ĐÔI DÒNG TÂM SỰ - Phan thị Trọng Tuyến

https://4.bp.blogspot.com/-4Y6SD8Jyu_I/VuWoZk4NaaI/AAAAAAAABus/k22AQM7aObw0uiga7OvoqjVxwzC52WkyA/s400/Thach%2BTV.JPG

 

ĐÔI D̉NG TÂM SỰ

Phan Thị Trọng Tuyến

 

Phải bắt đầu từ chỗ đầu tiên.

Và chính ḷng can đảm mở đầu cho mọi bắt đầu.

Vladimir Jankelevitch ( 1903-1985)

    Thông thường, sau khi xong việc, người dịch chỉ c̣n một thỉnh cầu quan trọng: mong  độc giả thông cảm, lượng thứ cho những lỗi lầm và sơ sót chắc chắn có, khiến tác phẩm  gốc có thể bị hiểu sai hoặc giảm giá trị.

    Trong trường hợp chúng tôi ở đây, một điều lo lắng phân vân khác đă có mặt từ lúc  bắt tay vào việc, đó là làm thế nào đến thật gần tinh thần nguyên tác, hay ít ra không xa  lắm giọng Sài G̣n thời ấy, và cố sức tránh dùng những từ ngữ chưa có mặt trước thập  niên 30 hay 40 của thế kỷ 20 ? Làm sao chuyển / dịch được cái " u mặc ", tính khôi hài  và đặc biệt tài chơi chữ (Pháp) của Trần Văn Thạch đến người đọc ?      Dần dà tôi nhận ra đây là những ước vọng quan trọng vượt trên ư chí và khả năng có  giới hạn của ḿnh, tôi đành cố gắng chỉ chú ư vào việc hiểu đúng tư tưởng để phản ảnh  trung thực tấm ḷng Trần Văn Thạch. Xem việc ḿnh làm như góp bàn tay đẩy ra biển lớn cái chai nhỏ chứa một bức tâm thư, một trang sử.

    Và tôi không hề ngờ trước được là việc đóng góp này đă đem lại cho chính tôi nhiều  điều hữu ích và lư thú.

    Lúc dịch xong các bài báo cuối cùng, được chị Châu "ra lệnh" nghỉ ngơi và "giải trí".  Dù phần việc chị giao cho tôi chỉ là giọt nước so với công tŕnh đại dương của chị từ bao  nhiêu năm qua, nhưng tôi vâng lời, cuối tuần đó nghỉ phè, nhân tiện sắp xếp lại tủ sách  nhỏ ngổn ngang những tác phẩm đă mua hay được con cháu tặng từ vài năm nay mà chưa đọc xong.

 

    Th́ t́nh cờ đọc Le Vin de Solitude của Irène Némirovsky1, vào những ngày cuối năm  lạnh lẽo. Một tuổi thơ kể lại, với quyển sách đầu tay ra đời năm bà 26 tuổi.  Những quyển sách tiếp nối được xuất bản tại Paris, trong nước Pháp trước thềm  một thời kỳ biến loạn kinh hoàng đến độ cuốn theo mạng sống của bà, năm đó Némirovsky  mới 39 tuổi. Sách bà sẽ bị cấm khi Đức chiếm đóng Pháp.

    Bất ngờ nghĩ đến chị Châu và cuộc đời hoạt động cũng trong cùng khoảng thời gian  đó của cha chị, ông Trần Văn Thạch. Ông mất lúc chị 7 tuổi, trong những ngày cuối cuộc  thế chiến thứ hai. Những người con của Irène là Denise và Elisabeth Epstein cũng mất mẹ (và cha) rất sớm.

    Lập tức có so sánh không cưỡng được giữa chị với họ, v́ tấm thiệp xuân chị gửi đầu  năm 2009 với bức ảnh chị và mẹ là bà Trần Văn Thạch.

    Hai chị em bà Elisabeth và Denise Epstein, con gái Irène Némirovsky, cất giấu giữ  ǵn những bản thảo của mẹ, nhưng không dám giở ra xem v́ những kỷ niệm quá đau  đớn, măi đến mấy mươi năm sau khi bà mất họ mới khám phá tác phẩm sau cùng của mẹ và cho xuất bản. Năm 2004 đó, quyển Suite française, hai tập đầu trong bộ truyện dang dở, nhận được giải thưởng Renaudot, một giải thưởng văn học từ trước đến nay chỉ trao cho các tác giả c̣n sống. Từ đó, các độc giả thế hệ trẻ ở Pháp và thế giới cũng khám phá ra Irène Némirovsky.

    Bà kể lại khung trời thơ ấu bên người mẹ lănh đạm, nông cạn, bề ngoài và thế giới trưởng giả về chiều với người cha yêu dấu yếu đuối, ham mê cờ bạc. Những trang bản thảo bà viết trong những năm tháng trốn tránh cuộc truy nă, được các con bà khi đó, dù tuổi nhỏ nhưng biết cất giấu, giữ ǵn như báu vật. Némirovsky bị giết trong trại tập trung Đức Quốc xă. Lịch sử người Âu châu gốc Do Thái bị Đức tàn sát trong thế chiến thứ hai được cặn kẽ giải bày, bằng chứng cũng trùng trùng tỏ rơ.

 

    Trần Văn Thạch, không phải là nhà văn thuần tuư, nhưng là một chính trị gia, một nhà báo; ông bị giết một cách mờ ám v́ chủ trương triệt hạ có hệ thống của những người stalinít đối với phái trốtkít.

    Chị Trần Thị Châu, hơn 60 năm sau, cũng t́m được gần trọn vẹn những ǵ cha đă viết và sau khi sắp xếp, chú thích bối cảnh và dẫn giải diễn tiến lịch sử, giới thiệu với độc giả. Khác với hai người con gái trên, chị đă phải đi khắp nơi t́m dấu vết cha để lại. Chị lùng sục khắp các thư viện. Hỏi han các sử gia trên thế giới. Chị theo dơi từng bước đi của cha, kiếm t́m từng bài trong những tờ báo cũ, như những mẩu đời ngắn, gọn với những con số cho biết ngày tháng, như một thứ nhật kư cha để lại

    Chúng ta biết số lượng báo in La Lutte không nhiều, báo tuy công khai hợp pháp nhưng bị cấm phát hành rộng răi, cho nên hơn nửa thế kỷ sau, đi t́m những tờ báo này không dễ dàng chút nào. Chị tỉ mỉ lắp ráp, chụp h́nh, sao chép từng bài viết. So sánh, hỏi thăm, bởi v́ có những bài không chữ kư người viết, t́m những tài liệu nói về cha chị và các bạn đồng nghiệp với ông, những người đă viết nên những trang sử thật đẹp đẽ tại miền Nam Việt Nam thời Pháp thuộc. Đó cũng là một điểm khác biệt nữa so với hoàn cảnh Némirovsky.

    Bà Némirovsky tâm sự về đời ḿnh trong bối cảnh Nga lưu vong, c̣n Trần Văn Thạch viết báo nói lên bất công và ngược đăi do thực dân áp đặt lên con người và đất nước Việt Nam thời thuộc địa.

    Điều liên tưởng của tôi chỉ đến từ hoàn cảnh những người con đi t́m dấu vết của cha mẹ, h́nh ảnh cội nguồn. Điều ǵ đă thôi thúc họ phải nhắc nhở, phải kể lại ? Để chia sẻ và trả lời ? V́ những kỷ niệm trước đó quá mỏng manh mơ hồ ? V́ di vật để lại mang giá trị nội tại cực kỳ quan trọng vượt lên trên ranh giới gia đ́nh ? Một cách để giải oan và phục hồi danh dự của người đă vùi dập trong oan ức, khuất tất ?

    Chị đă như thế nào khi t́m ra tài liệu, khi ghi lại từng chữ, từng câu các bài báo của cha, khi h́nh dung tâm trạng của ông lúc viết cho tờ báo lịch sử lừng danh một cơi Nam Kỳ thuở trước?

    Từ lâu lắm nguyên nhân và các lư do quan trọng sâu kín cũng như các chứng từ, chứng nhân về cái chết của Trần Văn Thạch và các bạn đồng hành đồng chí, tưởng chừng như đă ch́m khuất trong cát bụi thời gian và bị dẫm nát dưới sức mạnh quyền lực chính thống. Cho nên hành tŕnh chuyến đi t́m cha cũng là hành tŕnh của sử gia. Kiếm t́m, so sánh, sàng lọc... Hành tŕnh của cả một đời người.

   Khi việc thực hiện Tuyển tập Trần Văn Thạch đi đến giai đoạn cuối, tôi nhận được bài " Một giấc mơ độc đáo 2, do sinh viên triết Thạch viết trong tạp chí sinh viên do anh xuất bản, nói lên ước vọng nh́n thấy xứ An Nam thuộc địa được thoát khỏi gọng kềm đế quốc Pháp. Mục sư Martin Luther King vài chục năm về sau đă bắt đầu bài diễn văn bất hủ cũng bằng câu tôi đă mơ như vậy khi ông tranh đấu cho dân quyền người Mỹ da đen. Dĩ nhiên, hầu như tất cả những kẻ bị áp bức, bị mất tự do đều có giấc mơ mở tung được xiềng xích. Giấc mơ tự nhiên và b́nh thường hợp lư này luôn luôn trở thành khác thường, bất khả trong hoàn cảnh nghiệt ngă, éo le. Nhất là khi đó, Việt Nam thành thuộc địa Pháp đă hơn 60 năm. Với Trần Văn Thạch, đây là "một giấc mơ độc đáo" v́ tác giả nh́n thấy đoàn kết dân tộc qua (hai) đảng phái, nh́n thấy dân trí mở mang, hứa hẹn cuộc đấu tranh (bất bạo động cho) dân tộc tiến triển tốt đẹp. Đó là mơ ước đoàn kết giữa hai khối tạm coi là giới tư sản trưởng giả và giới nông dân, lao động. Giấc mơ thanh niên trên mẫu quốc Pháp, nơi đó chủ nghĩa thuộc địa được nhiều người Pháp và kể cả kẻ bị trị, nh́n qua lăng kính khai hoá tốt đẹp, trừ một vài trường hợp hiếm hoi 3.

Ở tuổi đôi mươi sinh viên vào thời buổi đó, vấn đề thuộc địa cũng như chánh sách độc tài toàn trị tàn ác của Staline chưa phải là vấn đề lương tâm hàng đầu của giới sinh viên, trí thức Pháp, và đám đông chưa đọc được Trotski cũng như chưa được đọc báo cáo của Khrustchev vài mươi năm sau đó. C̣n André Gide chỉ nhắc đến những bất công đối xử với Phi Châu thuộc địa trong CHUYẾN ĐI CONGO và TỪ TCHAD TRỞ VỀ 4,  phải đợi thêm gần hai thập niên sau nữa với Albert Camus, Jean Paul Sartre và lại André Gide  (tất nhiên, với TRỞ VỀ TỪ LIÊN XÔ ).

Giấc mơ khác thường v́ tại Việt Nam tuy Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… từ đầu thế kỷ 20, không ngừng kêu gọi dân tộc, thanh niên thức tỉnh, đ̣i lại quyền độc lập tự chủ nhưng tiếng nói họ cũng không ngừng bị che lấp, bản thân họ không ngừng bị thực dân tù đày, đàn áp 5.

Chàng sinh viên Thạch mơ thấy dân tộc ḿnh sẽ vùng dậy và t́m lại được nền độc lập khoảng trên dưới 25 năm sau đó, khoảng thời gian hợp lư theo chàng để mọi sự chín muồi cho lư tưởng, cho hoài băo thanh niên, khát vọng đồng bào. Sau khi trở về nước, Trần Văn Thạch và nhiều nhà cách mạng Việt Nam khác đă dùng lư luận và báo chí cũng như nương vào luật pháp ban hành bởi chính phủ thuộc địa để đấu tranh giành độc lập. Ước vọng đất nước có độc lập bằng tranh đấu bất bạo động quả thật độc đáo v́ nó được h́nh thành trong một thế giới đầy bạo động, tàn ác.

- Tức là đảng của anh không nhận lệnh từ đâu hết?

- Không nhận bất cứ từ đâu, không nhận từ Mạc tư Khoa hay từ Quảng Đông. Chúng tôi sợ nhất là người Tàu.

Đọc lịch sử riêng lẻ là một cách nh́n lại lịch sử chung, v́ sự thật và vận mạng riêng lẻ góp phần cho sự thật và vận mệnh chung, huống hồ là lịch sử hoạt động của mộtngười ngoại hạng như Trần Văn Thạch. Khi đọc phần chị Châu kể chuyện gặp Trần Văn Giàu, tôi xúc động bàng hoàng trước sự trầm tĩnh của chị và lập tức nhớ lại cuộc gặp gỡ giữa ông Giàu và cha chị hơn 60 năm về trước. Một bàn tay vỗ trên báng súng và ngón tay chĩa vào trán sỉa sói, hăm dọa, và lời lẽ không phải để dẫn giải bày tỏ mà là để đe dọa và át tiếng. Hai cử chỉ một con người bên thắng cuộc với khoảng cách thời gian thật dài và với hai thế hệ thua cuộc, nhỏ bé, bất động, trên tay chỉ có ng̣i bút và tâm trí sáng ngời. Cuộc song hành lửa bạo lực và nước kiên nhẫn vẫn c̣n đang tiếp diễn, trong bối cảnh khác Tôi thấy chị đầy vị tha và tự tin. Tôi chắc chắn thái độ ông Giàu đă nhắc chị nhớ đến khung cảnh dầu sôi lửa bỏng của những ngày cuối tháng 8 năm 1945. Thật vậy, trong phần viết về tâm trạng khi t́m ra bức ảnh của cha vào một ngày hè tại Aix-en-Provence và nét tả thanh niên Trần Văn Giàu trong quyển sách của P. Franchini, tôi nh́n thấy nơi sự im lặng của chị, đường hoàng và ngay thẳng, luồng ánh sáng soi rơ cuộc chém giết thuở xưa. Như một bằng chứng cuối cùng, quư giá do chính Trần Văn Giàu mang lại. Th́ c̣n cần nói ǵ thêm hơn nữa, ngoài món quà từ tạ trao tay, coi như oán thù đă cởi bỏ, chỉ c̣n ḷng trắc ẩn trước một sự thật rạng rỡ. Vị anh hùng tài ba ấy th́ ra cũng chỉ là một cục đá, một con dao. Thiếu một tâm hồn, một trái tim. Lửa bạo lực chỉ gây chết chóc, tàn phá và sợ hăi c̣n nước tĩnh lặng rạch ṛi, kiên nhẫn nhắc nhở để nhớ lại nhưng khoan dung và nuôi nấng. Tôi vừa thán phục vừa xúc động, tôi tin chắc chắn rằng từ nay với những bằng chứng lịch sử đem lại như quyển sách này, viết bằng nghị lực và trái tim rướm máu, nhưng rơ ràng chính xác, công phu và có phương pháp, khoa học, chẳng c̣n ai cần đến thứ lửa hung bạo v́ nó đă đốt cháy quê hương tôi quá nhiều, quá lâu. Tôi tin chắc rằng ḷng kiên nhẫn, t́nh thương, nghị lực sẽ sáng soi đất nước, thuyết phục và kết nối ḷng người. Cho nên đây không chỉ là công tŕnh nhiều giá trị do Trần Thị Châu thực hiện làm quà tặng dâng cho mẹ và người thân trong gia đ́nh. Quyển sách này c̣n là bản cáo trạng và chứng cớ xác thực bác bỏ lời vu khống của kẻ sát nhân giấu mặt. Quyển sách này tự nó cũng là một đàn tràng giải oan cho cả một thế hệ. Sẽ c̣n có nhiều đàn tràng khác tiếp nối. Giải oan để biết yêu thương kính trọng những tấm ḷng đẹp đẽ cao quư Quyển sách này sẽ c̣n là nén hương cho tất cả những người đă âm thầm hy sinh cho đất nước Việt Nam, và là gia tài gửi lại cho thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của Việt Nam. Các thế hệ đấu tranh bất bạo động ngày nay sẽ hănh diện khám phá rằng 70 năm về trước, một người trí thức, v́ yêu đất nước và đồng bào, như họ bây giờ, và như tiên tổ xưa kia, đă dám đối đầu với cường bạo hung tàn nhiều khi chỉ với trái tim, trí tuệ và ng̣i bút. Một trong những cách để hănh diện với tiền nhân có lẽ là luôn nhớ công ơn họ và không ngần ngại nối gót họ trong hành động và cách sống sao cho đất nước vẹn toàn và đời sống đồng bào được tốt đẹp.

 

 

                                                                  

1 Irène Némirovsky ( 1903-1942 ): Nhà văn Pháp gốc Do Thái sinh tại Kiev (Nga), cha mẹ di cư sang Pháp khi bà 16 tuổi. Bà nổi tiếng từ năm 1929 với tác phẩm David Golder. Vài tác phẩm bà được biên kịch, quay thành phim. Nhưng vào đầu thế chiến khi Đức chiếm Pháp, theo các luật lệ bài Do Thái, bà bị cấm viết; chỉ một vài quyển sách của bà được in dưới tên giả. Chồng bà không được phép làm việc. Bà tiếp tục viết đến năm 1942 th́ cảnh sát Pháp bắt bà đưa vào trại tập trung, chỉ một tháng sau bà bị giết tại Auschwitz, vào tháng 8 năm đó. Vài tháng sau nữa đến lượt chồng bà Michel Epstein cũng bị bắt và chết trong trại tập trung. Hai đứa con gái nhỏ Denise và Elisabeth, được bà vú che giấu, nhưng cũng phải trốn tránh nhiều lần. Denise, 13 tuổi, lúc nào cũng không rời quyển tập mẹ viết trong những ngày tháng sau cùng sống bên các con. Đó là di cảo của mẹ, Denise giấu trong một cái gối. Năm 1945, Pháp giành lại độc lập, hai cô bé mỗi ngày ra nhà ga vô vọng chờ đón cha mẹ trong những lớp người sống sót trở về từ các trại tập trung.

 

2 Un rêve singulier, báo JEA, số 8, ngày 15-12-1927.

 

3 Trái lại, sứ mạng đi giáo hoá thuộc địa , truyền bá văn minh Pháp được đề cao đến cực điểm, Trần văn hạch có nói đến việc này trong một bài viết khác. Các ngoại lệ hiếm hoi (làm tiền đề cho phong trào chống huộc địa sau đệ nhị thế chiến ) là Segalen, Paul Vigné d'Octon: vừa là bác sĩ, vừa làm chính trị, Paul d'Octon trong nhóm tả khuynh v́ tiếp xúc trực tiếp với dân thuộc địa cũng như với thành phần mẫu quốc tại thuộc địa, nhà văn này bất b́nh trước những bất công và đối xử dă man dân bị trị, lên tiếng bằng các tác phẩm văn chương: Paul d'Octon viết hơn 20 quyển sách, tên ông được đặt cho một giải thưởng văn học về đề tài xă hội đặc biệt dành cho giới y sĩ.

 

4 Congo từ cuối thế kỷ 19 và Tchad năm 1900 đều bị Pháp bảo hộ và trở thành thuộc địa hai mươi năm sau đó.

 

5 Đọc trọn tập sách này, chúng ta thấy trong nhiều bài viết Trần Văn Thạch có nhiều nhận xét chính xác

về việc xảy ra trong tương lai.