NoiChuyenVoiSVCanada

30.3.2006

Bùi Uyên Thúy, Trần Quang Anh, Nguyễn Uyên Minh, Trần Quang Vũ

Tṛ chuyện qua mạng với nhà văn Nam Dao

 

Hỏi: Trước hết, xin nhà văn kể đôi chút về tiểu sử của ḿnh và những tiếp cận đầu tiên với văn chương.

 

Đáp: Tôi sinh Nam Định, lớn lên ở miền Bắc, 10 tuổi th́ di cư vào Nam. Xong tiểu học, tôi học trung học tại trường Hồ Ngọc Cẩn là chính. Gia đ́nh tôi có nhiều liên hệ với những nhà văn nhà báo nên tôi đọc từ 12, 13 tuổi. Thuở nhỏ, cứ có ǵ là đọc nấy, nhưng thích nhất là truyện. Tôi đọc Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ... trong Tự lực Văn đoàn, rồi sau là các tờ báo văn chương, như Sáng tạo, Thế kỷ 20...

 

Hỏi: Nhà văn bắt đầu viết văn từ bao giờ? Tác phẩm đầu tay là tác phẩm nào? In ở đâu? Quá tŕnh viết và in tác phẩm đó như thế nào? Độc giả hay giới cầm bút đón nhận tác phẩm đó ra sao?

 

Đáp: Năm 15, 16 tuổi, tôi kiếm sống bằng cách đi kèm trẻ tại tư gia. Bị tai nạn xe gẫy chân, tôi nằm nhà, không đi lại được. Thời đó, có nhà báo Trần Việt Hoài đến chơi, thấy tôi buồn nên mang đến một cuốn sách tiếng Anh bảo tôi dịch. Đó là những bức thư của một số phi công cảm tử trong đội Thần Phong của Nhật hồi Thế Chiến thứ 2 viết trước ngày đi bay để rồi, khi hết bom, lao vào tàu chiến trong hạm đội Mỹ chết cùng... Thư cho mẹ, cho chị, cho người yêu, rất cảm động, nhưng lại bi tráng hào hùng. Dịch nên tôi không có cảm tưởng là viết ǵ, được cái lợi là học tiếng Anh, đỡ chán, và có hy vọng in trên tờ báo do ông Hoài là chủ bút (hoặc phóng viên? tôi không nhớ rơ)... Khỏi đau, tôi mất việc kèm trẻ, và từ ngày đó tôi viết loại truyện gọi là “mỗi ngày một truyện”, chừng 2 cột báo in, tức khoảng 3-5 trang viết tay, gửi đăng trên các nhật báo, mục đích để giải trí độc giả của báo. Một truyện được100$ , hoặc 150$ (tiền VN năm 59-60), tương đương với ½ tháng lương đi kèm trẻ. Thế là tôi bắt đầu viết, để kiếm tiền tiêu vặt, chứ không hề có ư thức ǵ cho lắm về văn chương. Thời đó tôi lấy đủ thứ tên hiệu, v́ giữ một tên sẽ khó được các nhật báo nhận đăng, nào Linh Vũ, Trúc Lâm, Lệ Thuyền... nhớ không hết. Khổ nhất là khi đến Ṭa soạn các báo lấy tiền nhuận bút. Tôi nhỏ người, trông rất trẻ con, nên phải nhờ bạn bè lớn tuổi hơn lănh giùm, rồi chia nhau... Viết kiểu này tôi viết hàng tá truyện (bây giờ chỉ c̣n nhớ mang máng được đúng một truyện, thế nào rồi cũng “viết lại’’ để giữ làm kỷ niệm), nhưng chẳng có ǵ đáng gọi là văn chương cả!

 

Hỏi: Quá tŕnh viết văn sau khi in tác phẩm đầu tiên có những thay đổi ǵ?

 

Đáp: Nếu gọi những truyện đăng báo vừa nói là tác phẩm đầu tay, th́ thay đổi rất quan trọng là đi lănh tiền nhuận bút xong, tôi đi ăn phở, ăn đu đủ ḅ khô, đậu đỏ bánh lọt (thời đó tôi chưa biết uống bia) với bạn bè. Nhưng đó cũng là những lần độc nhất tôi kiếm được tiền bằng viết lách. Sau này, chẳng ai trả ǵ, và làm công việc văn chương tất là bắt buộc “bù lỗ”... cho các ông chủ báo văn nghệ ở hải ngoại.

 

Hỏi: Nhà văn có thể kể lại đôi điều về sinh hoạt văn chương miền Nam trước 1975 không?

 

Đáp: Tôi rời khỏi VN năm 18 tuổi, không có cái may mắn thành niên trên đất nước ḿnh, chỉ nhớ... được ông thầy Việt Văn là Doăn Quốc Sĩ thời ấy có nói dăm ba câu khuyến khích đám trẻ như tôi một cách chung chung, thế thôi.

 

Hỏi: Ngày 30 tháng 4 nhà văn đang ở đâu, làm ǵ? Biến cố 30/4 thay đổi cuộc sống của nhà văn như thế nào?

 

Đáp: Tôi ở Montreal. Tối hôm ấy tôi mới nghe tin nhưng trước đó 1 tuần, gia đ́nh tôi đánh điện cầu cứu. Nhưng tôi nào có làm được ǵ, chỉ lo khi “chạy loạn’’ có cái nguy đạp lên nhau mà chết. Tôi đánh điện về, khuyên “ở đâu cứ ở đó”!

 

Hỏi: Nhà văn sang định cư ở Canada từ bao giờ?

 

Đáp: Tôi được học bổng du học, sang Canada năm 1963, viết thư hẹn 4, 5 năm sau sẽ về. Thế mà bây giờ là 42 năm có lẻ rồi!

 

Hỏi: Khi sang Canada, nhà văn bắt đầu viết lại từ bao giờ? Nhà văn có thể đôi chút về kỷ niệm nào đáng nhớ không?

 

Đáp: Ban đầu th́ tôi tham gia làm báo sinh viên, năm 64, 65... kiểu báo Tết ấy mà. Thời đó tôi làm “thơ”... và chống chiến tranh. Đến số báo thứ 3 th́ bị cộng đồng tẩy chay, gọi là VC, hoặc tử tế hơn, là “thân’’ Cộng... Nói cộng đồng cho oai, chứ khi đó ở Montreal chưa có đến 100 sinh viên người Việt ḿnh! Kỷ niệm đáng nhớ là v́ một bài thơ mà các bạn đồng trang lứa chặn đường đón đánh. May quá, tôi biết khinh công, vơ chạy của tôi là hạng thượng thừa... Nhưng dạo sau này tôi thôi jogging [chạy] rồi!

 

Hỏi: Tại sao nhà văn lại thấy ḿnh cần phải viết văn bằng tiếng Việt trong hoàn cảnh sống lưu vong?

 

Đáp: Ngôn ngữ nào cũng chuyên chở trong nó cách cảm nhận và suy luận của con người trong một nền văn hoá. Dù cách biệt với đất nước, tôi vẫn đèo bồng nền văn hóa Việt Nam đó trong máu, trong tim, trong da trong thịt. Tôi chỉ có thể , với văn hoá đó. Đó là sự song tồn tất yếu. Trong mỗi cá thể, ẩn một tập thể có lịch sử, ngôn ngữ, phong tục... tạo nên cái khung tư duy, xúc cảm cho cá thể đó. Ngược lại, mọi cá thể tư duy - xúc cảm sống và hành động theo một mô h́nh văn hóa - đều lại là tác nhân tạo ra sự nối tiếp của lịch sử, của văn hóa đó... Cá nhân ư thức và hành động hôm nay là sự trở thành của cả tập thể ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta phủ nhận nền văn hóa của những nước sở tại nơi chúng ta sống đâu. Tôi ḥa nhập rất dễ dàng và khá tích cực vào đời sống văn hoá Canada. Nhưng ḥa không có nghĩa là đồng... Một ngày nào đó, khi đă viết xong những điều tôi nghĩ là đáng viết bằng tiếng Việt để chia sẻ với đồng bào tôi, có thể tôi sẽ viết bằng tiếng Pháp. Rất tiếc là tôi không đủ tŕnh độ tiếng Anh để làm công việc văn chương.

 

Hỏi: Nhà văn có thể kể lại quá tŕnh sáng tác cho chúng em được không? Ư tưởng đến với nhà văn như thế nào? Sau đó ư tưởng được phát triển và thay đổi ra sao? Trong khi viết, nhà văn gặp những thuận lợi, khó khăn ǵ? Công việc kiếm sống có ảnh hưởng thế nào đến việc viết của nhà văn?

 

Đáp: Trong thể loại tiểu thuyết lịch sử, ư tưởng – như các bạn nói - thường là nung nấu khá lâu. Chúng kết tinh lại sau hàng chục năm đọc, t́m hiểu, suy nghĩ. Rồi tôi tự hỏi: tôi có điều ǵ thực sự đáng để viết không? Độc giả đọc liệu có mất thời giờ cho những giông dài hiển nhiên chẳng đem được lợi ích ǵ cho tương lai? Trả lời xong những câu hỏi trên, công việc nghệ thuật bắt đầu: hàng trăm hàng ngàn trang viết ra, làm thế nào để độc giả không “gấp sách bỏ rơi” tác phẩm? Qua thể loại kịch, truyện ngắn, kư, câu hỏi vừa đặt ra vẫn là vấn đề chính. Tôi tin sự sống động của câu chuyện, cá tính nhân vật, “hơi” văn, bố cục qua sử dụng thời gian và không gian rất quan trọng. Nhất là “hơi” văn. Gọi là hơi, để nói lên một tổng hợp của âm thanh (nhạc), màu sắc (họa), nhưng cái chuyển xa, sâu và bền vẫn là ư nghĩa nội dung. Văn mà! Tôi không viết văn cho người giải trí. Tôi cũng không viết văn để giải trí ḿnh. Viết khó nhọc lắm... Nhất là song song với công việc văn học c̣n nghiệp vụ như cái cần câu cơm... V́ thế, tôi vẫn chỉ là một người viết văn “part time”.

 

Hỏi: Sau khi các tác phẩm của nhà văn in ra, nhà văn có nhận được nhiều phản hồi của độc giả không? Nhà văn có thể kể 1 số nhận xét của họ được không?

 

Đáp: Ít nhưng cũng có. Những lời khen, tôi cám ơn nhưng quên ngay. C̣n chê, chê đúng, th́ tôi không bao giờ quên. Lời chê ám ảnh tôi nhiều nhất là “anh viết khỏe quá”. Nó bắt tôi lặp lại câu tự vấn, liệu tôi có làm mất thời giờ quí báu của độc giả hay không?

 

Hỏi: Nhà văn nghĩ thế nào về môi trường phê b́nh văn học hiện nay?

 

Đáp: Thật ra, đây là khâu yếu nhất trong những thể loại văn học. Trong cuộc phỏng vấn của Mai Ninh [1] , tôi đă khá dài ḍng về vấn đề này. Các bạn cũng có thể đọc bài tạp luận “Xiếc chữ”’ trên talawas [2] và trao đổi giữa tôi với nhà văn Nguyên Ngọc [3] ...

 

Hỏi: Tiểu thuyết Tiếng cồng dường như một lời kêu gọi hàn gắn đất nước và con người Việt Nam rất thắm thiết được viết lên từ một câu chuyện có thật. Xin nhà văn cho biết mục đích chính khi kể lại câu chuyện này? Nhà văn muốn gửi gắm thông điệp ǵ qua tiếng cồng này?

 

Đáp: Tiếng cồng là tiểu thuyết, đương nhiên là một sản phẩm của tưởng tượng và hư cấu. Nhưng chính v́ thế mà tiểu thuyết trở nên hiện thực hơn cả loại hiện thực mắt thấy tai nghe. Văn hoá nào cũng có những huyền thoại tạo tác - h́nh như người Âu Châu gọi là founding myths – và câu chuyện cha Lạc Long chia tay mẹ Âu Cơ, mỗi người mang một nửa số con đi lên núi hay đi xuống biển là một huyền thoại ấy. Lịch sử Việt Nam th́ 3 thế kỷ qua đă truân chuyên qua phân ly, đổ vỡ, hết cuộc chiến này sang cuộc chiến kia, đầy tang thương chết chóc. Những hố sâu chia cắt rất dễ thành những vực thẳm khó khỏa lấp, và thương tích trong tâm hồn là loại không có thuốc trị, không mổ xẻ, không hàn gắn được nếu không đặt chữ TÂM lên trên mọi sự. C̣n thế giới ngày nay? Chưa bao giờ nền văn minh con người đang khủng hoảng ở mức khẩn cấp như bây giờ. Con người thế kỷ 21 chinh phục vật chất với những thứ kỹ thuật thần kỳ, nhưng đồng thời lại phủ nhận chính con người, lăng quên biết bao nhiêu giá trị tinh thần, cai trị lẫn nhau bằng bạo lực, dối trá, và gây ra những bất công ngày một trầm trọng. Sẽ đến lúc, để tồn tại, phải trang bị lại nền đạo đức nhân bản. Căn bản cho cách làm người với nhau là chữ TÂM. Đi xa hơn, TÂM chẳng những giữa người với người, mà c̣n nới ra cả giữa người và môi trường, thiên nhiên và những sinh vật khác. Cụ Nguyễn Du, nhà văn hóa kiệt xuất của chúng ta đă chẳng gióng tiếng ba trăm năm về trước rằng “CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI” đấy sao.

 

Hỏi: Nhà văn có thể nói thêm về khái niệm chữ TÂM được không? Cái “tâm” của con người cũng có thể bị vô minh phiền năo. Đức Khổng tử đă nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện.” Vậy nếu chúng em hiểu không sai, con người có tâm và thân thiện cũng có thể ác nếu được giáo dục bởi sự hận thù tranh chấp. Xin nhà văn bổ sung thêm về khái niệm thú vị này—cái “căn bản cách làm ngựi với nhau.”

 

Đáp: Tính “bản thiện” hay “bản ác” là một vấn đề chẳng phải chỉ những triết gia phương Đông, mà những triết gia từ thuở Cổ Hy Lạp ở phương Tây cũng đă đề cập tới. Bàn thêm về bản thể, sẽ có thể đẩy chúng ta tách khỏi những chuyện tôi nghĩ là cấp thiết hơn. Nhưng xin dẫn Platon trước: tôi nhớ mang máng rằng theo ông, đạo lư (morality) là yếu tính hướng về cái tốt và cái đẹp, cuối cùng là sự chiến thắng của cái tốt, cái đẹp. Nói thế, có thể hiểu rằng trong con người luôn có đối kháng giữa cái ác, cái xấu với cái tốt, cái đẹp. Và đạo lư có tính “người” (theo Platon, rất lạc quan) sẽ dẫn tới sự chiến thắng nói trên. Như vậy, giáo dục bởi sự hận thù tranh chấp tất là vô luân, bởi cái gọi là giáo dục đó chỉ dẫn con người đến cái xấu, cái ác.

 

Xin phép các bạn cho tôi nói thêm một chút. Con người không chỉ tồn tại đơn thuần như một cá thể, nhưng quây quần thành xă hội, bởi cần nhau. Nh́n ở tầm hẹp, hăy kể từ gia đ́nh, làng xă, cho đến... quốc gia, và ở tầm rộng nhất, là cả thế giới. Nếu quên mất điều này, con người tất chỉ hành xử vị kỷ, mặc nhiên phủ định xă hội nhân quần, và như thế cũng là phủ định bản thân ḿnh và thu nhỏ chính con người ḿnh trong một quá tŕnh phản tiến hóa. V́ thế, làm người với nhau, như một điều tất yếu, là ḥa đồng với tha nhân, với những người khác ḿnh, nhưng đồng thời không vong thân tha hóa (allienation) biến ḿnh thành loại thứ phẩm của người khác. Điều này có nghĩa ta chấp nhận sự tồn tại của những kẻ khác ta, coi người khác như ta, ở nghĩa họ cũng là những cá nhân tự do và không vong thân tha hoá. Điều vừa nói chẳng đơn giản. Làm được, sẽ không cá nhân nào cho ḿnh cái khả năng chỉ ḿnh mới sở hữu chân lư, áp đặt lên người khác quan điểm của ḿnh; sẽ không có những xă hội toàn trị trong đó người cầm quyền phủ định những kẻ bị trị; không có những siêu cường khống chế những quốc gia nhỏ hơn, nghèo hơn... Tóm lại, con người phải chữa căn bệnh vĩ cuồng v́ quyền lực, gọi cho gọn là bệnh cuồng quyền. Trong tiểu thuyết Gió lửa, tôi đề cập đến căn bệnh này khá nhiều, xin ngưng ở đây. Bây giờ, chúng ta nói qua về cha của Freddy trong Tiếng cồng. Không biết ông có ném bom hay chỉ bay những chuyến bay trinh sát, nhưng khi viết thư cho con, ông nói ông không hề ném bom. Phần Freddy, anh ta bị ám ảnh, chẳng phải v́ cha chết mất xác ở Lào Cai, nhưng v́ cái nghi vấn cha ḿnh có ném bom hay không trên đầu những con người. Đấy là tiếng gọi của lương tâm, là yếu tính hướng thiện của con người. Nó có thể xuất phát từ TÂM, tôi hiểu như ḷng nhân ái, và theo thiển ư, đó là căn bản để con người làm người với nhau. Và làm, tức hành động. Làm người với nhau là tương quan và hành xử với nhau. Trong nhiều loài sinh vật, tranh chấp cắn xé có, nhưng ít khi huỷ diệt nhau, có lẽ v́ bản năng tồn sinh. Loài người, các bạn thừa biết, kỷ vừa qua có 2 cuộc thế chiến, và từ đó chúng ta “văn minh” đến độ phát huy không biết là bao nhiêu loại vũ khí hủy diệt hàng loạt (mass destruction)! Tôi e, đến cái bản năng tồn sinh chúng ta cũng đang đánh mất, c̣n lại có chăng là bệnh cuồng quyền, là huyễn hăo (vanity), vừa phản thiên nhiên, vừa đi ngược đường tiến hóa. Nói như vậy, tôi không hề kêu gọi ai thành thánh cả. Tôi chẳng đủ dũng cảm để ai tát má bên trái, tôi ch́a ngay má bên phải ra như đấng Kitô dậy. Nhưng ít nhất, trước khi hành động, tôi sẽ ḱm ḷng thêm dăm ba phút hiểu cái tát, để ch́a má bên phải hay là tát lại kẻ tát tôi là một hành động có ư thức, không chỉ thuần bản năng. C̣n ai đó mang hận thù tranh chấp ra ḥng tôi phải theo cái này, chống cái kia, tôi sẽ b́nh tâm (lại chữ tâm) ngẫm nghĩ, chứ không sôi gan lên rồi lao vào những kiểu manh động có tính bầy đàn...

 

Các bạn nói ít, nhưng tôi hiểu rằng từ thân phận Việt Nam lưu vong ở thế hệ thứ 2, các bạn đă nhiều lần nghe đến tranh chấp và hận thù. Đừng trách cứ ǵ cha, anh. Họ là những kẻ mất mát, và là những người có ḷng với Tổ Quốc. Nhưng các bạn khác. Các bạn nay có thể b́nh tâm để khách quan nh́n sự kiện, để hiểu, và nếu làm ǵ, các bạn cứ làm khi chắc chắn là ḿnh hướng theo cái tốt, cái đẹp. Người Việt ba mươi năm qua oằn lưng gánh một gánh phở, mỗi đầu đ̣n gánh là một ngọn cờ, tay phải buông gánh đánh tay trái, và ngược lại. Cứ tiếp tục như vậy, gánh phở rồi sẽ rơi xuống đất, và sau chúng ta sẽ chỉ c̣n hủ tíu Nam Vang hay ḿ Quảng, th́ thật là thảm họa.

 

Hỏi: Xin nhà văn nói rơ thêm về The Vietnamese Syndrom [Hội chứng Việt Nam] đă được nhắc đến trong nhiều tác phẩm. Nhà văn có nghĩ rằng hội chứng này đă gián tiếp ảnh hưởng tích cực trong việc đánh tiếng chuông cảnh tỉnh đối với chính quyền Mĩ và Việt Nam hay không? Hay mọi người c̣n quá thờ ơ với những tàn tích mà một lịch sử, một quá khứ đă để lại?

 

Đáp: Anh Nguyễn Giang của đài BBC hỏi cách đây ba năm làm sao Tiếng cồng “tiên tri” được những biến động trên vùng cao vùng xa với những sắc tộc thiểu số, tôi đă đáp, tôi chịu, và tôi cũng chẳng hề có ư định làm cái việc dự phóng tương lai. Cái hội chứng Việt Nam - một vấn đề văn hóa - có một số đặc thù. Tôi xin không bàn đến hội chứng này đối với người Mĩ, để tiếp tục tập trung vào phần ta. Ta (tức người Việt ta) không cưu mang cái gần, nhưng trân quí cái ở xa. Ta có thể khoan nhượng với kẻ thù bên ngoài, thậm chí có lúc xu phụ ngoại bang, nhưng lại khắc nghiệt với đồng bào không cùng ư kiến, quan điểm. Ta dễ dăi gọi họ là giặc trong, để chia rẽ, phân liệt, và đối kháng quyết liệt, đôi khi đến độ hủy diệt lẫn nhau chỉ v́ những thứ từ ngữ ta thật sự không hiểu cho thật rơ. Ba mươi năm qua, cá nhân bị d́m vào tập thể đến chết ngạt, hễ nói đến tự do hay độc lập th́ là tự do độc lập của dân tộc chứ không phải tự do độc lập cá nhân. Nhưng dân tộc là ǵ? Nói đến dân tộc th́ nhân danh ai? Cho đến nay vẫn là những tra vấn c̣n bị húy kị, xuyên tạc, chụp mũ. Viết văn, tôi không có ư đề cập trực tiếp đến chính trị. Trong Tiếng cồng, Sa có thật yêu Hà không hay chỉ v́ muốn đi Mĩ ? Đến nơi, Sa không thể sống được với Hà, một kẻ mang thương tật, tôi gọi là thương tật lưu vong, do mất mát bản sắc đến độ tâm thần. Rồi Sa t́m lại Freddy. T́nh yêu? Chắc là không! Nhưng như một thứ bó buộc của định mệnh. Quan hệ chính quyền giữa Việt Nam và Mĩ rất có thể như thế. Không như Sa và Freddy, hai chính quyền này chưa sinh nở được cái ǵ tích cực như đứa bé gái tên mang tên Sao, một vị công chúa bị lịch sử ném từ thượng du miền bắc Việt Nam sang Paris, về đến nơi sinh ra ḿnh th́ nghe được tiếng cồng thiêng liêng đánh thức bản sắc. Nhưng sau chuyến thăm Hà Nội của ông Hồ Cẩm Đào lănh đạo Trung Quốc vừa qua, biết đâu những người lănh đạo họ lại không theo gương Hà và Freddy, leo lên cùng giường, mặc dầu không nhất thiết chia chung một giấc mộng? Tôi không dám cảnh tỉnh ai, nhưng lúc này mà Tiếng cồng được dịch sang tiếng Mĩ th́ khá “đúng thời cơ”, trong các bạn có ai phiêu lưu làm việc dịch này không? Đi với Mĩ, tôi thiết tưởng, đỡ sợ hơn là phải đi với TQ, nhất là ở trung hạn và dài hạn!

 

Hỏi: Nhân việc nhà văn nhắc đến quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Mĩ, chúng em vừa đọc qua một vài tác phẩm nhắc đến Việt Nam như một cô gái đồng trinh bị Trung Quốc cưỡng hiếp qua bao giai đoạn lịch sử (chính trị, văn hóa…). Chúng em sợ rằng đi với Mĩ, cô gái này sẽ lại bị Mĩ cưỡng hiếp theo một cách khác. Nỗi sợ này có nguyên do của nó, bởi v́ theo em quan sát, một bộ phận rất lớn giới thanh thiếu niên Việt Nam trong nước đang tiếp thu và nuôi dưỡng một lối sống hướng ngoại, sống theo kiểu Mĩ mà không có định hướng rơ ràng. Nếu Tiếng cồng được dịch sang tiếng Mĩ, có ảnh hưởng tích cực đến quan hệ giữa Mĩ và Việt Nam th́ đó là thành công lớn của tác phẩm. Nhưng một hậu quả tất yếu sẽ là Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng hơn của nền văn hóa tự do Mĩ. Liệu rồi văn hóa Việt Nam sẽ đi về đâu? Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ coi ḿnh là người Việt Nam hay một young American-wannabe. Liệu vấn đề này có bắt buộc phải xảy ra nếu Việt Nam muốn hội nhập với thế giới hay không? Xin nhà văn cho biết ư kiến của ḿnh.

 

Đáp: Lư do khiến cô gái Việt Nam bị hăm hiếp là cô ấy nghèo và yếu. Nhưng dẫu thế, cô ấy vẫn tiếp tục là cô gái Việt Nam, bởi trong nếp sống, cô ấy vẫn giữ được những nét truyền thống khiến cô không giống những cô gái Tàu, Pháp, Mỹ... Đọc một câu ca dao, hay nhắc đến dăm ba vần thơ trong Kiều, cô ấy vẫn cảm động, thấy ḿnh gắn bó với ngôn ngữ và tâm t́nh Việt Nam. Xin gióng tiếng Kiều, “Chữ trinh c̣n một chút này” là ǵ? Đó là cái gốc văn hóa chúng ta cùng nhau ǵn giữ được. Đừng để Nam Dao chí thất lạc như trong Đất trời chính là cách tự vệ. Nhưng chúng ta cũng đừng khép kín, bế quan tỏa cảng trí tuệ và tâm hồn. Phải mở, v́ tất cả những hệ thống đóng (closed system) đều sẽ tiêu vong, mất sức sống (theo vật lư, độ entropy tăng, trữ lượng thông tin giảm...). Thế giới bây giờ là một quần thể đa văn hóa, cái nọ tác động lên cái kia. Điều kiện cần để giữ một nền văn hóa là giữ được, và phát triển được, ngôn ngữ riêng ḿnh. Cần nhưng chưa đủ. Điều kiện đủ là có khả năng tiếp thu những cái hay của những nền văn hóa khác để thực hiện một tổng hợp hài ḥa với nền văn hóa của ḿnh. Hiện tôi đang đối thoại với các bạn, đây chẳng phải là một cách chúng ta đang tiếp tục ǵn giữ văn hóa đó sao? Ở Mĩ, các bạn c̣n thắm thiết với văn hóa Việt Nam như vậy, th́ tại sao các bạn lại lo ngại cho những người đồng trang lứa trong nước? Rất có thể các bạn về thăm đất nước và thấy một số hiện tượng hướng ngoại trong lối sống trong thành phố, và nhất là ở tầng lớp mới “giàu”, con ông cháu cha. Nhưng 80% dân Việt Nam sống trong vùng quê. Với lợi tức rất thấp, có muốn họ cũng chẳng thể thành Mĩ được. Đến muốn đuổi cho kịp Thái Lan ở mức hiện tại, người ta c̣n cho rằng phải mất 20 năm nữa. Buồn thế đấy!

 

Nhưng cứ cho là sự lo ngại của các bạn có lư. Th́ hành động: làm người mà. Các bạn hăy về Việt Nam giúp đi: nào là trẻ em bụi đời, những kẻ khuyết tật, nào là những người bị chất độc da cam, những kẻ phải bán trôn nuôi miệng... Họ đếm ra có đến cả triệu. Và tất nhiên họ đang cần bàn tay và tấm ḷng của mọi đồng bào được may mắn hơn họ.

 

Lời cuối, hội nhập không cứ tất là bị đồng hóa văn hóa. Một ngh́n năm nằm sát nách anh khổng lồ phương Bắc mà người Việt Nam vẫn c̣n là người Việt Nam th́ đủ để có thể tin rằng một ngh́n năm nữa, lại cách nước Mĩ cả một đại dương, người Việt Nam khó có thể trở thành người Mĩ. Vả lại, các bạn có đoan chắc là siêu cường Mĩ sẽ tồn tại đến ngày ấy không? Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm lịch sử của Đế quốc La Mă, để trả lời câu vừa hỏi.

 

Hỏi: Theo nhà văn, một thế hệ trẻ học sinh sinh viên như chúng em, là những người không trực tiếp chứng kiến chiến tranh Việt Nam, có bị gọi là “mù ḷa muôn đời, là sự què quặt của những cái ‘den’ lạc lơng” (Tiếng cồng, tr 61) hay không?

 

Đáp: Không! Tôi đă đọc lại đoạn này trong T.C. Đó là lời Hà đáp Sa, nói về một lớp thanh thiếu niên Việt lớn lên ở Mĩ, “mất” ngôn ngữ mẹ, và nếu mù ḷa th́ là v́ vậy, chứ không dính ǵ đến chuyện trực tiếp chứng kiến chiến tranh hay không! Và có chút trách móc, là trách móc những vị phụ huynh đă không chú ư đến sự chuyển giao ngôn ngữ mẹ cho thế hệ con em, cách giữ văn hóa và bản sắc. Hội nhập vào xă hội mới là hội nhập nếu giữ được văn hoá gốc, và rồi bồi dưỡng bằng cách tiếp thu và tiêu hóa qua tổng hợp những giá trị mới. Không giữ được bản sắc, chỉ có sự đồng hóa. Trong trường hợp này, dĩ nhiên câu “mù ḷa muôn đời, là sự què quặt của những cái ‘den’ lạc lơng” có chút ǵ như một sự thật khó chối căi [4] .

 

Cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài có một lịch sử c̣n ngắn ngủi. Thời gian đầu, thế hệ phụ huynh ưu tiên ổn định đời sống, trong đó phần công ăn việc làm rất quan trọng, nên có lơi là về phương diện văn hóa ngôn ngữ âu cũng là điều hiểu được. Nhưng sau này, cộng đồng đă có nhiều hoạt động văn hóa khá tích cực và phong phú. Và nay, các bạn đang phỏng vấn tôi, đó không phải là dấu hiệu các bạn đang và (có thể) đă khôi phục lại cái vốn ngôn ngữ mẹ đó sao? Chuyện văn hoá là chuyện cả đời. Đọc, đă đành. Nhưng c̣n viết. C̣n mang văn hóa ḿnh phổ biến để hội nhập, đích thực là ḿnh và cho công bằng với người sở tại...

 

Các bạn có nói về chiến tranh. Tôi cũng là kẻ không trực tiếp chứng kiến cảnh đạn bay bom nổ. Nhưng chẳng v́ thế mà tôi nghĩ ḿnh mù ḷa, lạc lơng. Trái lại, tôi may mắn. Đă gặp nhiều cựu quân nhân cả Nam lẫn Bắc, tôi có cảm nghĩ là ai cũng muốn quên đi chiến tranh. Nhưng mặc dầu vậy, cái dấu vết khốn nạn về một thời để quên vẫn đâu đó. Nó thi thoảng lộ dạng trong một câu nói, một cái nh́n thoáng chút căm thù nào đó, hay ít nhất là không đủ sự độ lượng giữa người với người. V́ thế, tôi sợ rằng những vết thương trong tâm hồn họ vẫn chưa lành, lâu ngày rồi mà máu vẫn rỉ rả, và có thể trở thành thương tật vĩnh viễn. Chính đó mới là sự mù ḷa, chẳng phải của những cái “den” lạc lơng, mà của những tâm hồn không thoát được khổ nạn...

 

Hỏi: Theo em hiểu “tiếng hú” trong Đất trời của nhà văn mô tả nỗi đau và nỗi nhục của người Việt bị mất nước. Đất nước Việt Nam sau 75 đến nay được xem là nước có chủ quyền và độc lập, nhưng người dân Việt chúng ta có cuộc sống chẳng khác ǵ “tiếng hú” trong Đất trời. Vậy, nhà văn có dự định làm một “tiếng hú” nào khác để lưu lại cho con cháu đời sau không?

 

Đáp: Tôi viết là viết cho những người cùng thời. Nếu chính họ không tiếp nhận th́ làm ǵ có “đời sau” như các bạn hỏi. Sau 75, đồng bào trong nước can qua nhiều khó khăn. Họ cần gạo, chất đạm, một số điều kiện an sinh về y tế và giáo dục cho con em, và nhất là sự cởi mở thực sự của chính quyền nhằm hội nhập vào thế giới mà những giá trị như tự do, quyền công dân, dân chủ... là những tiền đề cần thảo luận, cần đào sâu, cần chu chỉnh cho thích hợp với xă hội và văn hóa Việt Nam ở hiện trạng. Chúng ta nên góp sức vào, với công tâm và mục tiêu tối hậu là sự thật. Đă có người nói, không có ǵ cách mạng hơn sự thật... Việc trước mắt đầy rẫy, nên tôi chưa có thời giờ nghĩ đến lưu lại cái ǵ cho “đời sau” cả!

 

Hỏi: Có phải bút hiệu Nam Dao là nhà văn chọn từ Nam Dao chí của Nguyễn Trăi? Nhà văn chọn bút hiệu này là do thích “lấy chí nhân để thay cường bạo” hay nhà văn muốn thực hiện ước mơ của ḿnh như Nguyễn Trăi?

 

Đáp: Nam Dao, từ Hán Việt, có nghĩa là những bài trẻ hát ở phía Nam. Bút hiệu này tôi lấy trước khi viết tiểu thuyết lịch sử. Năm 1999, Gió lửa. Và 2002, Đất trời. Trong tiểu thuyết này, khi nhà Minh đô hộ nước ta, họ t́m cách diệt cho bằng hết những vết tích sách vở văn hóa Việt, nhưng làm sao xóa được những bài hát trẻ con hát đây. Nguyễn Trăi chép lại v́ sợ chúng mai một, nhưng lại thất lạc, và có ư định sưu tầm lại về sau. Việc này Nguyễn Trăi bỏ dở, v́ dính vào đủ thứ vụ việc chính quyền. Cho đến cuối đời Trăi, Nam Dao chí ( tức tập bài hát con trẻ phương Nam) vẫn chưa được hoàn thành, Trăi lỗi thề với cô bé cháu là Vàng Anh bị giặc Minh giết. Oái oăm, khoảng trống hệ ư thức chính trị buộc Trăi lại du nhập mô h́nh quyền lực Tống Nho vào đất Việt! Đó là thảm kịch của trí thức Việt Nam. Nhưng Trăi là kẻ lực bất ṭng tâm. Giá như người tập trung vào văn hóa, phó mặc chuyện chính trị, th́ có lẽ chúng ta thực sự có thêm biết bao nhiêu điều quí giá! Chuyện những người trước chưa làm, ư thức được th́ chúng ta ắt có trách nhiệm tiếp tục.

 

Ngày nay, chúng ta không có Nguyễn Trăi. Sáu trăm năm sau, ngẫm lại cũng chẳng mấy khác: trí thức khoa bảng hiện thời phần lớn pḥ thứ chính thống vay mượn từ mô thức ngoại lai, cong lưng trước vũ lực, qú gối vái người cầm giữ cường quyền, tầm nh́n là cái tôi nhỏ nhoi, nhỏ v́ chỉ biết lợi lộc cho ḿnh, v́ ḿnh... Ở hải ngoại, các bạn thuộc một thế hệ khác, và chắc các bạn sẽ không tiếp nối cái nét truyền thống đớn hèn đó của những kẻ đi trước.. và đi lạc!

 

Hỏi: Theo chúng em biết, nhà văn Nguyễn Mộng Giác (hiện đang sống ở Nam Cali – Hoa Kỳ) là một trong những nhà văn lớn trong nền văn học hải ngoại. Ông có trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ kể về lịch sử thời Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, và Nguyễn Lữ. Tác phẩm này được chính quyền Hà Nội xuất bản và đọc cho khán giả trong nước nghe qua phần đọc truyện trên đài phát thanh. C̣n nhà văn cũng viết về lịch sử cổ. Vậy, nhà văn có t́m thấy sự đồng cảm giống nhau nào giữa nhà văn và Nguyễn Mộng Giác không?

 

Đáp: Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có trao đổi với tôi về tiểu thuyết lịch sử vài năm trước [5] . Tôi mạn phép trích lời Giác:

 

“Các nhà lư luận, tùy khẩu vị từng thời, phân chia văn chương thành hai ḍng song hành: vị nghệ thuật và vị nhân sinh, dương tính và âm tính, cái cao cả và cái dung tục, vĩ mô và vi mô, hay như mới đây trên Hợp Lưu số 66 (tháng 8 & 9/2002) anh Ngân Xuyên có dịch một bài của nhà phê b́nh Nga Fazil Iskander, trong bài đó ông dùng một thuật ngữ mới: văn chương ở nhà và văn chương vô gia cư.

 

“Văn học ở nhà có đặc điểm nhân tính giản dị khiến anh muốn được sống bên cạnh các nhân vật của nó, anh được ở dưới mái nhà bè bạn, anh được che chở tránh những cơn băo táp thế giới, anh sống cùng những người chủ nhà thân thiện, dễ mến. Và ở đây, trong ngôi nhà ấm cúng và hiếu khách, anh có thể cùng với chủ nhà suy tư đàm luận về các số phận của thế giới cũng như về những tác động của các cơn băo thế giới.

 

“Văn học vô gia cư không có bức tường nào che chắn, nó mở toang ra trước mọi cơn băo thế giới, nó dường như thử thách anh trong những hoàn cảnh của cơn bi kịch thực sự, anh bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi cảnh tượng vực thẳm của cuộc sống, nhưng anh không bao giờ muốn sống bên cạnh vực thẳm đó. Vả chăng điều này c̣n phụ thuộc nhiều vào tính cách người đọc.

 

“Văn học ở nhà, chủ yếu là sự hiền minh (Puskin, Tolstoi). Văn học vô gia cư, chủ yếu là trí tuệ (Lermontov, Dostoievski)….

 

Nếu theo cách phân loại trên, th́ vâng, tôi là người chủ trương văn chương ở trong nhà, cuộc đời này dù sao vẫn c̣n rất đáng sống, con người dù sa đọa đến đâu cũng rất đáng thương, ṿm đời bụi bặm này dù sao cũng là một mái nhà che mưa che nắng cho tất cả chúng ta. Anh thuộc các nhà văn vô gia cư, báo động một trận đại hồng thủy nhân loại đang cận kề mà không ai hay biết. Họ điếc, anh phải hét lớn vào tai họ, mong họ thức tỉnh.’’

 

Tôi đồng ư với Nguyễn Mộng Giác. Và tôi không chờ đợi văn chương của tôi sẽ được đọc trên đài phát thanh ở Hà Nội trong một tương lai gần. Đấy, tôi cũng thực tế đấy chứ!

 

Hỏi: Trong tập truyện Trong buốt pha lê, nhà văn có nói rằng người viết không bắt buộc cứ phải lặp lại và khép kín trong những “sắc thái và t́nh tự quá đặc thù cá biệt.” Nhà văn nghĩ ḿnh có chịu ảnh hưởng của tác giả nào khác không, kể cả nhà văn Việt Nam và nước khác? Là tác giả nào? Tại sao?

 

Đáp: Đó là phản ứng của tôi khi nhận thấy văn chương hải ngoại phần lớn tập trung vào những “sắc thái và t́nh tự quá đặc thù cá biệt.” Ma xát với những sắc dân và văn hóa khác, ta có khả năng xác định văn hóa của ta, và chỉ như thế th́ đặc thù và cá biệt mới có khả năng trở thành phổ quát - tức universal theo cách nói châu Âu – mang tính con người trên trái đất nhỏ xíu này. Tôi đọc và trân trọng khá nhiều nhà văn. Cervantes, Diderot, Proust, Marques, Borges... Rồi Hemmingway, Faulkner, Tenesee Williams, Henry Miller. Ở ta, tôi kể Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... và nhiều nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Nguyễn Bính, Huy Cận... Nhưng trí nhớ tôi tồi lắm. Đọc mà chưa quên được những tác giả tôi cảm phục th́ tôi không viết. Thường th́ tôi trân trọng những văn phong, cảm quan và tâm hồn khác với tôi. V́ chỉ thế th́ tôi mới biết chỗ đứng của tôi là chỗ nào. Khủng khiếp nhất trong văn chương là đi nhại lại. Và nhại lại chính ḿnh th́… c̣n rùng rợn hơn nhiều lần. Nó như sự chết, các bạn ạ! Sáng tạo là cách độc nhất để chống lại cây kim đồng hồ xoay đúng một chiều, xoay măi, chẳng ai cản được.

 

Hỏi: Nhà văn c̣n nói rằng viết cách làm người không chỉ có “chuyện văn hay chữ tốt” nên văn chương khác với “son phấn” và với “ánh đèn sân khấu của những màn kịch tung hô.” Nếu chúng em không hiểu sai, ông Jean Paul Sartre trong cuốn Qu'est-ce que la littérature đưa ra sự gợi ư đồng nghĩa với nhà văn. Nghệ thuật không vị nghệ thuật mà vị nhân sinh. Nhưng trong những phong trào văn chương của thế kỷ 20 cũng có vài triết gia Anh, Pháp và Đức (Wittgenstein, Foucault, Derrida, Heidegger và Gadamer) cho rằng chúng ta không vượt qua được phạm vi ngôn ngữ để đến một “chân lư” nào đó nên “sự thực” sẽ bị/ được gắn với “son phấn” và “ánh đèn sân khấu” của ngôn ngữ. Thưa nhà văn, nhà văn có đồng ư với phong trào này không? Và nhà văn có thể cho chúng em biết mối quan hệ giữa văn chương và nhân sinh quan của ông, được không?

 

Đáp: Câu chuyện vị nghệ thuật vị nhân sinh cũ lắm, ông Hoài Thanh nói bằng chữ quốc ngữ sáu mươi năm về trước, chẳng đợi cuốn sách của Sartre ra đời. Thời Đường, thời Tống bên Tàu người ta cũng bàn, và trong sách Kiến văn, cụ Lê Quí Đôn bên ta cũng từng chê cái kiểu vị nghệ thuật cứ vịnh hoa, vịnh trăng... của các cụ nhà Nho thuở xưa, đa phần là đi trốn đời, vịn vào văn chương sáo ṃn để che đi cái yếu ớt của lớp “dài lưng tốn vải”.

 

Qua chuyện triết. Ngôn ngữ là symbol (biểu tượng), rồi cái nó chỉ, cái được chỉ (signifiant, signifié) không phải là một, mà đa phức, hỗn tạp, vân vân và vân vân. Ngôn ngữ học hiện đại bỏ sang một bên phần ngữ nghĩa (semantics), dùng duy lư h́nh thức (formal logics) - kể cả toán cao cấp - đào sâu tính cấu trúc (structuralism...), và chẳng biết có đi đến đâu không mà rồi nay th́ la lối hủy tạo luận (destructuralism), vài năm nữa sẽ là cái chi chi th́ chỉ Trời mới biết. Nhưng hẳn các bạn đă được thông báo: tác giả đă chết, chỉ có văn bản. Và nghiên cứu văn học, rút lại thành t́m những quan hệ liên văn bản, vân vân... Nghe vậy tôi đă định tự tử, nhưng nhát quá, và vẫn thích rượu chát, nên thôi!

 

Trong văn chương, người ta cũng tung hô những cái “hậu hiện đại” kiểu hiện tượng “phi tuyến tính” (non-linear), biến thái găy đổ (bifurcation), hỗn mang (chaotic), bất định (indeterminism), đa nghĩa, ẩn dụ (nghĩ một đằng nói một nẻo, hay có văn hóa hơn- nói bóng nói gió- trong ngôn ngữ Việt), cho rằng muốn “mới” th́ chính là đổi mới h́nh thức. Trời ơi, khỉ thật, tất cả những thuộc tính như phi tuyến, găy đổ, hỗn mang, bất định đều là điều đă biết trong cơ học cổ điển và cơ học lượng tử từ khoảng đầu thế kỷ 20. Chỉ như vậy, thực sự chẳng có ǵ “mới” cả! Vấn đề: mang những thuộc tính của tư duy h́nh thức và khoa học tự nhiên vào văn chương được ǵ, mất ǵ, khi nào thích hợp, khi nào không? Khơi khơi, người ta phán cơi nhân sinh rắm rối gấp trăm lần cơi hiện tượng sinh - vật lư, thích hợp quá đi chứ! Vậy là chỉ có được, không có mất, và thế là chỉ cần bảo rối rắm phức tạp là thế giới con người tha hồ găy, rồi đổ, bất định, hỗn mang, bóng gió đến độ ai muốn hiểu thế nào th́ hiểu, không hiểu ǵ là thiếu tŕnh độ (tức là ngu, nói bỗ bă). Trong khi đó, văn chương “hậu hiện đại” chỉ một thiểu số tán tụng, thường là lên sân khấu tán tụng lẫn nhau, và v́ không người đọc nên văn chương hậu hiện đại mang thêm nhiệm vụ đột phá “mở đường”, tức là chưa, hoặc ít người đi theo sau đuôi, dĩ nhiên trừ một thiểu số tiếp thu được, như những thầy thông ngôn tân thời biết chút ngoại ngữ.

 

Nhưng khi đọc lại văn chương gọi là “cổ điển”, rất dễ t́m ra những phi tuyến, gẫy đổ, hỗn mang, bất định... kiểu hậu hiện đại vừa kể. Tôi không tin thế là đổi mới, và có ai đó bảo văn chương của tôi cổ điển, tôi xin vui ḷng nhận ngay. Bởi những con chữ, đơn vị tạo tác của văn chương, đều có nghĩa, ít ra là như một qui ước (convention). Bởi văn chương đèo bồng cách làm người của nhà văn. Bởi, như tôi đă viết, văn chương khác với son phấn kiểu ḷe loẹt “văn hay chữ tốt”, lên sân khấu múa may rồi tung hô như đóng những vở kịch diễu dở.

 

Nếu văn chương muốn tồn tại, theo ư riêng tôi, th́ “cái c̣n đo bằng độ lắng của văn chương ở chiều sâu tâm thức người đọc”. Câu vừa viết là câu các bạn quên không trích khi đặt câu hỏi, và viết lại ở đây là cách tôi xin trả lời các bạn.

 

Hỏi: Một lần nữa, chúng em xin được cảm ơn nhà văn đă đồng ư trả lời cuộc phỏng vấn này. Chúng em chúc nhà văn cùng gia đ́nh mạnh khỏe và gặp nhiều may mắn.

 

 


Phụ lục: Tác phẩm của Nam Dao

 

Một số tác phẩm đă được đưa lên mạng http://amvc.free.fr/

 

Sách đă in

 

Những con người, những bóng ma, bút kư (250 tr), Nxb Văn Mới, California, 2006

Trăng thuê ảo ảnh, (tập truyện), 190 tr, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2004

Đất trời (tiểu thuyết lịch sử), 420 tr, Nxb Văn Mới, California, 2002

Khoảng chơi vơi (Truyện và Kư), 242 tr, Nxb ThiVan, 2001

Trong buốt pha lê (Tập truyện), 219 tr, Nxb ThiVan, 2001

Ba vở kịch, 232 tr, Nxb ThiVan, 2000

Tiếng cồng (tiểu thuyết), 182 tr, Nxb ThiVan, 2000

Gió lửa (tiểu thuyết lịch sử), 493 tr, Nxb ThiVan, 1999

 

Bản thảo (sẽ in)

 

Dịch lại Thơ Đường, 230 tr, 1995

Chinh Phụ Ngâm dịch theo nguyên thể Hán văn, 148 tr, 1996

Thơ Nam Dao, 167 tr, 1996

Bể dâu (tiểu thuyết- đang thực hiện)

 

Truyện ngắn

 

Cánh bướm đen, Văn Học, tháng 8-9, 2005

Điệu luân vũ trên máu, Văn, tháng 3-4, 2005

Đất Thổ, Văn Học, 220, 2004

Sống lại, Hợp Lưu, 2003

Tuyệt t́nh, Văn Học, 2003

Hoa tưới máu, Văn, 2003

Những sợi tóc mai (kư với bút hiệu Dă Tượng), Hợp Lưu 67, 12, 2002

Hũng lốc, Hợp Lưu 67, 12, 2002

Đêm Đông Quan, Văn, 60&61, 1-2002

Con mắt xanh, Văn Học, 191, 02-2002

Khoảng chơi vơi, Chủ Đề, số 7, 2001, 1- 37-64

Mắt trời, Văn, số 55&56, 8-2001, 39-51

Tiếng hú địa đầu, Văn Học, 179, 4-2001

Người ḿnh, Hợp Lưu, số 57, 2&3-2001

Trong buốt pha lê, Văn Học, 169, 5-2000

Phép lạ, Venezia (kư với bút hiệu Dă Tượng) , Hợp Lưu, số 54, 8&9-2000

Trăng thuê ảo ảnh, Hợp Lưu, số 54, 8&9-2000

Quỳnh Hương, Hợp Lưu, số 50, 6-2000

Kenema, nhật kư thầm kín (dịch từ “Une étrangère en moi” của Eric Viet), Hợp Lưu, số 54, 8&9-2000

Yasmina, Hợp Lưu, số 48, 8/9-1999

Vết bước, Hợp Lưu, số 46, 4&5-1999

Chớp sao, Văn Học, 170, 4-1999

Loạn Kiêu binh, Văn, 5&6, 1999

Tiếng đá, Thế Kỷ 21, số 110, 06-1998 và số 111, 07-1998

Chim trong lồng, Văn Học, 146, 6-1998

Ân sủng, Hợp Lưu, số 42, 8&9-1998

Một mẫu số chung, Đất Việt, 1986

 

Kịch bản

 

T́nh phụ, Văn Học, 219, tháng 7-8, 2004

Sân đền, Văn Học, tháng 8-9- 2003

Ba miền, Văn Học, 194, 6-2002

Ta xô biển lại, Hợp Lưu, số 56, 12-2000

Kịch câm, Văn Học, 168, 4-2000

Từ 4 phác bản thời gian đến mối mơ của Cuội, Văn Học, 175, 11-2000

Treo đầu dây Quan họ, Văn Học, 156, 4-1999

 

Bút Kư

 

Việt Nam, con người từ những bóng ma, Văn Học, tháng 6, 2005

Phùng Cung, thơ và người, Hợp Lưu, 78, 3-4/2004

Đỉnh ảo một đời thơ (về Bùi Giáng), Hợp Lưu, 2003

Xổ bụi (về Trần Dần và Nhân văn – Giai phẩm), Văn, Xuân Quí Mùi, 2- 2003

Ngỡ ngàng, nước đục bụi trong (về Trịnh Công Sơn), Văn Học,186-87

Trịnh Công Sơn, như cánh vạc bay, Văn, số 53-54, 06-2001

[In lại trong Trịnh Công Sơn, một người thơ ca một cơi đi về, chủ biên Nguyễn Trọng Tạo, Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, Nxb Âm Nhạc và Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội, 2001. In lại trong Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ, Trần Thanh Phương biên soạn tập hợp, Nxb Trẻ, TP HCM, 2001. In lại trong Trịnh Công Sơn, cuộc đời âm nhạc thơ hội họa & suy tưởng, Nxb Văn Nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2001]

Một vị thuốc đắng, một vị thơ (về Hoàng Cầm), Hợp Lưu, số 52, 4&5-2000

Những con voi không đẻ được (về Văn Cao), Đất Việt, 1988

[In lại trong Văn Cao, cuối cùng và c̣n lại, chủ biên Nguyễn Thụy Kha, Nxb Trẻ, Hà Nội, 1998]

Một trăm cách khóc (về Nguyễn Tuân), Đất Việt, 1987

Nhớ Phái (về Bùi Xuân Phái), Đất Việt, 1988

Tiếng hát đêm Giáng Sinh (về Nguyên Hồng), Đất Việt, 1985

 

Tiểu luận và Tạp ghi

 

Trách nhiệm nhà văn giữa những lối đi lầy vết, Phỏng vấn do Mai Ninh thực hiện, Hợp Lưu 80, 12-2004

Văn học, nội lực, trong-ngoài, và… vài tra vấn với nhà văn Nguyên Ngọc (kư Dă Tượng), Hợp Lưu,... 2003

Xiếc chữ, talawas, 01- 2003

Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử: Nam Dao-Nguyễn Mộng Giác, Văn Học, 197, 2002.

Về tiểu thuyết lịch sử, Văn, 65, 5-2002

Kịch nghệ của người Việt hải ngoại, Văn Học, 181, 5-2001

Bộ ba, Chủ Đề, số 6, 2001

Đọc Hợp âm trong vùng sân khuất của Mai Ninh, Hợp Lưu, số 56, 12-2000

Ngưỡng cửa kỷ 21, bực thềm thiên niên 3: Vấp, Ngă và Đứng dậy, Chủ Đề 2001

 

Thơ

 

Đăng nhiều thơ rải rác trong Hợp Lưu, Tạp chí Thơ, Chủ Đề, Đất Việt ...

Dấu vết ngậm ngùi (tập thơ), 1989

 

 

© 2006 talawas


[1][1] “Trách nhiệm nhà văn giữa những lối đi lầy vết”, Phỏng vấn do Mai Ninh thực hiện, Hợp Lưu, 80, 12, 2004, 174-184.

[2]“Xiếc chữ”, talawas, 01- 2003.

[3]“Văn học, nội lực, trong-ngoài, và… vài tra vấn với nhà văn Nguyên Ngọc” (kư Dă Tượng), Hợp Lưu, 2003.

[4]Mời các bạn tham khảo: Bộ ba, Chủ Đề, số 6, 2001, 168-177.

[5]Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử: Nam Dao - Nguyễn Mộng Giác, Văn Học, 197, 2002, tr 3-25.

Xin tham khảo về quan niệm TTLS của tôi trong “Về tiểu thuyết lịch sử’’, Văn, 65, 5-2002, tr 17-20.

 

 


30.3.2006

Nguyễn Uyên Minh

Đọc Tiếng cồng của Nam Dao

(Nhà xuất bản Thi Văn, năm 2000, 182 trang).

 

Tiếng cồng là câu chuyện t́nh đầy nước mắt và đau thương của những con người đến từ những nền văn hóa và cuộc đời khác nhau, nhưng đều t́m thấy một điểm chung khi đến với Sapa.

 

Câu chuyện xoay quanh Sa, cô gái tiếp tân tại một khách sạn nhỏ ở Sapa và bốn người khách du lịch. Lúc đầu, đoàn khách du lịch đến Sapa bao gồm hai vợ chồng người Pháp Marthe (tên Việt là Bích Lan) và André, Hà (đă có vợ ở Mĩ và hai con) và Billy. Khi đến ở tại khách sạn của gia đ́nh Sa, họ gặp thêm một khách du lịch người Mĩ nữa là Freddy, một kẻ săn bướm ở rừng núi Sapa. Billy nhanh chóng bị tẩy chay khỏi nhóm khách du lịch này v́ những hành động sàm sỡ, thô tục và cách ăn nói lỗ măng. Billy tự động rời khách sạn nên đoàn khách bây giờ chỉ c̣n bốn người tại khách sạn.

 

Cha của Sa đă vào Đàng Trong và không bao giờ trở lại. Ông làm việc trong ngành điện ảnh và mỹ thuật, đi theo “tấm bảng chỉ đường của trí tuệ” (31).

 

Mẹ Sa v́ thương nhớ chồng ḿnh mà gần như hóa mù. Mặc dù Sa vẫn nhận được thư từ của cha ḿnh nhưng cô giấu mẹ. Sa bảo với cha rằng mẹ đă đi bước nữa và cha đừng trở về làm ǵ. Sa đă vô h́nh dựng nên một bức tường lớn ngăn cách cha ḿnh vốn vẫn c̣n nhiều hoài băo, lư tưởng với hai mẹ con cô.

 

Andre là bác sĩ tâm thần và Marthe là một chuyên viên âm nhạc nghiên cứu về nhạc những dân tộc thiểu số. Bà thắc mắc về công việc săn bướm của Freddy và họ cùng bàn luận về đời sống và các khái niệm liên quan. Hà lại là một trường hợp khác. Anh mang câu hỏi “Ḿnh là ai ?” từ Mỹ về với hi vọng t́m thấy lời giải đáp trên đất Sapa. Hà tâm sự với Sa nhiều hơn và hiểu được hoàn cảnh gia đ́nh cô. Hà cảm thấy lạc lơng giữa đất trời Sapa. Con của Hà không biết nói tiếng Việt. Hà tâm sự với mẹ Sa “Đẻ con bên Mỹ th́ chỉ thấy sau cái sống như chớp mắt ấy là sự mù ḷa muôn đời, sự què quặt của những cái ‘den’ lạc lơng …” (61). Buồn chán, Hà rơi vào cái ṿng lẩn quẩn đi t́m bản thân ḿnh và ư nghĩa đích thực của cuộc sống mà anh ta đang có.

 

Trong một lần đi ngắm cảnh cùng Sa, Marthe ra tay cứu giúp một người phụ nữ dân tộc Hmông bệnh tật và đưa cô ta lên bệnh viện chữa bệnh. Hành động này không ngờ đă tác động mạnh mẽ đến những dân tộc Hmông nghèo khổ, đáng thương. Họ ngỡ Marthe là vị công chúa Hmông bị thất lạc từ lâu và mời Martha đến Lũng Mây để kiểm chứng.

 

Trong khi đó, Freddy bắt đầu tâm sự với Sa về lư do anh ta đến với Sapa. Cha Freddy là phi công, tham gia chiến tranh Việt Nam khi Freddy 12 tuổi. Ông hy sinh khi “bay thám thính đường vận chuyển xe lửa nối Trung Quốc với Lào Cai” (66). Xác ông vẫn chưa t́m được, và đó cũng là lư do anh ta đến với Sapa, “thế nào tôi cũng t́m được con bướm mang linh hồn cha!” (67). Sa bày cho Freddy thuật cầu cơ gọi hồn về để hỏi t́m xác cha anh ta với điều kiện Freddy cưới Sa sang Mĩ v́ “một dân tộc ngu dốt, thiếu kiến thức, không văn hóa sẽ không thể tồn tại lâu dài” (86). Ngoài ra, Sa c̣n ra điều kiện cho Freddy đào mộ chôn hết số bướm mà anh ta đă phơi khô trong suốt thời gian qua, giải phóng những linh hồn bị nhốt trong những cánh bướm đó. Freddy lập nên Mộ Bướm và đồng ư với điều kiện c̣n lại.

 

Khi đoàn khách du lịch đến với Lũng Mây như lời mời của người Hmông, Marthe được tôn vinh làm công chúa và biết rơ được nguồn gốc của ḿnh. Marthe quyết định ở lại giúp đỡ người dân tộc và không muốn quay về Pháp nữa. “Tiếng đàn đá có thể là cái động lực đẩy trực giác bà ra vùng ánh sáng…” (137). Andre hết sức đau buồn và giận dữ trước quyết định này. V́ không thể thay đổi được Marthe nên anh đành quay về khách sạn t́m cách giải quyết. Đây cũng là thời điểm mà Hà và Freddy nảy sinh t́nh cảm đặc biệt dành cho Sa. Sa khẳng định dù cô có kết hôn với Freddy th́ đó cũng không phải là t́nh yêu, v́ yêu Freddy là phản bội cha Sa. Sa vẫn nghi ngờ cha Freddy có tham gia ném bom chứ không chỉ bay thám thính như anh ta nói.

 

Lời cha Sa: “Nhận ḿnh là con Rồng cháu Tiên là nhận cả sự chia cắt không hàn gắn cứu văn được. Từ đó, sự chia cắt ấy nằm trong tiềm thức, biến thành bản thể. Trong từng con người, chỉ cần một cái ǵ khua động- một tiếng cồng chẳng hạn- là sự chia cắt ập đến, thành hiện tại, hệt như thứ nghiệp chướng…”(119). Câu nói này thể hiện sự ảnh hưởng của thế hệ đi trước đối với thế hệ sau. Hà chơi vơi nhận ra rằng ḿnh đă không đặt hạnh phúc thành một vấn đề khi lập gia đ́nh, nhưng bây giờ th́ khác. Với anh,“Về đây là để t́m lại ḿnh nhưng lại gặp một kẻ xa lạ thiếu phần hồn …” (145).

 

Freddy cầu cơ gọi hồn và được hồn cha anh cho biết ngày xưa ông thật t́nh chỉ bay thám thính, nhưng bị tên lửa bắn rơi v́ ông cũng là nạn nhân của những lời hứa dối trá từ cấp chỉ huy. Freddy biến mất trong hang t́m xương cốt cha anh. Trong khi đó, Sa và Hà chờ ở ngoài. Khi trở lên từ hang sâu mà không t́m thấy ǵ, Freddy thấy cảnh Hà và Sa ôm nhau ngủ trong rừng. Freddy giận dữ, rút dao đi rừng, nhưng anh đă không làm ǵ. Anh cảm thấy ḿnh là đă bị lừa “tôi là một thằng hề bị lừa, hệt như cha tôi bị lừa, như người Mĩ bị lừa ở Việt Nam” (160). Sau đó Freddy vội quay trở về khách sạn mà không đánh thức Sa và Hà. “Hồn cha tôi! Tôi không biết nhưng lạ là hồn tôi, tôi không định t́m nhưng lại thấy…” (148). Và Freddy vội quay trở về Mỹ.

 

Freddy để lại bức thư cho Sa kể rằng anh yêu Sa. Anh đă định giết Sa và Hà nhưng anh kiềm chế được bởi “Tôi không làm được cũng như cha tôi cũng đă không làm được. Cha con tôi là Americans, nhưng không cứ bắt buộc là ugly Americans, như người ta thường định kiến với người Mĩ chúng tôi…”(161).

 

Andre về Hà Nội để gia hạn thêm visa cho anh và Marthe. Hà là người khách duy nhất ở khách sạn. Sa thuyết phục Hà ở lại v́ cô sẽ không có cơ hội gặp anh bên Mĩ nữa do Freddy đă xé hợp đồng hôn nhân. “Hà không ngờ bị buộc vào ṿng trách nhiệm” (163). Sa dẫn Hà lên núi chơi và cô đă thoát y, t́nh nguyện dâng hiến cho Hà. Hà hôn Sa. Nhưng rồi h́nh ảnh cha Sa lại vẫn hiện về như nhập vào thân thể Hà. Một sự ngăn cách vô h́nh đẩy họ ra, Hà đă từ chối Sa, làm cô bật khóc quay đầu bỏ chạy.

 

Trong phần kết của truyện, chúng ta biết rằng tác giả thật ra là bạn Freddy, viết lên câu chuyện có thật này nhân chuyến về Việt Nam và được Freddy nhờ trao thư cho một người con gái ở Sapa. Khi nhận được thư, người con gái này lại không viết trả lời cho Freddy mà nhờ tác giả trao thư cho một người đàn ông khác ở Mĩ, Hà. Nhận được thư Sa, Hà xin li dị vợ, về Việt Nam cưới Sa và đem Sa sang Mĩ. Nhưng rồi Hà mang triệu chứng tâm thần, từ chối ân ái với Sa v́ cho rằng đó là loạn luân. Cho đến ngày Hà đánh Sa phải vào bệnh viện. Khi Sa ra viện, Hà đă bỏ đi. Sa bơ vơ trên đất Mĩ không nơi nương tựa. Sa viết thư cho Freddy. Nhận được thư, ngay tối hôm đó Freddy bay tới và khóc với Sa, “I love you” (177). Freddy và Sa kết hôn và sinh được một đứa con gái đặt tên là Sao. “Vàng Sao là tên một vị công chúa (Hmông)” (177). Sa đi học Luật đúng như mơ ước của cha nàng. Về phần Marthe, bà ta rời Sapa về Paris đưa âm nhạc sắc tộc Hmông vào cuộc ḥa tấu của cả thế giới và mỗi năm về Lũng Mây một lần giúp đỡ cho nhà thương Sapa.

 

Đây là câu chuyện đă làm tôi suy nghĩ rất nhiều, chủ yếu là về đời sống và ư nghĩa của đời sống. Cuộc sống ngày nay thật đáng sợ, nó cuốn ta đi với những lo toan, tính toán, để rồi chúng ta đánh mất ư nghĩa của đời sống lúc nào không hay. Có người măi t́m kiếm chính ḿnh mà hóa điên như Hà, cũng có người không t́m nhưng lại gặp được chính ḿnh như Freddy. Nhưng chắc rằng sự sống kỳ diệu và t́nh yêu nảy nở đă giúp Sa có được “cái gắn bó vào tương lai”, nó kéo bật Sa ra khỏi quá khứ thù hằn đau thương của dân tộc, của cha Sa và những vết thương tinh thần mà đời sống gây ra. V́ vậy, con người dù sống trong thời chiến hay thời b́nh, dù mang bất ḱ màu da ḍng máu nào cũng đều cần có t́nh yêu. Tôi tin rằng t́nh yêu là tiếng cồng khuấy động không gian, đưa con người ta đến gần bên nhau và thương yêu nhau.

 

© 2006 talawas