PHONG
TRẦN
CA
Thơ Phù Du
1972 – 1988
53 bài
lập ngôn
ngửa mặt ngó tinh hà đảo đảo
nghiêng đầu xem nhật nguyệt điên điên
khôn chi mà vịn cửa thiền
dại chi mà gánh ưu phiền bán rong
đi về phố thị xa gần
hỏi xem ta thật có cần lập ngôn?
1979
xưng danh
ối Phù Du Lão Hiền
chẳng ghiền cũng chẳng thiền
bốn mắt thâu trời đất
ngang dọc cõi hạo nhiên.
1982
phù du ngũ trảo
vói níu u minh chơi với quỷ
thả tung chơn diệu ngủ cùng sư
bàn tay ngũ trảo ngất ngư
bám bờ bíu vực phù du đâu là?
1982
tán
cơm trưa lưng bụng trống
cháo tối lỏng ruột mềm
xác khô, hồn cũng động
mộng mị suốt mùa điên
rau thơm say dạ đói
muối mặn rát lưỡi trầy
đêm nằm trơ mới hỏi:
“diệu lý lão hồ lai?”
1975
thán
trưa cơm và sét chén
tối cháo húp vừa tô
chiêm bao mà xiểng liểng
ngấp nghé cửa nhà mồ
rau xanh hương phù ảo
muối mặn vị vô thường
sinh ra là trót mộng
hà vấn thập ma phương?
1975
ảo tiếu mộng trung ca
đêm qua sờ túi thấy tiền
hỏi ra mới biết Lão Hiền nằm mơ
sáng nay nổi hứng làm thơ
tưởng rằng thi sĩ ai ngờ thi ăn
ngán ơi, cái gã phong trần
mặt còn non choẹt mà lòng hom hem.
1977
lão phu tả oán
miếng cơm mưu sống hỗn độn trí văn nhân
đồng bạc kiếm ăn hồ đồ tâm thi sĩ
thiên thần, địa quỷ
đánh đĩ cái lòng
những phù du với lại những phiêu bồng
hốt một nắm phong trần ném vụt!
1978
lão phu ngâm
ngâm rằng hồ thỉ nam nhi hử?
suốt tháng quanh năm đụt mái nhà
ngâm rằng tứ hải vi gia
lão đo cái phản cũng đà mỏi lưng
rằng hào kiệt hung trung binh giáp
bụng lão phu một khạp chữ cuồng
ngâm rằng thiên hạ vô nhơn
anh hùng biết được anh hùng khó thay!
1978
lội nước đường xa
(lụt ở Diên Khánh)
tôi đi lội nước đường xa
sau lưng trước mặt giang hà chảy xô
trời chen nước
đất chung bờ
sóng đùn gió tấp
mịt mờ non sông.
1980
Phú:
Vịnh cảnh nghèo ở số nhà 69 Nguyễn Thái Học,
Nha Trang, Khánh Hoà, Việt Nam.
Thời khốn khó, bất luận trưa hay tối, cha con người một chén, hân hoan đớp, cơm tiêu chuẩn lấm tấm ít cọng hành;
Buổi ngặt nghèo, chẳng quản nắng hoặc mưa, huynh đệ đứa vài xu, hỉ hả cười, chè quốc doanh lèo tèo ba hạt đậu.
Chính phủ nhìn xem thử!
Nhà nước ngó mà coi!
Cơm độn khoai, ăn vẫn cứ là ngon, rảy mắm muối, ớt, hành, chanh đủ vị;
Áo đệm vải, bận tuồng như cũng ngộ, chêm hoa hoè xanh, đỏ, lục lắm màu.
Nghĩ phận mình mà ngán nỗi đâu đâu!
Cũng có lúc ngó cao xanh han hỏi.
Này, sự nghèo đèo sự dại, lẽ nào nghèo vẫn nghèo hoài?
Nọ, cái khó bó cái khôn, dễ đâu khó mà khó mãi?
Hồng nhan phận, nam nhi trái
Cái đồng tiền nó nặng ngãi nặng tình
Gẫm sự đời, tớ cũng muốn quên
Nhưng mà tiên sư nó, quên nào có được?
Nhà ba thước, mái tôn hừng hực, nước một lu uống mãi không chừa;
Bụng năm gang, cửa miệng thòm thèm, cơm nửa bát ăn hoài chẳng ngán!
Cái số nghèo cũng là có hạn
Chán chi chi mà ngán nỗi chi chi?
Túi trống trơn, bụng cũng phải có gì
Đâu có lẽ nghèo trơ trống trốc?
Ừ, nhà tớ
Chứa nơi đâu cho hết, văn chương đầy bụng á u âu;
Đựng chỗ nào cho xong, âm nhạc tràn lòng, te tí toét.
Tiền dẫu hết, thói phong lưu nào có hết?
Rượu mùa đông, chắt xuống lửng lừng chai, nhai đậu phụng, nhắm hành tây, rỉ rả càn khôn tuý luý;
Trà mùa hạ, đun lên ăm ắp ấm, rít thuốc lào, ăn bánh thuẩn, nhâm nhi thiên địa tào lao.
Gái công nương, chạy đàng đông, đáo đàng tây, tung tăng bước hàng xén chợ trời, đong đưa giỏ, quyết đòi cho ra gạo;
Trai hoàng tộc, ngồi đo bàn, nằm đo phản, gật gù đầu, câu thơ tiếng hát, ấm ớ tài, chẳng tậu được ra cơm.
Gạo mua kí, cá mua con, vậy mà bon bon khắp chợ, ra cái điều tiểu thư bạc dắt vàng đeo;
Áo lủng lưng, quần lủng đáy, cũng đành phây phẩy cùng đường, làm như thể quân tử môi son mặt trắng.
Lấy làm thương? Khó mà thương!
Trơ trọi cái từ đường
Không một đồng lương
Thấy người ta bảnh choẹ tư lương, mặc kệ, mình phận tàn quân, thôi cũng được!
Xem thiên hạ gồ ghề công xá, đếch cần, tớ thân thất nghiệp, thế mà xong!
Quân tử thẹn thùng phơi bụng ốm, chí nam nhi lơ lửng mấy tầng mây;
Thuyền quyên e lệ giấu tay chai, hồn thục nữ đầm đìa bao lớp lệ.
Ôi thôi kể lể !
Ơi hỡi thở than!
Thời đã thế thôi chớ màng thế thái
Nhớ lấy câu “bất cập nhân tình”
Mặc cho người phú quý với phù vinh
Thà cứ giữ lấy lòng trinh bạch
Mang trên lưng, ờ, một chữ nghèo
Nghèo
Nghèo
Nghèo
Chết vẫn còn đeo!
1978
rền chuyển
sáng trăng con mắt quay mòng
đầu người lố nhố lên đồng canh khuya
sương rơi giọt nặng hồn mê
khói mù lòng đất bay về như mây
đạn rền chuyển trái trăng đầy
đêm tàn ta úp mặt ngày man di.
1971
(quân trường Phù Cát, đêm pháo kích)
ghé Bồng Sơn
ghé Bồng Sơn ngó cửa nhà
chó rong sủa mặt trời già cỗi xưa
hai bên phố thị lưa thưa
vách xiêu quán đổ, cây dừa lẻ loi.
1972
hành quân trong rừng Đá Hang
lên non sầu cuồn cuộn
mây khói phủ dặm đường
dốc phơi thân đá dựng
đầu non thác chảy tuôn
thác cuồng reo kinh dị
đường mòn lá ẩm hơi
tiếng rừng ngân bất tuyệt
xào xạc ý xa đời
truông sâu ghềnh đá nhọn
rêu ướt giày trượt ngang
gió gào trong hốc núi
cao tiếng sầu chon von
bước chân dồn truông quạnh
động rừng chim vụt bay
trông lên vòm lá mịt
ánh lửa hồng ngọn cây
dưới khe suối róc rách
đá ghềnh rêu âm u
sườn non nghiêng dốc chếch
cổ thụ tay nghìn thu
băng ngang ven rừng thưa
gió xa đưa tiếng vượn
đồng khô, cỏ xác xơ
tiếng sầu chon von lượn
trong rừng khơi bếp lửa
khói thoát lên tàng cây
sưởi mặt trời lạnh lẽo
riêng ta ôm một ngày
riêng ta ôm một vài.
1972
nộ khí
mà ngay một lưỡi gươm thiêng
bước lên đầu núi ta liền khua ngang
bầu trời bỗng rách tan hoang
hồn ma rơi xuống sắp hàng mà đi.
1972
đỉnh mộ phần
đầu lâu trộn đất rả chưa?
đem lên đồng ruộng cấy mùa tháng năm
đứng chơi trên đỉnh mộ phần
người ta gieo mạ chỉ ngần ấy thôi.
1972
buồn trông mấy dặm sa trường
(căn cứ Eo Gió, KonTum)
lều tranh hiu hắt mái sương
gió ngoài quan ải dặm trường bôn ba
sơn lâm eo óc tiếng gà
trận tiền lửa bốc khói xa lưng trời
sông cau mặt sóng bời bời
hàng cây trẩy lá xuống ngoài truông mây
ruộng chằm dấu đạn bom cày
đất co mình khói, trời quay hương mù
trăng thiên cổ, trăng sơn khu
có nghe hồn nước khóc từ muôn xưa?
1972
trên cao
trên cao đó xuân sầu con đất chết
đỉnh hồn người gọi những đám mây lên
và tình nhân lốc mù cơn mỏi mệt
hỏi ta rằng máu đã bốc như men?
trên cao đó xuân buồn đôi mắt mẹ
đỉnh non trầm con đứng gọi niềm tin
bắn lên trời những đốm lửa linh thiêng
cầu nguyện những tay người buông vất súng
trên cao đó xuân tàn hương khói lạnh
đỉnh mộ phần quang quác tiếng chim kêu
người nằm sấp ngửi mùi hương đất nóng
nắg chiều đi qua cửa mộ tiêu điều
trên cao đó xuân nồng hương khói độc
những thây người lăn xuống huyệt vô tình
và trên cao nhừng đọt nắng bình minh
ta nhìn thấy xuân hồng tê tái rụng.
1972
phiêu trong chuồng cọp
nghe châu thân lịm rả rời
hào quang rực sáng lên trời lao đao
đất nồng đốt lửa chiêm bao
dài cơn mê tỉnh rối nhầu hư vô
nghe âm ba dậy mù mờ
nắng chưa tắt ngọn đã ngờ xanh khuya.
(phi trường Nha Trang, 8/ 1972)
dạ ảnh
đèn giăng cháy lũng sa mù
trăng tê điếng rụng mấy dư ảnh vàng
gió lùa tiếng núi âm vang
trăng đi để lại vết loang lưng trời.
(trại liên đoàn 250 Địa Phương Quân,
chân đèo Rù Rì, 1972)
cắn niềm ưu tư
lúc về ngang bãi rừng im
con chim giọng nhỏ cắn niềm ưu tư
lòng ta một cõi sương mù
bỗng nhiên sáng động thỉên thu không ngờ.
(mật khu Đồng Bò, 7/ 1972)
nhớ nhà
nhớ giàn bông giấy ra hoa
nhớ sân gạch nhỏ đã già mấy xuân
chớm theo con mộng ngập ngừng
e rằng cửa ngõ quá chừng xa xăm.
(căn cứ An Sơn, 6/ 1973)
thí phát
hôm nay tóc xoã phong trần
tấm thân du mục quay mòng cuộc chơi
hôm nay trả tóc lại đời
đầu không với một nụ cười cũng không.
(cạo đầu lần đầu, 1981)
phiêu bên bàn đèn
nửa chừng trời rớt lênh đênh
đèn chong leo lét, khói lên lù mù
nữ tiên cười óng phù du
cong hơi rướn tận ngàn thu điêu tàn.
1972
(hút thử phiện đen lần đầu)
nắng ảo bên quan tài Bi
sáng lên ngọn nắng hư vô
chm kêu bên dưới lá cờ nhịp bay
ngõ hồn động bóng thiên thai
màu nhân gian đó từ đây phai rồi
trầm hương một chút lìa trời
thoáng nghe nắng ảo nửa đời sắc không.
(khóc Bi, Lê Đình Tân, tức Hội,
tử trận tại Lạc An, Ninh Hoà, 28/ 4/ 1972)
vui cùng cỏ cây
mày về cười cợt nhe răng
thời gian chấp chới, không gian chập chờn
quán xiêu đèn rọi chân dung
ừ ôm mộng huyễn vui cùng cỏ cây.
(khóc Nguyễn Văn Thịnh, tử trận tại
Tam Quan, 28/ 3/ 1973)
trên bờ sông Trường Lạc
ngồi lại bên bờ sông
chiều đi qua đời không
mây ngang trên đầu tối
nhoà bóng trog giòng trong
ngồi lại xem chiều lan
nắng tắt theo chiều dâng
ôi ta bây giờ thôi
ngậm ngùi bao giờ nguôi
ngồi lại bên bờ khô
giòng mơ xa hồn thơ
đời vắng chưa hề thấy
người xót đau tình xưa
ngồi lại bên trời hoang
nươớ chảy phơi âm vang
xa trôi từ vô tận
chiều thấm xua buồn sang
chiều ướt xua buồn qua
bờ sông im màu hoa
lá xuôi cành rũ lặng
đời trống ôm hồn ta
đời vắng như giòng sông
gió rớt qua hồn không
người trót yêu từ xưa
tiếng hát nay thờ ơ.
1976
giọt cà phê
giọt cà phê giọt đầm đìa
đen lên hồn phách đen về tâm tư
đen trong chất đắng sa mù
trái tim man rợ lù đù ré lên.
1981
hút thuốc lào
rít lên một khói ào ào
sơn hà đại địa ngã nhào ra mây
cóng tê hồn thỏm lũng say
nửa chừng thao thức, ô hay phổi mù.
1981
ngày ta trở lại đời
ngày ta trở lại đời
chắc trán ba hằn sâu
vì bao năm ba đã
trắng đêm dài nuôi sầu
ngày ta trở lại đời
chắc mắt me đã nhoà
vì bao năm me đã
khóc thằng con sa cơ
ngày ta trở lại đời
chắc em đã lấy chồng
vì bao năm em đã
nhạt phai nỗi chờ mong
ngày ta trở lại đời
chắc đời xa lạ lắm
ta như kẻ điên khùng
giữa phố cười hư không.
(bài thơ phổ nhạc trong trại giam
Biên Hoà, Đồng Nai, 1986)
cũng đành xa mây
xuân về em cũng về theo
m\ừi năm xưa cũ vẫn nhiều tương tư
tôi đi thả khói sương mù
ôm tình mộng hỏi phù du thuở nào
vóc xưa dáng đã gầy hao
niềm riêng thơ dại còn chào mắt xanh
thoáng nghe trời đất tan tành
nửa đời dã hạc cũng đành xa mây.
(1987, mồng Bảy Tết Quí Hợi,
Phù Dung Ngọc Trinh về thăm lần cuối)
tự trào
tớ cũng như ai cũng tự trào
vàng thau lẫn lộn biết làm sao?
văn chương ăn ớt lời hay hiểm
chữ nghĩa uống trà ý hẳn sâu
bốn mắt mơ màng xem thế sự
tứ chi lỏng khỏng dạo chiêm bao
ngày đêm viết lách chưa nên chuyện
được tiếng cuồng thôi, đủ bạc đầu!
1978
tự vịnh
tớ cũng như ai cũng biết buồn
buồn vì thiên hạ khó ai thương
vạch môi chẳng được lời xu nịnh
cạy miệng không nên tiếng thở than
buổi loạn lang thang ngoài trận địa
thời bình lửng thửng giữa giang san
cũng trà cũng rượu bên lầu mộng
một bóng cô đơn giưã tấn tuồng.
1978
tự tán
tớ kém gì ai cũng biết yêu
yêu vừa ít lại cũng vừa nhiều
vần thơ chưa đủ tình phong vận
khuôn nhạc khó thành ý tịch siêu
cao thấp nước cờ đi vụng kế
đậm mờ nét hoạ vạch sai chiều
rằng yêu từ thuở còn teo bụng
tứ tuyệt đến nay nhét chật niu!
1978
xác hồn đối đáp
Xác: sáng ra ruột thắt gan bào
khó thương cái bụng tào lao xập xình
Hồn: hỏi rằng quân tử dã quên
phong lưu há luỵ đồng tiền phù hoa?
Xác: ấy nhưng mà rất nhưng mà
phong lưu chi đó một nhà thiếu no?
Hồn: rằng quân tử chẳng cầu no
ngày ba bữa vén bụng dò nông sâu
văn chương chữ nghĩa làm đầu
đắm mê vật dục ấy sầu thế nhân
Xác: đáp rằng phú quý vi dâm
nhưng bần cùng há chẳng cần tí xu
ngày hai bữa vén bụng cù
văn chương ráo hoảnh, lù đù trông cơm
trông vào bếp lạnh nồi trơn
giận mình thi phú làm tuồng ích chi?
ví bằng đổi được khoai mì
cái tài thi phú âu thì cũng trao
Hồn: rằng trăm năm có là bao
sông sâu còn lấp, núi cao còn dời
nhỏ nhoi cái phận con người
thăng trầm thế sự ấy lời ghi tâm
Xác: đáp rằng đệ nhất cái bần
bụng đây còn trống, cái lòng cũng trơ
ra vào ngớ ngẩn bơ thờ
nồi khoai chưa chín, hồn thơ đã chìm
biết rằng ảo mộng triền miên
xác thân đói kém nhãn tiền vẫn hơn
biết rằng sóng vỗ mưa dồn
mà sao bụng dạ cũng thèm cái ăn?
ngán ơi, cái kiếp phong trần
ăn không cầu đói, sống không cầu nghèo!
bụng buồn thì dạ cũng reo
năm canh mộng mị eo sèo hạt cơm
ngày thì nịt bụng ra đường
ngẫm xem thiên hạ tầm ruồng phởn phơ
đêm thì mở bụng nằm co
rằng no thì thật là no nước rồi
nằm nghe nó khóc ỉ ôi
bụng sôi mà mắt cũg sôi mới kỳ
cái nghèo nào có ra chi?
một nồi cháo lỏng, một bì văn chương
văn chương nấu chẳng ra cơm!
Hồn: than rằng tài tử đa cùng đó thôi
miếng cơm chẳng tạu con người
cái nghèo chẳng trói được đời tài hoa
Xác: ấy nhưng mà rất nhưng mà. . .
1978
sinh nhật cảm tác
sáng cơm, trưa cơm, chiều mì xào
phong phú phì nhiêu quái lạ sao!?
trà thơm kẹo ngọt phương phi thật!
lạc thú trần gian, co lẽ nào?
sinh nhật 16/ 1/ 1980
nợ phong trần
cái nợ phong trần nghĩ cũng hay
oan khiên nghiệp dĩ bám theo hoài
túi thơ thao thức hồn sinh tử
gối mộng mơ màng trí tỉnh say
thiệt phận hàn gia nên chẳng được
được thân thi sĩ đắng thêm cay
thôi thôi xin cúng ông trời nhé
hăm chín năm rồi tớ đã ngây!
1980
thơ chúc tết Canh Thân
mưỡu: năm hết Tết đến có lời chúc
giàu sang có thời, nghèo có lúc
khi đói khi no chẳng nên buồn
lúc thiếu lúc dư đừng có bực
phải biết cùng thông nghĩa thái lai
mới hay tắc biến câu bỉ cực
thời hên đít cũng đỏ như son
vận rủi đầu thường đen như mực
âm thịnh dương suy ấy lẽ thường
sinh kí tử qui là lẽ thật
phù hoa phú quý tựa mây bay
phiêu bạt cơ hàn như gió quất
nâng chén đầu năm chúc sự đời
chúc khắp đất trời vun một cục!
Rằng: năm mới hanh thông vàng cháy nhà
tân xuân thịnh vượng bạc vách nứt
tình duyên khấm khá năm bảu nường
danh vọng tràn trề ba bốn bậc
bạc đùng xuống chiếu hớn hở lùa
cờ lọt vào tay hùng hổ phất
lỡ ra có giấy âm phủ đòi
cũng xuống đó làm ông phủ nhất!
1980
thơ tết chán
tết nhất làm chi chán mớ đời
không trà không mứt cũng không xôi
đì đùng bánh pháo ngoài ngõ họ
lách tách hạt dưa ở miệng người
bếp lạnh tro tàn mong tí lửa
nồi không đĩa trống nhớ bao mùi
cơ hàn cái số thêm năm thọ
khốn khổ bao năm cũng thấy vui!
tết nhất làm chi chán bỏ sừ
không quần không áo cũng không xu
cái quần bảnh choẹ ba năm lẻ
chiếc áo mới toanh bốn tuổi dư
đón tết không tiền không phải dại
mừng xuân vô sản chẳng thèm ngu
lò dò ra ngõ mà xem tết
ngứa miệng chĩn e lại ở tù!
tết nhất làm chi nghĩ cũng kỳ
có tình có tính lại không tì
lầu thơ tôn nữ ngồi mơ mộng
gác nhạc hoàng thân đứng nội suy
áo Mỹ quần Tây thây kệ họ
rượu nồng thịt béo mặc cha mi!
mừng xuân CANH cánh THÂN và thế
chữ mệnh chữ tài chữ bất tri !
1980
lão Hiền chăn gà
(ba tháng chăn gà ở trại gà Suối Hiệp, 1980)
1. túng phải lên đây hốt của này
nề hà gì chuyện cứt đầy tay?
cục ta cục tác om sòm mụ
thập thọt thập thò láo liến thầy
Hàn Tín lòn trôn thây xác tớ
Tử Tư bán dép liệu hồn bay!
chăn người thì dễ, chăn gà khó
khó bó khôn liền, túng hoá ngây!
2. ngây phải đem thân ở đợ người
sớm thưa tối bẩm chẳng hề ngơi
chổi đùa soành soạch văng tung cứt
tay móc loi ngoi bỏ mẹ dòi
ngày cứ phơi lưng cho nắng rót
đêm thì phểnh bụng mặc trăng soi
người khôn mình dại nên đành chịu
nhất định kiếp sau phải mọc đuôi!
1980
chào từ giã đàn gà trắng
thôi chào mấy đứa lão tao về
ráng ở mà vui với lão Phê
bốn tháng cưu mang tình cũng nặng
ba tuần dâu biển thấy mà ghê
thương bay nuôi nấng công nào quản
ghét tớ nảy sinh chuyện chẳng dè
oan khuất không nên lời biện bác
trường đời thêm được tiếng: nuôi kê!
1981
lượm một đồng
thấy tiền rớt giữa đường
buông mũ chụp
đố mày bay thoát khỏi Ngũ Hành Sơn?!
uống rượu làm thơ tết
đôi má mừng xuân náo nức hồng
chếnh choáng ra vào giỡn với xuân
đầu năm say quá xuân e lệ
xuân nấp trong thơ quá nửa dòng.
xuân 1981
uống rượu đạp đất nhà 69
đạp đất nghe
đùng!
con pháo nổ
ối chà!
năm mới mũi nghe thơm!
1981
đêm giao thừa Tân Dậu
rượu vào thần trí bốc men
đêm xuân mới lại tưởng đêm xuân nào
chân đi bước thấp hồn cao
hồn cao lên tận lời chào tân niên
chào tôi năm mới cũng hiền
râu ria du tử một thiên phong trần.
1981
chúc tết lão Hiền
chúc lão năm nay thông sự nghiệp
giang hồ ký sự mặc tình bịp
thơ càng ngày tán càng hung hăng
văn mỗi lúc viết mỗi láo toét
tiền nhét túi trước lọt túi sau
số đen đằng đầu đỏ đằng đít
ăn chay nằm đất đắc dạo tà
liễu ngộ tử sinh ùm tiếng hét!
1981
làng tử cạo đầu
một cơn phát tiết nhu cầu
có xem nhân dạng vào đâu ư mà?
cùng trong một đập sát na
đê đầu rụng tóc hằng hà tóc bay.
1981
khai bút tết con cầy
thêm một tuổi già thêm một xuân
vỗ tay chúc tết cũng tưng bừng
văn chương vô hạn không thành có
tài lợi vô thường có hoá không
trời đất đành hanh cơn cực bỉ
nhân sinh o ép cuộc hanh thông
tết này khai bút coi chừng đắt
mỗi tuổi thêm già thêm mỗi ngông!
1982
Khóc cháu Bùi Minh Thảo Trang
Hồn non trẻ lìa xa đời giả tạm, xót tình cha phẫn uất cuộc phù sinh;
Nắm hình hài về với đất bao dung, đau lòng mẹ đoạn trường cơn tử biệt.
Sống gởi đó, hồn nhiên tuổi ngọc, gót tung tăng ngày tháng vô tư;
Thác về đây, tĩnh lặng đời xanh, thân bé bỏng thiên thu bất diệt.
Dâu biển trần gian lưu dấu tích;
Hoa hương cõi Phật ướp tinh thần.
Từ nay trời đất riêng chung.
(cháu Trang mất ngày 18/ 1/ 1982)
phố tết Nhâm Tuất
cũng ngợm cũng người cũng tết nhất
cũng pháo nổ đoành cũng bánh mứt
cũng cơn rậm rật, cười lăng xăng
hỏi ra mới biết Tết Nhâm Tuất!
cũng rượu thịt say chúng chúc nhau
vàng gom bạc chứa lũ mình giàu
chúng dân đói khổ giang sơn rách
mặc kệ, đỉnh chung ta cứ bâu!
1982
chơi xuân
loạng choạng bước ra. lảo đảo vào
ba hồi kỳ trận tết tào lao
cứ tưởng vui xuân toàn hảo sự
nào biết chơi xuân rặt chuyện phào
bạc đánh thâu canh đen cháy túi
rượu tu cạn cốc đỏ tận đầu
năm nay nhất quyết xơi thịt chó
có làm sao cũng chẳng làm sao!
có làm sao cũng chẳng làm sao
ăn tết loanh quanh một cái rầu
nhà không khách viếng chân buồn cất
túi chẳng tiền thăm miệng ngáp khào
lởm chởm râu ria ngồi tợ phổng
bần thần mặt mũi đứng như chầu
nâm nay nhất quyết tu đạo rượu
có vào đâu cũng chẳng vào đâu!
1982
khi về lại nhớ
(kỉ niệm ba năm lao động ở trại tập trung A. 30, La Hai, Tuy Hoà, 1985 – 1988)
khi về lại nhớ vườn rau
nhớ mùi đất ẩm, nhớ màu cải xanh
nhớ ngày tháng ấy thâm tình
bên tôi sới đất bên anh tưới cà
khi về lại nhớ vườn ta
nhớ rò rau muống, nhớ hoa cải vàng
nhớ mương nước chảy bên đàng
nhớ khu bến tắm, nhớ giàn dưa leo
khi về lại nhớ thật nhiều
nhớ đêm bầu bạn, nhớ chiều liên hoan
nhớ ai, ai nhớ cho chăng?
1988
khóc cha
(kính vọng hương hồn Ba Bửu Đáo Ái Mỹ,
từ trần năm 1987)
Ba ơi Ba!
Giữa đêm tù con kêu lên thảng thốt
Nước mắt con không đủ tưới mồ cha
Nước mắt con khóc muộn một tuần qua
Dưới huyệt lạnh Ba có nghe lời trẻ gọi?
Ba ơi Ba! Sinh ly kia quá vội
Tử biệt này thêm nhức nhối hồn con
Ba ngủ đi khi trời đất vào xuân
Chưa kịp thấy con về ngày mãn án
Dẫu biết kiếp nhân sinh là hữu hạn
Vết đâm này vẫn xé nát lòng con
Áo của Ba con dành để đầu giường
Đêm đêm ngủ còn nghe mùi Ba phảng phất
nhớ lời thơ Me,
Ba, vầng dương đã tắt
Chốn lao tù thêm tối bóng mù sa
Con gượng đau ngồi lại giữa ta bà
Nỗi mất mát ngoài sức con cảm nhận
Trái tim con mất một niềm vui sống
Già nua thêm và cằn cỗi thêm lên
Ba ơi Ba! Con đã mất hẳn bóng hình
Người từ phụ với nụ cười dịu ngọt
Không bao giờ con được nhìn thấy mặt
Người cha yêu với ánh mắt khoan dung
“Nhìn thấy cha là ánh sáng tưng bừng”(thơ Me)
Vâng, Ba mất là con đã mất đi nguồn sáng
Con ngồi lặng giữa ngục tù ảm đạm
Nỗi thê lương trĩu nặng cả hình hài
Nén hương lòng con thắp gởi mây bay
Về vô tận khấn hồn Ba cảm ứng
Con bất hiếu chưa đền ơn sinh dưỡng
Ba đã xuôi tay rời khỏi trần gian
Măng mọc chưa cao mà tre đã vội tàn
Đời khốn quẩn giam vòng tay con báo hiếu
Bạn bè con thay con về ai điếu
Con vô tri tay cuốc sới vườn rau
Đoạn trường kia con đang bước qua cầu
Đau cắt ruột mà không gì băng bó
Phút lâm chung, trời ơi, Ba có nhớ
Hai đứa con, mỗi đứa một phương tù
(Vĩnh Hiền, Vĩnh Hảo)
Khi Ba về tịch lặng với thiên thu
Con đang thức giữa bóng đêm mù lặng
Con đang đếm từng ngày trôi cô quạnh
Mà không hay mình đã mất cha rồi
(Bóng câu vèo qua cánh cửa đời
Hay dài quá một đời người khổ luỵ?)
Con gắng sức không cho mình ngã quỵ
Mà vẫn nghe máu ứa tự trong lòng
Giọng cười ai đang nhảy giữa hư không
Hay vọng giữa hồn con đang chết điếng?
Ba đã chết hay chỉ là mộng huyễn?
Con cầu cho mình sống giữa chiêm bao
Vĩnh biệt, Ba ơi, có lẽ nào?
Ngày con về, bàn thờ, nơi hội ngộ?!
Con thà lãnh một án tù cấm cố
Còn hơn chung thân không thấy mặt cha hiền
Phút xé lòng con muốn nổi cơn điên
Để quên mất rằng Ba đã chết
Con muốn nghiệm lẽ sinh thành hoại diệt
Để quên đi nỗi trống vắng kinh hoàng
Nhưng trời ơi, mộng dữ chẳng hề tan
Con bạc phước chốn giam cầm thúc thủ
Đám tang Ba, anh chị em con về đủ
Con đành chôn Ba trong cùng tận trái tim
Thơ khóc cha, con gói trọn nỗi niềm
Mắt mờ lệ trên từng trang chữ viết
Ôi, giữa lúc con sức cùng lực kiệt
Lại nhận hung tin Ba đã lìa trần
Trăm dặm đường không đủ cách ngăn
Mà bản án ngăn con về thăm mộ
Nỗi thương tâm biết tìm ai bộc lộ?
Đành trút lòng con ra giữa những vần thơ
Không ai đón trước được sự bất ngờ
Sao con tiên cảm được vầng dương sắp tắt?
Niềm đau khổ nghe như huyền hoặc
Mồ côi cha, ba tiếng phũ phàng chưa!?
Con bây giờ như kẻ sống trong mơ
Không hiểu nổi mối kinh hoàng thực tại
Hút điếu thuốc rê mà lòng nghe tê tái
Nhớ hình ảnh Ba đứng tựa cửa khoanh tay
Phà khói thuốc trong nắng ấm ban mai
Và bâng quơ mỉm cười nhìn mây trắng
Nhớ trong bếp Ba thường ngồi mỗi sáng
Lui cui khơi từng đốm lửa rực hồng
Lửa cháy phía ngoài lò mà Ba tỉnh như không
Nhớ Ba rót trà lâm râm dâng Nội
Mấy em con giờ đang dâng trà sáng tối
Dâng lên bàn thờ Ba cùng mấy nén hương
Ôi biết bao giờ con trở lại từ đường
Rót cúng Ba một tách trà bi khốc?
Túi thuốc rê của Ba là di vật
Con sẽ đem theo bên cuộc đời con
Ba ơi Ba, nghĩa nặng như non
Tình phụ tử từ nay đành đứt đoạn
Cánh hạc cao bay, tà dương khuất bóng
Dặm đường trần giờ chỉ một mình Me
47 năm nặng tình nghĩa phu thê
Lẽ tan hợp, hợp tan Me cũng hiểu
Tầng gác vắng ba hồi chuông quán chiếu
Khói hương trầm lãng đãng tiễn hồn Ba
Ba ơi Ba, kẻ hành lữ chốn giang hà
Về chốn ấy mà cười vui mây trắng.
(đầu năm 1988, trại cải tạo A. 30, Tuy Hoà)
Thơ Phù Du
1/- lục bát phù du. 1982
2/- bước nhảy chập chùng. 1982
3/- phù du ca. 1970 – 1982
4/- phong trần ca. 1972 – 1988
5/- cát đá phù du. 1971 – 1991
6/- giòng xanh lục bát. 1988
7/- trời xanh đất lục. 1992
8/- trăng ngàn dặm lữ. 1994
9/- thơ mộng nẻo về. 1990 – 1994
10/- sương khói phù du. 1991 – 1997
11/- giọng cười bát ngát. 1994 – 2000
12/- say lòng – thơ Đường luật. 1993 – 1999
13/- giọt tuệ. 2005 – 2011
14/- hòa. 2011 = 2013