PHONG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHONG

TRẦN

CA

 

 

 

 

 

          Thơ Phù Du

                      1972 – 1988

                           53 bài

 

 

 

 

 

lập ngôn

 

ngửa mặt ngó tinh hà đảo đảo

nghiêng đầu xem nhật nguyệt điên điên

khôn chi mà vịn cửa thiền

dại chi mà gánh ưu phiền bán rong

đi về phố thị xa gần

hỏi xem ta thật có cần lập ngôn?

                                                      1979

 

 

 

 

 

xưng danh

 

ối Phù Du Lão Hiền

chẳng ghiền cũng chẳng thiền

bốn mắt thâu trời đất

ngang dọc cõi hạo nhiên.

                                          1982

 

 

 

 

 

phù du ngũ trảo

 

vói níu u minh chơi với quỷ

thả tung chơn diệu ngủ cùng sư

bàn tay ngũ trảo ngất ngư

bám bờ bíu vực phù du đâu là?

                                                   1982

                                                        

 

tán

 

cơm trưa lưng bụng trống

cháo tối lỏng ruột mềm

xác khô, hồn cũng động

mộng mị suốt mùa điên

 

rau thơm say dạ đói

muối mặn rát lưỡi trầy

đêm nằm trơ mới hỏi:

“diệu lý lão hồ lai?”

                                   1975

 

 

 

thán

 

trưa cơm và sét chén

tối cháo húp vừa tô

chiêm bao mà xiểng liểng

ngấp nghé cửa nhà mồ

 

rau xanh hương phù ảo

muối mặn vị vô thường

sinh ra là trót mộng

hà vấn thập ma phương?

                                          1975

 

 

 

 

 

 

 

 

ảo tiếu mộng trung ca

 

đêm qua sờ túi thấy tiền

hỏi ra mới biết Lão Hiền nằm mơ

sáng nay nổi hứng làm thơ

tưởng rằng thi sĩ ai ngờ thi ăn

ngán ơi, cái gã phong trần

mặt còn non choẹt mà lòng hom hem.

                                                            1977

 

lão phu tả oán

 

miếng cơm mưu sống hỗn độn trí văn nhân

đồng bạc kiếm ăn hồ đồ tâm thi sĩ

thiên thần, địa quỷ

đánh đĩ cái lòng

những phù du với lại những phiêu bồng

hốt một nắm phong trần ném vụt!

                                                        1978

 

 

 

lão phu ngâm

 

ngâm rằng hồ thỉ nam nhi hử?

suốt tháng quanh năm đụt mái nhà

ngâm rằng tứ hải vi gia

lão đo cái phản cũng đà mỏi lưng

rằng hào kiệt hung trung binh giáp

bụng lão phu một khạp chữ cuồng

ngâm rằng thiên hạ vô nhơn

anh hùng biết được anh hùng khó thay!

                                                                 1978

 

 

lội nước đường xa

                                 (lụt ở Diên Khánh)

tôi đi lội nước đường xa

sau lưng trước mặt giang hà chảy xô

trời chen nước

đất chung bờ

sóng đùn gió tấp

mịt mờ non sông.

                                              1980

 

 

 

 

Phú:

Vịnh cảnh nghèo ở số nhà 69 Nguyễn Thái Học,

          Nha Trang, Khánh Hoà, Việt Nam.

Thời khốn khó, bất luận trưa hay tối, cha con người một chén, hân hoan đớp, cơm tiêu chuẩn lấm tấm ít cọng hành;

Buổi ngặt nghèo, chẳng quản nắng hoặc mưa, huynh đệ đứa vài xu, hỉ hả cười, chè quốc doanh lèo tèo ba hạt đậu.

Chính phủ nhìn xem thử!

Nhà nước ngó mà coi!

Cơm độn khoai, ăn vẫn cứ là ngon, rảy mắm muối, ớt, hành, chanh đủ vị;

Áo đệm vải, bận tuồng như cũng ngộ, chêm hoa hoè xanh, đỏ, lục lắm màu.

Nghĩ phận mình mà ngán nỗi đâu đâu!

Cũng có lúc ngó cao xanh han hỏi.

Này, sự nghèo đèo sự dại, lẽ nào nghèo vẫn nghèo hoài?

Nọ, cái khó bó cái khôn, dễ đâu khó mà khó mãi?

Hồng nhan phận, nam nhi trái

Cái đồng tiền nó nặng ngãi nặng tình

Gẫm sự đời, tớ cũng muốn quên

Nhưng mà tiên sư nó, quên nào có được?

Nhà ba thước, mái tôn hừng hực, nước một lu uống mãi không chừa;

Bụng năm gang, cửa miệng thòm thèm, cơm nửa bát ăn hoài chẳng ngán!

Cái số nghèo cũng là có hạn

Chán chi chi mà ngán nỗi chi chi?

Túi trống trơn, bụng cũng phải có gì

Đâu có lẽ nghèo trơ trống trốc?

Ừ, nhà tớ

Chứa nơi đâu cho hết, văn chương đầy bụng á u âu;

Đựng chỗ nào cho xong, âm nhạc tràn lòng, te tí toét.

Tiền dẫu hết, thói phong lưu nào có hết?

Rượu mùa đông, chắt xuống lửng lừng chai, nhai đậu phụng, nhắm hành tây, rỉ rả càn khôn tuý luý;

Trà mùa hạ, đun lên ăm ắp ấm,  rít thuốc lào, ăn bánh thuẩn, nhâm nhi thiên địa tào lao.

Gái công nương, chạy đàng đông, đáo đàng tây, tung tăng bước hàng xén chợ trời, đong đưa giỏ, quyết đòi cho ra gạo;

Trai hoàng tộc, ngồi đo bàn, nằm đo phản, gật gù đầu, câu thơ tiếng hát, ấm ớ tài, chẳng tậu được ra cơm.

Gạo mua kí, cá mua con, vậy mà bon bon khắp chợ, ra cái điều tiểu thư bạc dắt vàng đeo;

Áo lủng lưng, quần lủng đáy, cũng đành phây phẩy cùng đường, làm như thể quân tử môi son mặt trắng.

Lấy làm thương? Khó mà thương!

Trơ trọi cái từ đường

Không một đồng lương

Thấy người ta bảnh choẹ tư lương, mặc kệ, mình phận tàn quân, thôi cũng được!

Xem thiên hạ gồ ghề công xá, đếch cần, tớ thân thất nghiệp, thế mà xong!

Quân tử thẹn thùng phơi bụng ốm, chí nam nhi lơ lửng mấy tầng mây;

Thuyền quyên e lệ giấu tay chai, hồn thục nữ đầm đìa bao lớp lệ.

Ôi thôi kể lể !

Ơi hỡi thở than!

Thời đã thế thôi chớ màng thế thái

Nhớ lấy câu “bất cập nhân tình”

Mặc cho người phú quý với phù vinh

Thà cứ giữ lấy lòng trinh bạch

Mang trên lưng, ờ, một chữ nghèo

Nghèo

Nghèo

Nghèo

Chết vẫn còn đeo!

                                                          1978

 

 

rền chuyển

 

sáng trăng con mắt quay mòng

đầu người lố nhố lên đồng canh khuya

sương rơi giọt nặng hồn mê

khói mù lòng đất bay về như mây

đạn rền chuyển trái trăng đầy

đêm tàn ta úp mặt ngày man di.

                                                   1971

                (quân trường Phù Cát, đêm pháo kích)

 

 

 

 

ghé Bồng Sơn

 

ghé Bồng Sơn ngó cửa nhà

chó rong sủa mặt trời già cỗi xưa

hai bên phố thị lưa thưa

vách xiêu quán đổ, cây dừa lẻ loi.

                                                       1972

 

 

 

 

hành quân trong rừng Đá Hang

 

lên non sầu cuồn cuộn

mây khói phủ dặm đường

dốc phơi thân đá dựng

đầu non thác chảy tuôn

thác cuồng reo kinh dị

đường mòn lá ẩm hơi

tiếng rừng ngân bất tuyệt

xào xạc ý xa đời

truông sâu ghềnh đá nhọn

rêu ướt giày trượt ngang

gió gào trong hốc núi

cao tiếng sầu chon von

bước chân dồn truông quạnh

động rừng chim vụt bay

trông lên vòm lá mịt

ánh lửa hồng ngọn cây

dưới khe suối róc rách

đá ghềnh rêu âm u

sườn non nghiêng dốc chếch

cổ thụ tay nghìn thu

băng ngang ven rừng thưa

gió xa đưa tiếng vượn

đồng khô, cỏ xác xơ

tiếng sầu chon von lượn

trong rừng khơi bếp lửa

khói thoát lên tàng cây

sưởi mặt trời lạnh lẽo

riêng ta ôm một ngày

riêng ta ôm một vài.

                                   1972

 

 

 

 

nộ khí

 

mà ngay một lưỡi gươm thiêng

bước lên đầu núi ta liền khua ngang

bầu trời bỗng rách tan hoang

hồn ma rơi xuống sắp hàng mà đi.

                                                         1972

 

 

đỉnh mộ phần

 

đầu lâu trộn đất rả chưa?

đem lên đồng ruộng cấy mùa tháng năm

đứng chơi trên đỉnh mộ phần

người ta gieo mạ chỉ ngần ấy thôi.

                                                          1972

 

 

 

 

buồn trông mấy dặm sa trường

                                      (căn cứ Eo Gió, KonTum)

 

lều tranh hiu hắt mái sương

gió ngoài quan ải dặm trường bôn ba

sơn lâm eo óc tiếng gà

trận tiền lửa bốc khói xa lưng trời

sông cau mặt sóng bời bời

hàng cây trẩy lá xuống ngoài truông mây

ruộng chằm dấu đạn bom cày

đất co mình khói, trời quay hương mù

trăng thiên cổ, trăng sơn khu

có nghe hồn nước khóc từ muôn xưa?

                                                               1972

 

 

 

 

 

trên cao

 

trên cao đó xuân sầu con đất chết

đỉnh hồn người gọi những đám mây lên

và tình nhân lốc mù cơn mỏi mệt

hỏi ta rằng máu đã bốc như men?

 

trên cao đó xuân buồn đôi mắt mẹ

đỉnh non trầm con đứng gọi niềm tin

bắn lên trời những đốm lửa linh thiêng

cầu nguyện những tay người buông vất súng

 

trên cao đó xuân tàn hương khói lạnh

đỉnh mộ phần quang quác tiếng chim kêu

người nằm sấp ngửi mùi hương đất nóng

nắg chiều đi qua cửa mộ tiêu điều

 

trên cao đó xuân nồng hương khói độc

những thây người lăn xuống huyệt vô tình

và trên cao nhừng đọt nắng bình minh

ta nhìn thấy xuân hồng tê tái rụng.

                                                             1972

 

 

 

 

 

 

phiêu trong chuồng cọp

 

nghe châu thân lịm rả rời

hào quang rực sáng lên trời lao đao

đất nồng đốt lửa chiêm bao

dài cơn mê tỉnh rối nhầu hư vô

nghe âm ba dậy mù mờ

nắng chưa tắt ngọn đã ngờ xanh khuya.

                        (phi trường Nha Trang, 8/ 1972)

 

 

 

dạ ảnh

 

đèn giăng cháy lũng sa mù

trăng tê điếng rụng mấy dư ảnh vàng

gió lùa tiếng núi âm vang

trăng đi để lại vết loang lưng trời.

          (trại liên đoàn 250 Địa Phương Quân,

                     chân đèo Rù Rì, 1972)

 

 

 

 

 

cắn niềm ưu tư

 

lúc về ngang bãi rừng im

con chim giọng nhỏ cắn niềm ưu tư

lòng ta một cõi sương mù

bỗng nhiên sáng động thỉên thu không ngờ.

                                                      (mật khu Đồng Bò, 7/ 1972)                                                

 

 

 

 

 

nhớ nhà

 

nhớ giàn bông giấy ra hoa

nhớ sân gạch nhỏ đã già mấy xuân

chớm theo con mộng ngập ngừng

e rằng cửa ngõ quá chừng xa xăm.

                             (căn cứ An Sơn, 6/ 1973)                                                  

 

 

 

 

thí phát

 

hôm nay tóc xoã phong trần

tấm thân du mục quay mòng cuộc chơi

hôm nay trả tóc lại đời

đầu không với một nụ cười cũng không.

                                 (cạo đầu lần đầu, 1981)

 

 

 

 

phiêu bên bàn đèn

 

nửa chừng trời rớt lênh đênh

đèn chong leo lét, khói lên lù mù

nữ tiên cười óng phù du

cong hơi rướn tận ngàn thu điêu tàn.

                                                              1972

                                          (hút thử phiện đen lần đầu)

 

 

 

 

nắng ảo bên quan tài Bi

 

sáng lên ngọn nắng hư vô

chm kêu bên dưới lá cờ nhịp bay

ngõ hồn động bóng thiên thai

màu nhân gian đó từ đây phai rồi

trầm hương một chút lìa trời

thoáng nghe nắng ảo nửa đời sắc không.

                           (khóc Bi, Lê Đình Tân, tức Hội,

          tử trận tại Lạc An, Ninh Hoà, 28/ 4/ 1972)

 

 

 

 

vui cùng cỏ cây

 

mày về cười cợt nhe răng

thời gian chấp chới, không gian chập chờn

quán xiêu đèn rọi chân dung

ừ ôm mộng huyễn vui cùng cỏ cây.

                    (khóc Nguyễn Văn Thịnh, tử trận tại

                                          Tam Quan, 28/ 3/ 1973)

 

 

 

 

 

 

trên bờ sông Trường Lạc

 

ngồi lại bên bờ sông

chiều đi qua đời không

mây ngang trên đầu tối

nhoà bóng trog giòng trong

ngồi lại xem chiều lan

nắng tắt theo chiều dâng

ôi ta bây giờ thôi

ngậm ngùi bao giờ nguôi

ngồi lại bên bờ khô

giòng mơ xa hồn thơ

đời vắng chưa hề thấy

người xót đau tình xưa

ngồi lại bên trời hoang

nươớ chảy phơi âm vang

xa trôi từ vô tận

chiều thấm xua buồn sang

chiều ướt xua buồn qua

bờ sông im màu hoa

lá xuôi cành rũ lặng

đời trống ôm hồn ta

đời vắng như giòng sông

gió rớt qua hồn không

người trót yêu từ xưa

tiếng hát nay thờ ơ.

                                  1976

 

 

 

 

 

 

giọt cà phê

 

giọt cà phê giọt đầm đìa

đen lên hồn phách đen về tâm tư

đen trong chất đắng sa mù

trái tim man rợ lù đù ré lên.

                                             1981

 

 

 

 

 

 

hút thuốc lào

 

rít lên một khói ào ào

sơn hà đại địa ngã nhào ra mây

cóng tê hồn thỏm lũng say

nửa chừng thao thức, ô hay phổi mù.

                                                            1981

 

 

 

ngày ta trở lại đời

 

ngày ta trở lại đời

chắc trán ba hằn sâu

vì bao năm ba đã

trắng đêm dài nuôi sầu

ngày ta trở lại đời

chắc mắt me đã nhoà

vì bao năm me đã

khóc thằng con sa cơ

ngày ta trở lại đời

chắc em đã lấy chồng

vì bao năm em đã

nhạt phai nỗi chờ mong

ngày ta trở lại đời

chắc đời xa lạ lắm

ta như kẻ điên khùng

giữa phố cười hư không.

                          (bài thơ phổ nhạc trong trại giam

                                   Biên Hoà, Đồng Nai, 1986)

 

 

 

 

cũng đành xa mây

 

xuân về em cũng về theo

m\ừi năm xưa cũ vẫn nhiều tương tư

tôi đi thả khói sương mù

ôm tình mộng hỏi phù du thuở nào

vóc xưa dáng đã gầy hao

niềm riêng thơ dại còn chào mắt xanh

thoáng nghe trời đất tan tành

nửa đời dã hạc cũng đành xa mây.

                                (1987, mồng Bảy Tết Quí Hợi,

               Phù Dung Ngọc Trinh về thăm lần cuối)

 

 

 

 

 

tự trào

 

tớ cũng như ai cũng tự trào

vàng thau lẫn lộn biết làm sao?

văn chương ăn ớt lời hay hiểm

chữ nghĩa uống trà ý hẳn sâu

bốn mắt mơ màng xem thế sự

tứ chi lỏng khỏng dạo chiêm bao

ngày đêm viết lách chưa nên chuyện

được tiếng cuồng thôi, đủ bạc đầu!

                                                        1978

 

 

 

 

tự vịnh

 

tớ cũng như ai cũng biết buồn

buồn vì thiên hạ khó ai thương

vạch môi chẳng được lời xu nịnh

cạy miệng không nên tiếng thở than

buổi loạn lang thang ngoài trận địa

thời bình lửng thửng giữa giang san

cũng trà cũng rượu bên lầu mộng

một bóng cô đơn giưã tấn tuồng.

                                                    1978

 

 

 

 

tự tán

 

tớ kém gì ai cũng biết yêu

yêu vừa ít lại cũng vừa nhiều

vần thơ chưa đủ tình phong vận

khuôn nhạc khó thành ý tịch siêu

cao thấp nước cờ đi vụng kế

đậm mờ nét hoạ vạch sai chiều

rằng yêu từ thuở còn teo bụng

tứ tuyệt đến nay nhét chật niu!

                                                   1978

 

 

 

 

 

xác hồn đối đáp

 

Xác: sáng ra ruột thắt gan bào

khó thương cái bụng tào lao xập xình

Hồn: hỏi rằng quân tử dã quên

phong lưu há luỵ đồng tiền phù hoa?

Xác: ấy nhưng mà rất nhưng mà

phong lưu chi đó một nhà thiếu no?

Hồn: rằng quân tử chẳng cầu no

ngày ba bữa vén bụng dò nông sâu

văn chương chữ nghĩa làm đầu

đắm mê vật dục ấy sầu thế nhân

Xác: đáp rằng phú quý vi dâm

nhưng bần cùng há chẳng cần tí xu

ngày hai bữa vén bụng cù

văn chương ráo hoảnh, lù đù trông cơm

trông vào bếp lạnh nồi trơn

giận mình thi phú làm tuồng ích chi?

ví bằng đổi được khoai mì

cái tài thi phú âu thì cũng trao

Hồn: rằng trăm năm có là bao

sông sâu còn lấp, núi cao còn dời

nhỏ nhoi cái phận con người

thăng trầm thế sự ấy lời ghi tâm

Xác: đáp rằng đệ nhất cái bần

bụng đây còn trống, cái lòng cũng trơ

ra vào ngớ ngẩn bơ thờ

nồi khoai chưa chín, hồn thơ đã chìm

biết rằng ảo mộng triền miên

xác thân đói kém nhãn tiền vẫn hơn

biết rằng sóng vỗ mưa dồn

mà sao bụng dạ cũng thèm cái ăn?

ngán ơi, cái kiếp phong trần

ăn không cầu đói, sống không cầu nghèo!

bụng buồn thì dạ cũng reo

năm canh mộng mị eo sèo hạt cơm

ngày thì nịt bụng ra đường

ngẫm xem thiên hạ tầm ruồng phởn phơ

đêm thì mở bụng nằm co

rằng no thì thật là no nước rồi

nằm nghe nó khóc ỉ ôi

bụng sôi mà mắt cũg sôi mới kỳ

cái nghèo nào có ra chi?

một nồi cháo lỏng, một bì văn chương

văn chương nấu chẳng ra cơm!

Hồn: than rằng tài tử đa cùng đó thôi

miếng cơm chẳng tạu con người

cái nghèo chẳng trói được đời tài hoa

Xác: ấy nhưng mà rất nhưng mà. . .

                                                        1978

 

 

 

sinh nhật cảm tác

 

sáng cơm, trưa cơm, chiều mì xào

phong phú phì nhiêu quái lạ sao!?

trà thơm kẹo ngọt phương phi thật!

lạc thú trần gian, co lẽ nào?

                                              sinh nhật 16/ 1/ 1980

 

 

 

 

nợ phong trần

 

cái nợ phong trần nghĩ cũng hay

oan khiên nghiệp dĩ bám theo hoài

túi thơ thao thức hồn sinh tử

gối mộng mơ màng trí tỉnh say

thiệt phận hàn gia nên chẳng được

được thân thi sĩ đắng thêm cay

thôi thôi xin cúng ông trời nhé

hăm chín năm rồi tớ đã ngây!

                                                 1980

 

 

 

thơ chúc tết Canh Thân

 

mưỡu: năm hết Tết đến có lời chúc

giàu sang có thời, nghèo có lúc

khi đói khi no chẳng nên buồn

lúc thiếu lúc dư đừng có bực

phải biết cùng thông nghĩa thái lai

mới hay tắc biến câu bỉ cực

thời hên đít cũng đỏ như son

vận rủi đầu thường đen như mực

âm thịnh dương suy ấy lẽ thường

sinh kí tử qui là lẽ thật

phù hoa phú quý tựa mây bay

phiêu bạt cơ hàn như gió quất

nâng chén đầu năm chúc sự đời

chúc khắp đất trời vun một cục!

Rằng: năm mới hanh thông vàng cháy nhà

tân xuân thịnh vượng bạc vách nứt

tình duyên khấm khá năm bảu nường

danh vọng tràn trề ba bốn bậc

bạc đùng xuống chiếu hớn hở lùa

cờ lọt vào tay hùng hổ phất

lỡ ra có giấy âm phủ đòi

cũng xuống đó làm ông phủ nhất!

                                                       1980

 

 

 

 

thơ tết chán

 

tết nhất làm chi chán mớ đời

không trà không mứt cũng không xôi

đì đùng bánh pháo ngoài ngõ họ

lách tách hạt dưa ở miệng người

bếp lạnh tro tàn mong tí lửa

nồi không đĩa trống nhớ bao mùi

cơ hàn cái số thêm năm thọ

khốn khổ bao năm cũng thấy vui!

 

tết nhất làm chi chán bỏ sừ

không quần không áo cũng không xu

cái quần bảnh choẹ ba năm lẻ

chiếc áo mới toanh bốn tuổi dư

đón tết không tiền không phải dại

mừng xuân vô sản chẳng thèm ngu

lò dò ra ngõ mà xem tết

ngứa miệng chĩn e lại ở tù!

 

tết nhất làm chi nghĩ cũng kỳ

có tình có tính lại không tì

lầu thơ tôn nữ ngồi mơ mộng

gác nhạc hoàng thân đứng nội suy

áo Mỹ quần Tây thây kệ họ

rượu nồng thịt béo mặc cha mi!

mừng xuân CANH cánh THÂN và thế

chữ mệnh chữ tài chữ bất tri !

                                                   1980

 

 

 

 

lão Hiền chăn gà

            (ba tháng chăn gà ở trại gà Suối Hiệp, 1980)

 

1.     túng phải lên đây hốt của này

nề hà gì chuyện cứt đầy tay?

cục ta cục tác om sòm mụ

thập thọt thập thò láo liến thầy

Hàn Tín lòn trôn thây xác tớ

Tử Tư bán dép liệu hồn bay!

chăn người thì dễ, chăn gà khó

khó bó khôn liền, túng hoá ngây!

 

2.     ngây phải đem thân ở đợ người

sớm thưa tối bẩm chẳng hề ngơi

chổi đùa soành soạch văng tung cứt

tay móc loi ngoi bỏ mẹ dòi

ngày cứ phơi lưng cho nắng rót

đêm thì phểnh bụng mặc trăng soi

người khôn mình dại nên đành chịu

nhất định kiếp sau phải mọc đuôi!

                                                           1980

 

 

chào từ giã đàn gà trắng

 

thôi chào mấy đứa lão tao về

ráng ở mà vui với lão Phê

bốn tháng cưu mang tình cũng nặng

ba tuần dâu biển thấy mà ghê

thương bay nuôi nấng công nào quản

ghét tớ nảy sinh chuyện chẳng dè

oan khuất không nên lời biện bác

trường đời thêm được tiếng: nuôi kê!

                                                            1981

 

 

 

lượm một đồng

 

thấy tiền rớt giữa đường

buông mũ chụp

đố mày bay thoát khỏi Ngũ Hành Sơn?!

 

 

 

 

uống rượu làm thơ tết

 

đôi má mừng xuân náo nức hồng

chếnh choáng ra vào giỡn với xuân

đầu năm say quá xuân e lệ

xuân nấp trong thơ quá nửa dòng.

                                                       xuân 1981

 

 

 

uống rượu đạp đất nhà 69

 

đạp đất nghe

đùng!

con pháo nổ

ối chà!

năm mới mũi nghe thơm!

                                         1981

 

 

 

 

 

 

đêm giao thừa Tân Dậu

 

rượu vào  thần trí bốc men

đêm xuân mới lại tưởng đêm xuân nào

chân đi bước thấp hồn cao

hồn cao lên tận lời chào tân niên

chào tôi năm mới cũng hiền

râu ria du tử một thiên phong trần.

                                                         1981

 

 

 

chúc tết lão Hiền

                                                                          

chúc lão năm nay thông sự nghiệp

giang hồ ký sự mặc tình bịp

thơ càng ngày tán càng hung hăng

văn mỗi lúc viết mỗi láo toét

tiền nhét túi trước lọt túi sau

số đen đằng đầu đỏ đằng đít

ăn chay nằm đất đắc dạo tà

liễu ngộ tử sinh ùm tiếng hét!

                                                  1981

 

 

 

làng tử cạo đầu

 

một cơn phát tiết nhu cầu

có xem nhân dạng vào đâu ư mà?

cùng trong một đập sát na

đê đầu rụng tóc hằng hà tóc bay.

                                                     1981

 

 

 

 

khai bút tết con cầy

 

thêm một tuổi già thêm một xuân

vỗ tay chúc tết cũng tưng bừng

văn chương vô hạn không thành có

tài lợi vô thường có hoá không

trời đất đành hanh cơn cực bỉ

nhân sinh o ép cuộc hanh thông

tết này khai bút coi chừng đắt

mỗi tuổi thêm già thêm mỗi ngông!

                                                         1982

 

 

 

 

 

 

Khóc cháu Bùi Minh Thảo Trang

 

Hồn non trẻ lìa xa đời giả tạm, xót tình cha phẫn uất cuộc phù sinh;

Nắm hình hài về với đất bao dung, đau lòng mẹ đoạn trường cơn tử biệt.

Sống gởi đó, hồn nhiên tuổi ngọc, gót tung tăng ngày tháng vô tư;

Thác về đây, tĩnh lặng đời xanh, thân bé bỏng thiên thu bất diệt.

Dâu biển trần gian lưu dấu tích;

Hoa hương cõi Phật ướp tinh thần.

Từ nay trời đất riêng chung.

                     (cháu Trang mất ngày 18/ 1/ 1982)

 

 

 

 

 

phố tết Nhâm Tuất                                

 

cũng ngợm cũng người cũng tết nhất

cũng pháo nổ đoành cũng bánh mứt

cũng cơn rậm rật, cười lăng xăng

hỏi ra mới biết Tết Nhâm Tuất!

 

cũng rượu thịt say chúng chúc nhau

vàng gom bạc chứa lũ mình giàu

chúng dân đói khổ giang sơn rách

mặc kệ, đỉnh chung ta cứ bâu!

                                                  1982

 

 

 

 

 

 

chơi xuân

 

loạng choạng bước ra. lảo đảo vào

ba hồi kỳ trận tết tào lao

cứ tưởng vui xuân toàn hảo sự

nào biết chơi xuân rặt chuyện phào

bạc đánh thâu canh đen cháy túi

rượu tu cạn cốc đỏ tận đầu

năm nay nhất quyết xơi thịt chó

có làm sao cũng chẳng làm sao!

 

có làm sao cũng chẳng làm sao

ăn tết loanh quanh một cái rầu

nhà không khách viếng chân buồn cất

túi chẳng tiền thăm miệng ngáp khào

 

lởm chởm râu ria ngồi tợ phổng

bần thần mặt mũi đứng như chầu

nâm nay nhất quyết tu đạo rượu

có vào đâu cũng chẳng vào đâu!

                                                      1982

 

 

 

 

 

 

 

khi về lại nhớ

 

(kỉ niệm ba năm lao động ở trại tập trung A. 30, La Hai, Tuy Hoà, 1985 – 1988)

 

khi về lại nhớ vườn rau

nhớ mùi đất ẩm, nhớ màu cải xanh

nhớ ngày tháng ấy thâm tình

bên tôi sới đất bên anh tưới cà

khi về lại nhớ vườn ta

nhớ rò rau muống, nhớ hoa cải vàng

nhớ mương nước chảy bên đàng

nhớ khu bến tắm, nhớ giàn dưa leo

khi về lại nhớ thật nhiều

nhớ đêm bầu bạn, nhớ chiều liên hoan

nhớ ai, ai nhớ cho chăng?

                                              1988

 

 

 

 

 

 

khóc cha

                   (kính vọng hương hồn Ba Bửu Đáo Ái Mỹ,       

                                                             từ trần năm 1987)

 

Ba ơi Ba!

Giữa đêm tù con kêu lên thảng thốt

Nước mắt con không đủ tưới mồ cha

Nước mắt con khóc muộn một tuần qua

Dưới huyệt lạnh Ba có nghe lời trẻ gọi?

Ba ơi Ba! Sinh ly kia quá vội

Tử biệt này thêm nhức nhối hồn con

Ba ngủ đi khi trời đất vào xuân

Chưa kịp thấy con về ngày mãn án

Dẫu biết kiếp nhân sinh là hữu hạn

Vết đâm này vẫn xé nát lòng con

Áo của Ba con dành để đầu giường

Đêm đêm ngủ còn nghe mùi Ba phảng phất

nhớ lời thơ Me,

Ba, vầng dương đã tắt

Chốn lao tù thêm tối bóng mù sa

Con gượng đau ngồi lại giữa ta bà

Nỗi mất mát ngoài sức con cảm nhận

Trái tim con mất một niềm vui sống

Già nua thêm và cằn cỗi thêm lên

Ba ơi Ba! Con đã mất hẳn bóng hình

Người từ phụ với nụ cười dịu ngọt

Không bao giờ con được nhìn thấy mặt

Người cha yêu với ánh mắt khoan dung

“Nhìn thấy cha là ánh sáng tưng bừng”(thơ Me)

Vâng, Ba mất là con đã mất đi nguồn sáng

Con ngồi lặng giữa ngục tù ảm đạm

Nỗi thê lương trĩu nặng cả hình hài

Nén hương lòng con thắp gởi mây bay

Về vô tận khấn hồn Ba cảm ứng

Con bất hiếu chưa đền ơn sinh dưỡng

Ba đã xuôi tay rời khỏi trần gian

Măng mọc chưa cao mà tre đã vội tàn

Đời khốn quẩn giam vòng tay con báo hiếu

Bạn bè con thay con về ai điếu

Con vô tri tay cuốc sới vườn rau

Đoạn trường kia con đang bước qua cầu

Đau cắt ruột mà không gì băng bó

Phút lâm chung, trời ơi, Ba có nhớ

Hai đứa con, mỗi đứa một phương tù

                                 (Vĩnh Hiền, Vĩnh Hảo)

Khi Ba về tịch lặng với thiên thu

Con đang thức giữa bóng đêm mù lặng

Con đang đếm từng ngày trôi cô quạnh

Mà không hay mình đã mất cha rồi

(Bóng câu vèo qua cánh cửa đời

Hay dài quá một đời người khổ luỵ?)

Con gắng sức không cho mình ngã quỵ

Mà vẫn nghe máu ứa tự trong lòng

Giọng cười ai đang nhảy giữa hư không

Hay vọng giữa hồn con đang chết điếng?

Ba đã chết hay chỉ là mộng huyễn?

Con cầu cho mình sống giữa chiêm bao

Vĩnh biệt, Ba ơi, có lẽ nào?

Ngày con về, bàn thờ, nơi hội ngộ?!

Con thà lãnh một án tù cấm cố

Còn hơn chung thân không thấy mặt cha hiền

Phút xé lòng con muốn nổi cơn điên

Để quên mất rằng Ba đã chết

Con muốn nghiệm lẽ sinh thành hoại diệt

Để quên đi nỗi trống vắng kinh hoàng

Nhưng trời ơi, mộng dữ chẳng hề tan

Con bạc phước chốn giam cầm thúc thủ

Đám tang Ba, anh chị em con về đủ

Con đành chôn Ba trong cùng tận trái tim

Thơ khóc cha, con gói trọn nỗi niềm

Mắt mờ lệ trên từng trang chữ viết

Ôi, giữa lúc con sức cùng lực kiệt

Lại nhận hung tin Ba đã lìa trần

Trăm dặm đường không đủ cách ngăn

Mà bản án ngăn con về thăm mộ

Nỗi thương tâm biết tìm ai bộc lộ?

Đành trút lòng con ra giữa những vần thơ

Không ai đón trước được sự bất ngờ

Sao con tiên cảm được vầng dương sắp tắt?

Niềm đau khổ nghe như huyền hoặc

Mồ côi cha, ba tiếng phũ phàng chưa!?

Con bây giờ như kẻ sống trong mơ

Không hiểu nổi mối kinh hoàng thực tại

Hút điếu thuốc rê mà lòng nghe tê tái

Nhớ hình ảnh Ba đứng tựa cửa khoanh tay

Phà khói thuốc trong nắng ấm ban mai

Và bâng quơ mỉm cười nhìn mây trắng

Nhớ trong bếp Ba thường ngồi mỗi sáng

Lui cui khơi từng đốm lửa rực hồng

Lửa cháy phía ngoài lò mà Ba tỉnh như không

Nhớ Ba rót trà lâm râm dâng Nội

Mấy em con giờ đang dâng trà sáng tối

Dâng lên bàn thờ Ba cùng mấy nén hương

Ôi biết bao giờ con trở lại từ đường

Rót cúng Ba một tách trà bi khốc?

Túi thuốc rê của Ba là di vật

Con sẽ đem theo bên cuộc đời con

Ba ơi Ba, nghĩa nặng như non

Tình phụ tử từ nay đành đứt đoạn

Cánh hạc cao bay, tà dương khuất bóng

Dặm đường trần giờ chỉ một mình Me

47 năm nặng tình nghĩa phu thê

Lẽ tan hợp, hợp tan Me cũng hiểu

Tầng gác vắng ba hồi chuông quán chiếu

Khói hương trầm lãng đãng tiễn hồn Ba

Ba ơi Ba, kẻ hành lữ chốn giang hà

Về chốn ấy mà cười vui mây trắng.

                  (đầu năm 1988, trại cải tạo A. 30, Tuy Hoà)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                    Thơ Phù Du

 

1/-  lục bát phù du. 1982

2/-  bước nhảy chập chùng. 1982

3/-  phù du ca. 1970 – 1982

4/-  phong trần ca. 1972 – 1988

5/-  cát đá phù du. 1971 – 1991

6/-  giòng xanh lục bát.  1988

7/-  trời xanh đất lục. 1992

8/-  trăng ngàn dặm lữ.  1994

9/-  thơ mộng nẻo về.  1990 – 1994

10/-  sương khói phù du.  1991 – 1997

11/-  giọng cười bát ngát.  1994 – 2000

12/-  say lòng – thơ Đường luật.  1993 – 1999

13/-  giọt tuệ.  2005 – 2011

14/-  hòa.   2011 = 2013