NguyenXa-CDTH

 

CON ĐƯỜNG

TRIẾT HỌC

Nguyên Sa

Sáng Tạo, số 9, tháng 6 - 1957, tr. 1-6

Nhiều nhà triết học đă nhận thấy «sự suy nghĩ những vấn đề triết lư qua thứ tiếng thông dụng (mẹ đẻ) của mỗi người nhiều khi đem lại cho ta những ư nghĩa sâu sắc không ngờ». Ư nghĩa của danh từ triết lư chẳng hạn đă hiện ra với ta dưới những h́nh thể đặc biệt khi ta trở về nguồn gốc của tiếng nói. Ta thấy rằng danh từ thông dụng triết lư có một nguồn gốc Tây phương. Điều mà ta thường gọi là triết lư của triết gia phương Đông thường gọi là đạo. Đạo như chúng ta đă thấy là một con đường đi. Và chúng ta là những kẻ bộ hành.

 

Nhưng điều làm cho ta ngạc nhiên hơn cả là danh từ, dù mang nguồn gốc Tây phương hay Đông phương, đều chứa đựng ư nghĩa tương đồng. Con đường (đạo) mặc dầu không đ̣i hỏi, tranh chấp hơn kém được thua cũng không một ai có thể khước từ, hủy bỏ, bởi v́ mỗi hành động của ta đều bao hàm một ư nghĩa chọn lựa, một bước tiến trên đường. Danh từ triết lư cũng vạch cho ta ư nghĩa của đường đi đó. Đường của người đi t́m (triết) cái lẽ phải (lư) mà chưa bao giờ đạt tới, bởi v́ nếu đă tới th́ sao lại c̣n t́m?

 

Nhưng con người biết rằng chỉ đạt được chân lư ở đầu đằng kia của cuộc sống vẫn không ngừng t́m kiếm tin tưởng mỗi ngày. Người không thể không t́m kiếm. Chỉ khi ta chết ta mới biết ta là ǵ, ta sẽ đi đâu, nhưng từ hôm nay ta đă phải sống, phải chọn lựa ngày mai, phải đi trên con đường (triết học) qua mỗi hành động hàng ngày nên ta vẫn phải t́m kiếm, tin tưởng không ngừng.

 

Nghĩ rằng triết học vốn là một con đường mà mỗi người trong chúng ta lại phải một lần sống trải với những cố gắng cá nhân, ta không tránh khỏi được những t́nh cảm lo âu, ngần ngại. Nhưng những t́nh cảm ám ảnh người bộ hành nhận định về những khó khăn của đường dài không phải là một chướng ngại vật ngăn cản người dấn bước. Biết rằng đường đi khó khăn hiểm trở c̣n hơn là dấn bước đi liều. Biết ḿnh, biết địa thế, hoàn cảnh là dấu hiệu của sáng suốt, tinh tường chứ không phải là e dè, sợ sệt, trốn tránh. Biết rằng đời người không tránh được khổ đau, như: sinh, bệnh. lăo, tử không phải là bi quan, yếm thế mà chính để t́m ra những đầu mối, những căn do nguồn gốc của mọi sự đau khổ ngơ hầu kiếm được phương sách giải thoát khỏi trầm luân. Càng nh́n vào hoàn cảnh, vào thực trạng, vào những khó khăn chướng ngại của đường đi, ta càng lo âu ngần ngại. Nhưng nếu nhắm mắt không nh́n, ta sẽ không biết phải sổng phải chết ra làm sao. Không nh́n nhận mà cứ lấy không làm có, có làm không, v́ những mục đích nhất thời, thực tiễn, ta cũng không thể kéo dài thời gian sinh sống của ta đến thành bất tử, cũng không thể cải tử hoàn sinh, đi ngược thời gian trở về ngày son trẻ, bất chấp đau khổ của đời người. Con đường đi chúng ta không thể không chân thành nhận biết. Nếu v́ những lư do nhất thời, ta phải đề cao một vài phương châm thực tiễn, ta cũng không được nhầm chiến thuật ra chiến lược, phương tiện thành cứu cánh, khẩu hiệu thành chân lư. Lầm lẫn ta sẽ rơi vào t́nh trạng những người phù thủy tưởng ḿnh là thần thánh mà thật ra chỉ là một anh chàng hô hoán âm binh.

 

Bởi vậy, phủ nhận, nhắm mắt trước con đường đi vẫn là chọn lựa. Chọn lựa sống qua ngày đoạn tháng, không cần đo đếm, ư thức, nh́n trước, nh́n sau.

 

Từ chối chọn lựa, ta vẫn chọn một cách vô ư thức, bởi v́ sống đă bao hàm ư nghĩa lựa chọn. Chọn giữa sống và chết, và coi sống có một giá trị ít ra là cao hơn chết, nên mới chưa hủy diệt đời ḿnh.

 

Phải sống trên con đường của đời người. Phải nh́n trước, nh́n sau để đừng gục ngă, nhưng cũng đừng quyết đoán một ḿnh. Nh́n cho rơ những hoàn cảnh bao quanh, những trở ngại bốn bề (sinh, bệnh, lăo, tử) của đời người. Nh́n cho rơ ràng ta chưa có phương sách ǵ để thoát chết - sự sống của ta sớm muộn cũng đưa đến chỗ tận cùng như sông về biển. Và chân lư của sự sống vẫn ở đầu đằng kia sự sống. Phải đến đích ta mới biết được ta là ǵ, và ta sẽ đi đâu?

 

Không phô trương ḿnh nắm được chân lư không hề làm giảm bớt sự tin tưởng vào chân lư của ḿnh. Ta không thể bảo rằng có Trời với t́nh cảm chắc chắn như đọc lên một công lư toán học. Không biến tín ngưỡng thành khoa học không những không làm giảm sút giá trị của tín ngưỡng mà c̣n tăng cường. Khi sự phán xét tương lai đă đến ở cuối cùng của đời người th́ ta sẽ không c̣n hoài nghi. Nhưng sự tin tưởng cũng tan theo, sự chọn lựa, tự do cũng tan theo v́ ta đă chắc chắn rồi. Những phương sách đề nghị giúp ta, đưa ta ra khỏi những hoàn cảnh đau đớn của đời người, thoát qua chết chóc, đều đ̣i hỏi ở ta sự thể hiện, sự đi hết một đoạn đường một cách sáng suốt, tin yêu. Phật Thích Ca đă truyền bảo cho con người phải lần theo con đường dắt díu, khúc mắc của «thập nhị nhân duyên» mà cởi gỡ từng đầu mối thắt buộc trầm luân. Cái chết của chúa Cứu Thế đă soi sáng tỏ con đường trong trẻo nghĩa yêu thương.

 

Nhưng đi hết một con đường thương mến, gỡ cởi được mười hai mối nhân duyên vẫn là con đường đi của mỗi cá nhân. Mỗi người phải tự quyết định, lựa chọn. Mỗi người phải tự vượt qua những chướng ngại, thử thách để trong khi hành động, thể hiện đời ḿnh và sự tin tưởng của ḿnh. Mỗi người sẽ bị day dứt bởi hoài nghi. Bởi lẽ, trong mỗi câu tin đều ẩn một câu ngờ. Nhưng chính nghi ngờ, ngần ngại mới lại càng làm tăng giá trị của những hành động thật dạ thương yêu. Con đường triết học cũng vậy, vẫn là con đường ta đi để đạt tới chân lư ở đầu đằng kia. Đi để chứng minh ư nghĩa của đời sống, thể hiện đời ḿnh, và sự tin tưởng ở chân lư.

 

Chân lư ta không nói lên là năm chắc, bởi v́ đó là một chân lư tin tưởng hơn là phô trương. Cho nên không nói lên là nắm chắc mà ḷng tin tưởng ở chân lư không v́ thế mà suy giảm, tiêu tan.

 

*

 

Lên đường với một sức tin tưởng thành khẩn, với một tinh thần cố gắng nh́n cho rơ trước sau, nên mặc dầu không có một lối cỏ ṃn để lại bởi người xưa, chúng ta cũng không hề bơ vơ lạc lơng. Lịch sử triết học đă có một quá văng chạy dài hai mươi nhăm thế kỷ. Đă từ hơn hai ngàn năm trời, con người biết xếp đặt tư tưỏng của ḿnh cho có mạch lạc, đầu cuối, hệ thống. Nhưng ngoài hai ngh́n năm trời, không làm nên được một bản cửu chương cho ta tụng niệm. Những kinh nghiệm để lại bởi tiền nhân vẫn chỉ là những kinh nghiệm chứ không phải là những bức họa đồ. Kinh nghiệm có ít nhiều nhưng hoàn cảnh liên tiếp đổi thay. Không ai dạy cho ta biết phải ứng dụng thế nào cho phù hợp với hướng chiều của hoàn cảnh, tương xứng với ước muốn, dự thảo tương lai. Con đường đi của mỗi người không thể là con đường có sẵn, bởi v́ mỗi người thường sống trong những điều kiện cá biệt, sinh hoạt riêng tư. Kinh nghiệm của người xưa mới chỉ giúp ta vốn liếng, nhưng để sinh sôi nẩy nở hay kiệt quệ hao ṃn là ở nơi ta. Ta có thể xem lại thuật công phá thành tŕ của Tôn Tử, nhưng chiến thuật cũng phải được bổ khuyết cho hợp với chiến lược ta theo đuổi, và cũng đừng quên khí giới tối tân, địch quân nhiều ít... Aristote, Không Tử đều dạy ta hành động cho hợp lẽ trung dung. Nhưng không phải ăn sáu bát gạo là nhiều, ăn một là ít, th́ ta cứ nhất đán ăn ba. C̣n sức khoẻ của bản thân, bữa chiều hay bữa sáng, cơm rau đậu hay nặng chất thịt thà... Không biết cố gắng t́m lấy đường đi, kịp thời ứng dụng, mà chỉ khư khư tụng niệm kinh nghiệm trong sách vở để lại bởi người xưa, chú trọng về h́nh thức mà lăng bỏ tinh thần, ta sẽ rơi vào t́nh trạng của những người đồng bóng dị đoan.

 

Cũng chính v́ kinh nghiệm của người xưa để lại bao giờ cũng chỉ là kinh nghiệm chứ không phải là họa đồ nên triết lư mới c̣n tồi tại. Nếu chân lư đă được nắm vững, soi tỏ, chứng minh như hai lần hai là bốn, th́ c̣n ai đi t́m (triết) cái lẽ phải (lư) làm ǵ. Và nếu tất cả đều xong xuôi, ta đă biết rơ tất cả cuốn sổ đoạn trường, đời sống bên này và đời sống bên kia, trần thế, thiên đàng, th́ ta cứ việc ngồi đợi «những ǵ phải đến sẽ đến», cần ǵ phải lo âu về trách nhiệm, về chọn lựa, tự do... Nhưng cuộc đời c̣n chăng ư nghĩa cuộc đời?

 

*

 

Có lẽ cũng v́ đă nhận thấy rơ ràng con đường mà mỗi người sẽ phải trải qua không bao giờ được vạch định sẵn sàng, nên các bậc thượng trí, hiền nhân vẫn hằng khuyên nhủ con người trở về với ḷng ḿnh. Người xưa bảo ta phải trở về nguồn. Cái nguồn sâu xa không bao giờ được cô đọng một cách đầy đủ trong kinh thư sách sử. Làm thế nào ta hiểu được kinh thư sách sử, kinh nghiệm của người xưa, nếu không biết âu lo, ứng dụng, quyết định, chọn lựa. Và làm thế nào mà người xưa để lại được những kinh nghiệm giá trị vô vàn, nếu người xưa không biết suy tư sau khi va chạm với vạn vật, muôn loài. Cho nên nguồn gốc sâu xa mà ta luôn luôn phải trở về để lấy ánh sáng soi tỏ đường đi bao giờ cũng ở nội tâm ta, ở ḷng ta, cũng như người xưa đă gặp ở ḷng ḿnh. Cái nguồn gốc sâu xa ấy không ẩn nấp như một thực thể trời sinh linh diệu, vô h́nh, mà chỉ là một ḍng nước trong sáng được vỡ ra từ cuộc va chạm với đời sống mà dấu hiệu là sự bở ngỡ, lạ lùng. Plalon đă nói đến sự «ngạc nhiên» khai nguồn cho mọi sự hiểu biết của con người đó: «Ta ngạc nhiên khi ta thấy mỗi sáng mỗi chiều có mây bay gió thổi nên ta mới t́m hiểu truy tầm những lẽ huyền bí của vũ trụ vô cùng». Aristote cũng ca ngợi sự «ngỡ ngàng tuyệt diệu đă thúc đẩy ta tự hỏi tại sao trăng tṛn rồi trăng lại khuyết, tại sao tinh tú luân lưu và tại sao vũ trụ và đời người phát sinh, hiện hữu». Sự ngạc nhiên mà triết học Á đông cũng đă đúc cốt lên trong những câu chuyện đầy h́nh ảnh nhưng cũng nặng đầy ư nghĩa bao hàm. Như chuyện Phật Thích Ca dạo bốn cửa thành và ngạc nhiên trước những khổ đau của con người ốm đau, già lăo và chết chóc. Sự ngạc nhiên đă thúc đẩy Người đến âu lo rồi khám phá một con đường diệt khổ. Cũng như sự ngạc nhiên đă giúp các nhà triết học phương Tây lên con đường t́m sự thật sáng tỏ. Làm thế nào mà tiến triển, nếu ở nguồn gốc ḷng ḿnh bao giờ cũng lạnh lùng, lănh đạm. Không một luồng ánh sáng nào sẽ lọt vào nếu ḿnh không mở cửa ra. Nên ta ngạc nhiên để mà thu nhận, mà mở rộng ḷng ḿnh, mà hướng về kiến thức mênh mông. Thu nhận để có thể sau đó loại dần những điều sai lầm, giữ lấy những điều chính xác.

 

Thu nhận để rồi lại phải ḍ hỏi, tự vấn, hoài nghi về những điều ta đă tiếp thu để tránh những sai lầm, hư ảo. Đó là con đường đi mà các triết gia Tây phương nghĩ rằng đă đă đặt nên một vài định hướng. Ngạc nhiên để mà t́m hiểu. T́m hiểu nhưng rồi lại hoài nghi về sự hiểu biết của ḿnh, bởi v́ giác quan lừa đảo, mộng thực khôn lường, quan niệm kỵ xung. Sự hoài nghi đó đă đưa Socrate đến sự hiểu biết chính xác hơn người. Đó là biết ḿnh c̣n kém, biết ḿnh chưa biết được bao nhiêu, «chưa biết ǵ cả». Ít ra c̣n biết hơn những người tưởng ḿnh biết mà vẫn chưa biết ǵ, để rơi vào chỗ hai lần ngu độn. Sự hoài nghi đă đưa Descartes đến chỗ khám phá ra mối tương quan giữa tư duy và hiện hữu. Khi hoài nghi về tất cả mọi sự, Descartes đă t́m ra một điều chắc chắn: sự có mặt của hoài nghi. Nên nếu ḷng ḿnh đă lạnh lùng khép kín, không ngạc nhiên, bỡ ngỡ, tự vấn, hoài nghi, th́ không những va chạm không mở được ḷng ta, mà cả sách sử cổ kim cũng chỉ là giấy xếp thành chồng vô dụng.

 

*

 

Con đường triết học mà ta phảí tự vạch định, chọn lựa như vậy bao giờ cũng bắt nguồn ở ḷng ta. Nói khác đi, chính v́ nó bắt nguồn ở ḷng ta, nên không thể nào ta nhắm mắt theo được những con đường vạch sẵn. Và cũng chính v́ thế, ta không thể biến đường lối ta đi thành con đường bắt buộc cho muôn người. Cố gắng đitỉnh táo nhưng cũng đừng quên cởi mở, vị tha. Ta không thể nhất quyết bảo rằng con đường phải đi là tiên nghiệm (a priori) hay hậu nghiệm (a posteriori). Duy lư và duy nghiệm h́nh như đă bị nối liền từ lúc ta ngạc nhiên để bắt đầu tiếp nhận sự vật, bị nối liền như khổ đau và vui sướng của đời người, như ngày và đêm của trái đất. Ta ngạc nhiên trước sự vật, nhưng sự ngạc nhiên sẽ biến thành kinh ngạc nếu không được suy nghĩ, thấu hiểu. Sự hiểu biết cũng sẽ rơi vào chỗ vu vơ nếu không được đem hoài nghi, áp dụng, thử thách. Cũng như lịch sử triết học đă vạch cho ta thấy rằng duy nghiệm cần phải được hiểu thấu, điều động, và duy lư cần phải được áp dụng. Sự xuất híện, thành công của cái này chứng minh sự cần thiết của cái kia. Một chủ nghĩa duy nghiệm không có định luật sáng tỏ, phối hợp, diễn dịch... tất nhiên không thể đem ra suy tưởng và truyền dạy. Ngược lại, một thuyết duy lư không chứng cớ cụ thể, không áp dụng được vào thực tại, cũng khó chinh phục ḷng người.

 

Kinh nghiệm ta thu lượm được trên đường đi cần phải được suy nghĩ, diễn giải, và nó sẽ có giá trị khi đáng được đem làm nền cho lư luận. Cũng vậy, mọi suy luận của ta không thể được đem đặt thành nguyên lư như một sự kiện toàn, mà trái lại phải đem áp dụng, nếu thất bại sẽ sửa đổi dần dà. Lư luận sẽ thâu lượm được giá trị khi được đem dùng làn nền tảng vững chắc cho kinh nghiệm.

 

Như vậy, con đường ta đi sẽ là con đường cởi mở. Lúc nào cũng mở rộng để tiếp nhận nhũng kinh nghiệm tương lai. Và lúc nào cũng cởi mở, để giữa ta và mọi người gây nên một sự thông cảm, bạn bè.                  

 Nguyên Sa

(Trích Triết học nhập môn)