TRIẾT HỌC
CỦA
KANT
(II)
Con người bởi có lư trí nên không chịu dừng bước trước những hiểu biết nửa chừng. Cảm quan được giúp sức bởi những thể tiên nghiệm (formes a priori) và bởi những phạm trù của tri năng (catégories de l'entendement) đă đem lại cho con người những hiểu biết về hiện tượng. Khoa học vốn là một khoa học về hiện tượng nên cũng nhờ thế mà thành công. Nhưng lư trí con người không muốn dừng bước trước những sự hiểu biết về hiện tượng đó. Ta đă biết về cái hiện tượng, cái vẻ ngoài của sự vật đó, nên ta khao khát muốn biết cái bề trong, cái ẩn tượng (noumène) của sự vật ra sao. Thống nhất được toàn thể kiến thức, vén được bức màn che dấu cái tuyệt đối, đó là những nguyện vọng của lư trí. Nhưng những bề trong, những ẩn tượng mà lư trí muốn đạt tới đó là ǵ? Đă nhờ tri năng, cảm quan mà con người biết được tương quan giữa các hiện tượng trong vũ trụ, con người c̣n muốn biết cái lư do sâu xa của vũ trụ, của cơi đời. Biết được cuộc sống là cái vẻ ngoài của con người, ta lại muốn biết về linh hồn, cái lư do sâu xa của cuộc sống đó. Biết rằng mỗi sự kiện đều có một căn do, ta muốn t́m đến cái căn do nguyên thuỷ có khả năng chi phối, phát sinh ra mọi căn do nhỏ bé khác, đó là Thượng đế. T́m hiểu về linh hồn, về vũ trụ, về Thượng đế là những mục tiêu cốt yếu của lư trí.
Nhưng trước những mục tiêu đó, lư trí phải thúc thủ, bó tay bởi v́ không có một phương tiện nào để đạt tới. Triết học cổ điển đă thử thách nhiều lần. Siêu h́nh học đă nhiều lần được dựng lên. Nhưng tất cả đều đưa đến chỗ suy sụp. Tri năng có những nguyên lư giúp ta biết được hiện tượng. Nhưng siêu h́nh học cổ truyền đă lấy những nguyên lư của tri năng làm nguyên lư cho 1ư trí. Siêu h́nh học lư luận về những sự kiện ở ngoài lĩnh vực thấu triệt được bởi cảm quan. Như thế, cũng như tri năng đă lư luận về những hiện tượng, lư luận về những điều vô h́nh bằng cách suy diễn từ chỗ hữu h́nh đến chỗ vô h́nh. Mà thật ra nguyên lư của tri năng không có một giá trị ǵ ngoài thế giới của hiện tượng. V́ thế nên tất cả chỉ là một biện chứng hăo huyền.
*
Trong thế giới hiện tượng chẳng hạn, ta thấy rằng mỗi sự kiện thường có những đặc tính của những hiện tượng đó. Những thuộc tính có thể biến đổi, khác nhau nhưng sự kiện vẫn là một. Lư trí căn cứ vào sự nhận định đó để chứng minh tính chất đơn thuần của linh hồn. Triết học cổ điển chủ trương rằng linh hồn vốn đơn giản, duy nhất, bất khả phân và bất tử. Để chứng minh những đặc tính đó của linh hồn, siêu h́nh học đă căn cứ trên những lư luận lỏng lẻo. Họ lư luận bằng cách: lấy điều ta tưởng rằng thật làm sự thật. Tôi nhận thấy tôi chỉ là tôi mặc dầu quan niệm, tính t́nh tôi có khác đi ít nhiều theo sự biến đổi của thời gian. Tôi thấy rằng tôi chỉ 1à tôi, chỉ là một, vậy tôi vốn có bản chất đơn thuần; cũng vậy, tôi thấy rằng tôi bất khả phân, không thể bị hủy diệt được, vậy tôi kết luận: tôi có một bản chất bất khả phân, bất diệt.
Nhưng siêu h́nh học cổ điển đă sai lầm. Bởi v́ tôi thấy rằng tôi vẫn là tôi qua những biến đổi của thời gian, tôi cũng chưa đủ quyền, đủ lư để kết luận rằng tôi vẫn có một bản chất đơn thuần. Điều tôi nhận thấy, tôi căn cứ vào đâu mà quả quyết rằng đó là chân lư. Tôi chẳng nhận thấy rằng trái đất bất động đó hay sao? Thế sao tôi vẫn không được kết luận rằng trái đất quả nhiên là bất động? V́ vậy, mặc dầu tôi thấy rằng tôi đơn thuần, bất khả phân, bất diệt, tôi cũng không được kết luận rằng tôi quả nhiên là có một bản chất đơn thuần, bất khả phân và bất diệt. Căn cứ vào những tính chất hiện ra ở cái vẻ ngoài để kết luận về bản chất sâu xa là một việc sai lầm:
Suy từ mối tương quan giữa chủ thể và thuộc tính (sujet et les attŕbuts), của những sự kiện thuộc thế giới hiện tượng đến linh hồn, một ẩn tượng, và đặc tính của linh hồn là sự suy diễn sai lầm thứ nhất.
Sự suy diễn sai lầm thứ hai là suy từ nguyên lư nhân quả phổ quát trong thế giới hiện tượng đến bản chất sâu xa của vũ trụ, cơi đời [1]
Sự suy diễn thứ ba liên quan đến vấn đề Thượng đế. Để chứng minh sự hiện hũu của Thượng đế, lư trí thường căn cứ trên ba chứng cớ: vũ trụ chứng (preuve cosmologique), cứu cánh chứng (preuve téléologique) và thực thể chứng (preuve ontologique). Nhưng Kant nhận thấy rằng hai chứng cớ đầu tiên lại được xây dựng dựa trên chứng cớ thứ ba. Nếu thực thể chứng vững vàng th́ cả ba đều đứng vững. Ngược lại, nếu thực thể chứng sai lầm th́ tất cả đều sụp đổ.
Vũ trụ chứng dựa vào thực thể chứng, đó là một điều rơ rệt. Vũ trụ chứng vạch cho ta biết rằng Trời sinh ra vũ trụ, bởi v́ mọi vật hiện hữu đều có một căn do sinh ra nó, vậy căn do của vũ trụ chỉ có thể là Thượng đế. Nhưng Kant hỏi: thí dụ ta tin rằng vũ trụ có một căn do sinh ra nó, ta cũng chưa được kết luận ngay rằng đó là Thượng đế. Bởi v́, như vậy ta đă gián tiếp bảo rằng Thượng đế là một đấng vạn năng có quyền tạo hóa và tự tạo nên tất hữu. Vũ trụ chứng mới vạch ra một điều: vũ trụ có một căn do chứ chưa chứng minh được sự hiện hữu của Thượng đế. Chứng minh được ư kiến Thượng đế có tài tạo hóa và tự tạo nên tất hữu là điều mà thực thể chứng muốn vạch ra. Nên vũ trụ chứng phải tùy thuộc vào chứng cớ sau này vậy.
Cứu cánh chứng cũng rơi vào khuyết điểm đó. Chứng cớ đó cho rằng: một sự kiện được tạo thành v́ một cứu cánh nào đó, tức là phải có một người thợ khôn khéo làm việc tạo thành đó. Và vũ trụ ta thấy rằng như được tạo thành nhằm một cứu cánh nào đó. Vậy tất nhiên phải có một người thợ khéo. Đó là Tạo hóa, Thượng đế. Nhưng nhiều câu hỏi được đặt ra: có thật chắc chắn rằng vũ trụ được tạo thành nhằm một cứu cánh nào đó không? Và nếu có th́ có thật chắc chắn rằng người thợ khéo đó phải là Thượng đế hay không? Và khi ta nói rằng có một người thợ khéo tạo nên vũ trụ để hướng nó về một cứu cánh nào đó, ta đă đưa vào một ư kiến: chỉ có một đấng hoàn toàn mới tổ chức được vũ trụ và tự tạo nên tất hữu. Như vậy, cũng lại căn cứ trên thực thể chứng rồi.
Nhưng giá trị của thực thể chứng rằng sao? Kant trả lời: không có giá trị ǵ cả.
Chứng cớ đó vạch ra rằng: Thượng đế là một đấng vạn năng, hoàn toàn. Mà sự hiện hữu là một điều hoàn hảo. Thượng đế toàn thiện, toàn mỹ, vạn năng, vậy phải có hiện- hữu-tính. Ắt phải có Thượng đế, cũng như những tính chất của tam giác đă nằm trong khái niệm tam giác. Nhưng hiện hữu, Kant bảo rằng không phải là một sự kiện toàn. Một ngườí điêu khắc h́nh dung một bức tượng. H́nh dung từng chi tiết, không thiếu sót một tí ǵ. H́nh dung đó là một h́nh ảnh tuyệt đẹp. Khi bức tượng được tạo thành, nó có đẹp hơn h́nh ảnh bức tượng trong đầu nhà điêu khắc hay không? Tất nhiên là không. Vậy th́ sự hiện hữu của bức tượng làm cho nó hoàn toàn hơn hay kém cũng không sinh ra tính chất hoàn toàn. Cũng vậy, ta không thể bảo rằng Thượng đế hoàn toàn, vậy có Thượng đế v́ hiện hữu là một sự hoàn toàn.
*
Như vậy, siêu h́nh học không thể là một khoa học. Những chủ trương cho rằng ta có thể biết một cách khoa học bản thể sâu xa của con người, bản chất sâu xa của vũ trụ, và chứng minh được về sự hiện hữu của Thượng đế như những chứng minh toán học đều được xây dựng trên ảo tưởng. Ảo tưởng về giá trị của phương pháp và lư luận siêu h́nh. Cái tuyệt đối ở ngoài phạm vi hiểu biết của ta. Những thể tiên nghiệm của cảm quan và những nguyên lư của tri năng giúp ta biết được một cách chắc chắn, khoa học những hiện tượng bởi v́ hiện tượng vốn biết được, có đưa điều kiện để biết được. Nhưng nếu vượt ra ngoài biên giới của hiện tượng, đi sâu vào thế giới của bóng tối của ẩn tượng, những h́nh thể, những nguyên lư đó sẽ hoàn toàn thất bại.
Giải đáp cho câu hỏi đầu tiên «ta biết được ǵ» của Kant thật là rành mạch, rơ ràng. Ta xây dựng được một lâu đài toán học nhờ những phê phán tổng hợp và tiên nghiệm, những thể tiên nghiệm của cảm quan. Ta biết được một khoa vật lư cũng nhờ những thể tiên nghiệm đó và cũng nhờ những nguyên lư của tri năng. Đó là những kiến thức chắc chắn - nh́n vào kết quả ta thấy không thể rơi vào hoài nghi chủ nghĩa được. Nhưng ta cũng không được quên rằng tuyệt đối, ẩn tượng ở ngoài phạm vi hiểu biết của ta. Ta không có đủ lư luận, kinh nghiệm hay một phương tiện nào giúp ta đạt tới cả. Muốn thành thật, ta phải nhận rằng ta chưa biết ǵ cả.
*
Không biết ǵ về những điều tuyệt đối, con người có v́ thế mà trở nên bơ vơ, lạc lơng hay không? Kant trả lời: không. Không biết một cách khoa học những vấn đề siêu h́nh, ta vẫn được quyền tín ngưỡng. Thế giới hiện tượng ta biết được, và ta biết rằng hiện tượng bị chi phối bởi định luật, bởi quy luật chặt chẽ của quy định thuyết (déterminisme). Nhưng, ở thế giới ẩn tượng những định luật đó sẽ vô hiệu. Ta có thể không bị chi phối bởi định luật nào cả. Tự do của ta được bảo vệ tuyệt đối. Không chứng minh một cách khoa học được những vấn đề siêu h́nh, ta có quyền chọn lựa, có quyền tin tưởng. Có những tin tưởng có xây dựng và đáng được truyền giảng hơn những tin tưởng khác. Cũng v́ thế, trong những sách vở về luân lư học và tôn giáo của Kant, nhà triết học Đức đă nói lên tính cách khả kính của những bổn phận đạo đức và sự hiện hữu cần thiết của Trời [2].