thế kỷ thứ 19, có một mâu thuẫn
giữa một bên là lư thuyết điện từ +
nhiệt động học - hai trụ cột cơ
bản của vật lư thời đó - và bên kia là thực
nghiệm đo lường về hiện tượng
bức xạ nhiệt của vật đen. Thực
thế, lư thuyết trên đưa đến một hệ
quả phi lư là tổng năng lượng phóng xạ
bởi vật đen phải vô hạn, cụ thể
ngồi trước một bếp sưởi hồng,
bất kỳ nhiệt độ cao thấp ra sao ta sẽ
bị thiêu cháy tan biến hết! Vậy mà Lord Kelvin, người
của nhiệt độ tuyệt đối, giáo hoàng
của vật lư thời đó có câu tuyên bố năm 1892
nổi tiếng v́ lạc quan: “Vật lư đă hoàn chỉnh
cả rồi về mặt căn bản, cái mà ta c̣n có
thể đóng góp chỉ là xác định thêm vài thập
phân sau dấu phẩy cho các đo lường, tính toán mà
thôi. Tuy nhiên hăy c̣n hai vấn đề nho nhỏ...”. Hai tiểu
tiết ông nêu lên là: thứ nhất Michelson và Morley
chẳng t́m thấy chất liệu ether (xem 3a và
phụ chú 12) tràn ngập vũ trụ trong đó dao
động sóng điện từ, thứ hai các đo
lường ngày càng chính xác về cường độ
bức xạ nhiệt của vật đen (phụ chú 39)
không phù hợp với nền tảng căn bản của
vật lư kèm thêm cái hệ quả phi lư nói trên. Ngờ
đâu đó chính là hai vấn đề cốt lơi làm
ngọn hải đăng chỉ đường cho khoa
học vượt trùng dương đi t́m biên giới
của tri thức. Giải quyết được hai
tiểu tiết trên theo thứ tự là Albert Einstein với
thuyết tương đối hẹp, và Max Planck với
thuyết lượng tử [16]
, hai trụ cột của vật lư hiện đại. Ai
có thể tưởng tượng nổi trăm năm sau
ư tưởng của Planck, một phần ba tổng
sản lượng kinh tế của cường quốc
số một thế giới hiện nay có gốc nguồn
từ những ứng dụng trực tiếp của công
nghệ lượng tử. Cái kiêu hănh vội vàng của
Lord Kelvin cho ta bài học nhún nhường về hiểu
biết hạn hẹp cục bộ của con
người so với cái không biết mênh mông. Qua con mắt
ngây thơ của các em trẻ hỏi ta đủ thứ,
cái khát vọng hướng thượng, t́m hiểu,
học hỏi, sáng tạo có lẽ chính là đặc tính
bẩm sinh của loài người. Như chim di
đứng trên đôi cánh của chim bằng để cùng
nh́n cao xa hơn mà Besso thuở nào nói về bạn Einstein,
dựa trên thành quả của người đi
trước, mỗi chúng ta từ trái đất nhỏ
nhắn cùng nhau góp phần cho sự hài ḥa giữa
người với người và với môi trường
thiên nhiên để vươn tới các v́ tinh tú trong hoàn
vũ bao la.
© 2008 talawas
[1]Quả
là một bài học vượt xa đối tượng
khoa học thuần tuư. Trên cánh đồng hoang ở biên
giới Pháp-Thụy Sĩ gần thành phố Genève, ngay sau
Đệ nhị Thế chiến nhiều nhà vật lư Âu
châu di tản khắp nơi v́ nạn phát xít đă trở
về cố hương cùng đồng nghiệp ở
lại xây dựng nên Trung tâm Âu châu Nghiên cứu Hạt nhân
(CERN). V́ ḥa b́nh và phát triển qua nghiên cứu cơ bản,
với sự hỗ trợ tích cực của một
số chính khách có tầm nh́n xa, họ đă chung sức
mở đường cho sự hồi sinh và hoà giải
của các nước Âu châu, đặc biệt
Đức-Pháp. V́ mỗi nước riêng lẻ không sao
đủ nhân sự và phương tiện để hoàn
thành sứ mạng, nguyên tắc tổ chức của CERN
(tập hợp đóng góp tài năng ngân quỹ từ
nhiều nước châu Âu, chủ yếu từ
Đức, Pháp, Anh, Ư) đă tiên phong làm mô h́nh cho nhiều
ngành hoạt động khác phỏng theo như thiên văn,
sinh học, thậm chí cả kinh tế, chính trị (CERN ra
đời nhiều năm trước Liên hiệp Âu châu).
Mạng lưới toàn cầu (world wide web) của internet
ra đời ở CERN là một trong nhiều thành công
kỳ diệu từ nghiên cứu cơ bản sang ứng dụng
của cơ quan này, kỹ thuật siêu dẫn điện
từ dùng trong máy gia tốc hạt khổng lồ LHC là
một thí dụ khác. Năm 1992 (đúng 500 năm Columbus
khám phá ra châu Mỹ) máy gia tốc hạt SCC đầu
tầu thế giới về vật lư hạt cơ
bản đang được xây ở Dallas, Texas (Mỹ)
bị cắt đứt hỗ trợ. May thay CERN quyết
tâm thay thế sự hẫng hụt này và trong mười
năm xây dựng nên LHC (http://public.web.cern.ch/Public/Welcome.html)
để mở đầu chu kỳ thăng trầm
rời Mỹ sang Âu của ngành vật lư hạt mũi
nhọn này.
[2]Peter
Higgs, tên nhà vật lư xứ Scotland đă đề xuất
phải có hạt này để mang khối lượng cho
vật chất. Tất cả các hạt cơ bản
(trừ hạt cuối cùng Higgs) của mô h́nh chuẩn
như quark, lepton, gluon, photon, W, Z đều đă
được khám phá hết cả rồi với
độ chính xác tuyệt vời. Các nhà vật lư ngóng chờ
hạt Higgs với tất cả hồi hộp, nếu t́m
thấy, mô h́nh chuẩn sẽ là hệ h́nh có tính quyết
định cho sự hiểu biết tận tường
gốc nguồn của khối lượng vật
chất, và có tác động sâu xa đến vũ trụ
học. Nếu không, ta sẽ đứng trước
một bước ngoặt lịch sử của vật
lư hạt cơ bản, nền tảng của mô h́nh
chuẩn sẽ bị lung lay v́ thiếu nhất quán.
[3]Các
chuyên gia gọi tần số ánh sáng bị giảm đi là
sự xê dịch về phía đỏ (red shift), hàm nghĩa
ánh sáng màu đỏ có tần số nhỏ hơn ánh sáng
màu xanh. Lư do là v́ nếu nguồn sáng hay âm thanh chuyển
động ra xa (đến gần) bến, ánh sáng hay âm
thanh sẽ mất nhiều (ít) thời gian hơn
để tới người quan sát trên bến,
bước sóng trên bến v́ đó sẽ dài (ngắn)
đi, hay tần số sóng sẽ giảm (tăng).
[4]Khi
ta chuyển Λgμν từ vế trái sang vế
phải của phương tŕnh Einstein (II), ta thấy
tenxơ năng-xung lượng Tμν có thêm một
số hạng mới δTμν = – (Λc4/8πG)
gμν. Số hạng mới này mang đặc tính
của một chân không (v́ Λ vô hướng và gμν
có gốc nguồn thuần h́nh học, chẳng do
năng-xung lượng của vật chất tạo nên),
hơn nữa dấu trừ của δTμν có tác
động đẩy ra (thay v́ hút vào bởi lực
hấp dẫn +8πG/c4Tμν của vật
chất làm không gian co lại). Vậy δTμν coi
như tác động phản hấp dẫn của
chân không làm dăn nở vũ trụ và năng lượng
tối chỉ định tính chất này.
[5]Một
số sách báo phổ biến khoa học khi đề
cập đến Big Bang thường dùng ngôn từ
gợi ư có ḍng thời gian trôi chảy từ quá khứ
đến tương lai mà cả hai thuyết tương
đối hẹp và rộng đều phủ
định. Big Bang không phải là sự khai sinh ra vũ
trụ từ hư vô, nó là một khoảnh mép
không-thời gian bị biến dạng rất mạnh
bởi năng-xung lượng cực kỳ lớn, do
đó trạng thái đàn hồi của không-thời gian
bị đứt tựa như miếng cao su quá căng mà
bị xé rách.
[6]A.
Penzias và R. Wilson năm 1965 đă t́nh cờ gián tiếp phát
hiện ra bức xạ nền của vũ trụ (CMB,
Cosmic Microwave Background), rồi năm 1992 G. Smoot và J. Mather
dùng vệ tinh COBE chụp ảnh trực tiếp
đấu tiên, mới đây 2003 là vệ tinh WMAP với
chi tiết tinh vi hơn và năm nay 2008 vệ tinh Planck hy
vọng chứng nghiệm được thời lạm
phát tức là khoảng 10–35 giây sau Big Bang.
[7]Đúng
là các nhà vật lư ít người có cái duyên thi sĩ nên
chỉ thấy toàn những tên vật đen, lỗ
đen, nổ lớn, vật chất tối, dây! Trong
đời sống hàng ngày, ta gọi vật đen (black
body) là một chất liệu chỉ hấp thụ ánh sáng
chiếu lên nó mà không phản xạ nhưng vẫn phóng
xạ. Trong pḥng thí nghiệm, vật đen là một ḷ
bịt kín nung nóng ở nhiệt độ T và đục
một lỗ nhỏ trên thành ḷ, ta nghiên cứu bức
xạ nhiệt phát ra qua lỗ. Sự phân phối
cường độ bức xạ phát ra bởi vật
đen chỉ phụ thuộc vào T thôi chứ không vào
bất cứ chất liệu nào ở trong ḷ. Điều
này chứng tỏ bức xạ của vật đen
chỉ phụ thuộc vào sự dao động của
các thành phần cơ bản chung cho tất cả các
chất liệu, mang tính chất rất phổ quát. Bức
xạ nhiệt của vật đen là một
trường hợp hi hữu trong vật lư có tính phổ
quát. Vật đen lư tưởng là hoàn vũ sau vụ
Nổ lớn mà hai vệ tinh COBE và WMAP (sắp tới là
vệ tinh Planck) đo lường tàn dư của
nhiệt lượng phóng xạ cách đây khoảng 13.7
tỷ năm mà giải Nobel vật lư 2006 trọng
thưởng.
[8]Bằng
một “hành động hầu như tuyệt vọng”
để giải đáp cường độ và
nghịch lư (năng lượng vô hạn) của vật
đen, Planck đưa ra một giả thuyết theo đó
các vật thể khi dao động với tần số
ν th́ năng lượng E phát ra phải theo từng
‘gói‘ rời rạc như 1hν, 2hν, 3hν... chứ
không liên tục. Kỳ lạ thay năng lượng phun ra
từng gói từng chùm chứ không tuôn chảy đều
đặn. Einstein là người đầu tiên dùng giả
thuyết này để diễn giảng hiện
tượng quang điện, mở đầu cho sự
khám phá ra lưỡng tính vừa sóng vừa hạt của
ánh sáng cũng như của các vật thể vi mô khác
(như electron) và sự ra đời của vật lư
lượng tử với nguyên lư bất định
Heisenberg. Hằng số Planck h (trong phương tŕnh E =
hν) có gốc nguồn ở chữ Hilfe (tiếng
Đức nghĩa là phụ trợ), chi tiết này nói lên
cái khiêm tốn của một nhà bác học lớn, dẫu
trong thâm tâm Planck biết ḿnh vừa hé mở một chân
trời mới khi thổ lộ với con trai Erwin 7
tuổi: hôm nay bố phát minh ra một điều phi
thường chẳng kém Newton.
[9]Λ
chỉ định hằng số vũ trụ Λ
gắn liền với năng lượng tối, c̣n CDM
viết tắt của Cold Dark Matter. Vật chất tối
(dark matter), chiếm tới 27% tổng khối lượng
vật chất trong vũ trụ, là vật chất không
bức xạ mà chỉ có vai tṛ tác động lên cách
vận hành của các thiên hà, nó khác lạ với vật
chất b́nh thường (chỉ chiếm khoảng 3%
khối lượng vũ trụ) của những thiên hà
sáng ngời mà ta quan sát được. Gốc nguồn
của giả thuyết vật chất tối đi
từ sự đo lường vận tốc quay rất
cao của các thiên hà, hệ quả của vận tốc
quá cao này là các thiên thể phải tung bay khắp phía mà không
gộp lại được thành cḥm như ta quan sát, do
đó giả thuyết phải có vật chất tối
để lôi hút các thiên hà sát lại gần nhau. Phần c̣n
lại (khoảng 70% tổng năng-khối luợng trong
vũ trụ) là năng lượng tối (dark energy)
để làm vũ trụ dăn nở. Cần nhấn
mạnh bản chất bí ẩn của năng
lượng tối (mang tính chất đẩy ra) và
của vật chất tối (mang tính chất hút vào), chúng
là ǵ, một đề tài nóng hổi của vũ trụ
học và vật lư hạt cơ bản.
[10]H́nh
học không-thời gian của một lỗ đen
đơn giản nhất (diễn tả bởi khối
lượng M) có dạng sau đây:
ds2 = – A c2 dt2 + dr2 /A + r2 (dθ2 +sin2θ dφ2 ) với A = 1
– (2GM /c2 r)
mà Schwarzschild t́m ra năm 1916.
Ta thấy
metric g00 = – A sẽ bằng 0 nếu r = RH ≡ 2GM /c2 . Khi
g00 = 0, theo phương tŕnh (3) của phụ chú 29, ánh sáng
tần số ν0
phát ra từ bất kỳ điểm nào trên h́nh cầu RH
bán kính RH th́ người ở ngoài h́nh cầu (r > RH)
sẽ thấy ánh sáng ấy chỉ có một tần
số ν duy nhất bằng
0 (v́ ν/ν0 lúc nào cũng = 0). Vậy
h́nh cầu RH chính là chân trời lỗ đen v́ ánh sáng
trong đó không phát hiện nổi ra cho người ở
ngoài quan sát được.
[11]Theo
thuyết tương đối hẹp, vật chất
khối lượng m chuyển động với
xung-lượng k mang một năng lượng E, ba
đại lượng đó liên kết bởi E2 =
|k|2c2 + m2c4 và E2 = m2c4
chỉ là dạng riêng lẻ của phương tŕnh trên
khi hạt có khối lượng m ≠ 0 không di
động (|k|= 0). Công thức E2 = |k|2c2 + m2c4
của thuyết tương đối hẹp và chùm
năng lượng hν của thuyết
lượng tử là điểm khởi đầu mà Dirac
kết hợp được để khám phá ra một
chân trời mới: sự xuất hiện của phản
hạt có cùng khối lượng với hạt, nhưng
tất cả các đặc trưng khác (điện tích,
spin, lượng tử tính) của hạt và phản
hạt đều ngược dấu. Sự thống nhất
cơ học lượng tử với thuyết
tương đối hẹp là điều tối cần
thiết v́ thế giới vi mô của lượng tử
luôn dao động với vận tốc rất cao, mà
trường hợp này chỉ thuyết tương
đối hẹp của cơ học mới diễn
tả được chính xác. Để chứng minh phản
hạt, Dirac đi từ nhận xét sau đây: v́ E =
± (|k|2c2 + m2c4 )½, nên E = ± mc2
với một vật bất động. Trong vật lư
cổ điển, E > 0 nên ta chỉ có E = mc2
thôi. Trái lại trong thế giới vi mô của vật
lư lượng tử, năng lượng của một
hạt có thể mất đi hay nhận được
từng gói hν, vậy không có ǵ ngăn cản
hạt khi mất đi quá nhiều gói hν có thể
mang năng lượng âm, hay ngược lại một
hạt với E < 0 khi nhận
được nhiều gói hν có thể
trở về trạng thái năng lượng dương.
Thí dụ trong đại dương của muôn vàn hạt
electron (điện tích âm -e ) mang E < 0,
nếu ta có đủ sức để kéo một electron
trong đại dương ấy ra ngoài, tức là
đại dương ấy mất đi một
electron mang E < 0, -e. Nhưng mất đi
(tượng trưng bằng dấu -) cái âm th́ cũng
như nhận được cái dương, -(-) = +,
vậy kết cục là ta thấy xuất hiện một
hạt có điện tích dương +e và mang năng
lượng E > 0. Đó là hạt phản electron
hay positron. Tóm lại, hạt và phản hạt có E >
0, chúng có chung khối lượng nhưng mọi
đặc trưng khác (điện tích, spin, lượng
tử tính) đều ngược dấu.
[12]Ludwig
Boltzmann (1844-1906) - nhà vật lư và triết học uyên thâm Áo,
người đặt nền tảng cho vật lư
thống kê - khi suy ngẫm về bốn phương tŕnh
điện-từ Maxwell viết dưới dạng
(∂α ∂α)Aμ = Jμ đă thốt lên “Phải
chăng Thượng đế viết những ḍng này!”,
có lẽ ông c̣n kinh ngạc nữa nếu biết
đến phương tŕnh Einstein và sóng trọng
trường.
[13]Làm
sao ước tính được năng lượng
của Không? Phép phân tích thứ nguyên cho ta cách trả
lời. Với ba đại lượng cơ bản
phổ cập trong vật lư là h = 2π ћ hằng
số Planck, G hằng số trọng lực Newton và c vận
tốc ánh sáng, ta chỉ có một cách duy nhất để
lập nên những đại lượng mang thứ nguyên
chiều dài (L), khối lượng (M), và thời gian (T).
Đó là chiều dài Planck Lp = [Gћ /c3]½ = 1.6 × 10−35 m,
khối lượng Planck Mp = ћ /(cLp) = 2.2
× 10−8 kg = 1.2 x 1019 GeV/c 2, và thời điểm
Planck Tp = Lp /c = 5.4 × 10−44 s. Từ đó,
năng lượng Planck Ep = Mpc 2 = 2 × 10+9
joule. Mật độ năng lượng của Không
được ước tính theo (27/16π2) Ep/(Lp)3 = 8.4 ×
10112 joule/ m3 với những đóng góp của các
trường ảo tràn đầy trong Không: photon
trong tương tác điện từ, ba boson W±, Z0 của
tương tác yếu, và tám gluon trong tương tác
mạnh. Đóng góp của các hạt cơ bản quark và lepton
cũng chẳng thay đổi nhiều công thức trên.
[14]Trong
một hư không kín rỗng, không ánh sáng không chút vật
chất, ta đặt hai phiến gương mỏng song
song. Mặc dầu năng lượng giữa hai
phiến và ngoài hai phiến của Không
đều phân kỳ như ta biết, nhưng năng
lượng của Không ở giữa nhỏ
hơn ở ngoài hai phiến (v́ kích thước ở
giữa nhỏ hơn ở ngoài), sự khác biệt hữu
hạn đó gây nên một áp suất làm chúng hút lẫn
nhau. Đó là lực Casimir, một đặc trưng của
lượng tử. Lực hút đó ông tính được
ra bằng Fc = (πhc/120) (L2/d 4) với L2
là diện tích của gương và d khoảng
cách giữa hai phiến. Nguồn gốc lượng
tử của Fc được biểu hiện rơ ràng qua h
(hằng số Planck) trong công thức trên. Ở khoảng
cách d ≈ nanô-mét (một phần tỷ mét) trong công
nghệ tương lai, lực này có thể đóng vai tṛ
quan trọng. Các pḥng thực nghiệm ở Riverside, Padova,
Stockholm, Paris đă đo Fc với độ sai biệt
nhỏ hơn 1% so với tính toán. Trong hư không tất
cả đều vắng bóng chẳng có điện
từ, ánh sáng, vật chất, khối lượng,
điện tích, sắc tích...chi cả, kỳ lạ thay
đột khởi một lực mà gốc nguồn rút
tỉa từ năng lượng cực tiểu (nhưng
vô hạn) của chân không lượng tử! Nhà vật lư
Hà lan Hendrik Casimir, sau khi công bố năm 1948 lực mang tên
ông, đă giữ chức vụ tổng giám đốc
nghiên cứu đại tập đoàn công kỹ nghệ
quốc tế Philips.
[15]Một
thuyết khác là h́nh học phi giao hoán (non-commutative
geometry) do A. Connes (nhà toán học Pháp) đề
xướng, theo đó không-thời gian cũng chẳng c̣n
trơn tru liên tục nữa mà rời rạc thành
đơn vị như vật chất.
[16]Khởi
động bởi Planck và tiếp nối bởi Einstein,
vật lư lượng tử là một công tŕnh tập
thể với những đóng góp của nhiều nhân
vật lịch sử như Bohr, de Broglie, Schrödinger,
Heisenberg, Dirac, Pauli, Fermi... nối tiếp cho măi đến
ngày nay bởi các tài năng đến từ mọi
miền trên trái đất qua vài khuôn mặt quen thuộc
như Bose, Gell-Mann, Landau, Salam, Yang, Yukawa...