Thanh Tâm Tuyền
Bếp lửa
tiểu thuyết
Tặng Vũ Đạo Ánh
Tựa
Lần in thứ tư (1973)
Malraux có viết: “Người ta không thể nào viết
lại một quyển tiểu thuyết.”
Tôi không tin như thế. Trong nhiều năm sau khi
quyển sách này được xuất bản,
dường như tôi đă h́ hục viết một Bếp
lửa khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát
để cho tái bản, tôi đều muốn
được viết lại nó. Kể cả bây giờ,
sau mười bảy năm.
Đây không phải là quyển tiểu thuyết đầu
tay của tôi.
Quyển đầu tay được một nhà xuất
bản nhận in năm 1955, vào phút chót tôi đổi ư, rút
lại sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp lửa rất có thể đă
chịu chung số phận của quyển đầy tay,
nếu không may mắn gặp ông Nguyễn Đ́nh
Vượng.
Được viết một hơi - khoảng đâu hai
ba tháng - được in ngay sau khi viết - không có một
quăng cách nào để kịp lùi, nh́n lại -, quyển Bếp
lửa là quyển duy nhất của tôi chỉ có
một lần bản thảo.
Trên trang đầu bản thảo có đề câu của
Rimbaud: Je est un autre, nhưng khi đưa in tôi đă
xoá bỏ.
Sách in lần đầu ba ngàn cuốn, chẳng rơ bán
được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được mang bán “son”. Có hai bài viết về quyển
sách: một trên nhật báo Tự Do tại Sài g̣n,
một trên tuần báo Văn Nghệ của Hội
Nhà văn miền Bắc ở Hà Nội.
Tiếc là tôi không có thói quen lưu giữ tài liệu
để có thể in kèm vào sách khi tái bản.
Đại cương cả hai bài viết đều là
lời chê trách giống nhau: quyển sách bi quan tiêu cực.
Bài trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là
một cột điểm sách ngắn vài mươi ḍng
nhưng bây giờ đă mang đến cho tôi hănh diện và
sung sướng. Hănh diện là thứ có ngày nghĩ lại
khiến thẹn thùng. Nhưng sung sướng lúc nào
cũng là sung sướng, dù cùng với thời gian có
thể lẫn vẻ bùi ngùi. [1]
Tôi sung sướng nghĩ các bạn tôi ở Hà Nội
đọc cột báo ấy, biết được tôi
vẫn nhớ họ, đă viết về họ, về
những ngày của chúng tôi. Họ có thể tức tối
căm giận, nhưng chắc họ cũng cảm
động bồi hồi.
Mười bẩy năm đă qua.
Kinh nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng.
Tôi đă loay hoay quá lâu với một quyển sách. Lần
này tôi quyết định để là ấn bản chung
quyết.
Tôi hiểu đă đến lúc nên viết những
quyển sách khác.
Tháng 3-73
Thanh Tâm Tuyền
Tựa
Lần in thứ hai (1965)
Cuốn sách mỏng manh, non nớt và chưa thành h́nh dáng này
của một người mới lớn lên. Hắn
lớn lên trong một thành phố đă mất, thành
phố bị vây hăm như một ḥn cù lao nổi chờ
ngày tan ră không để lại dấu vết, Hắn
đọc Marx t́m thấy giấc mộng “biến cải
thế giới”, đọc Rimbaud t́m thấy giấc
mộng “thay đổi cuộc đời”, đọc Dostoievski
t́m thấy thái độ “tất cả hay không có ǵ
hết” đọc Gide t́m thấy “đời sống thành
khẩn trung thực”, đọc Malraux t́m thấy cái hào
quang của trí tuệ đối đầu với
Định Mệnh, đọc Sartre t́m thấy “cuộc
hiện sinh tự do và lựa chọn”. Hắn lớn lên
cùng bè bạn, vượt qua mau tuổi trẻ để
suy nghĩ và mơ ước hành động. Mỗi
đứa một lối văn ḿnh theo mỗi cám dỗ
lớn lao của hư vô. Hắn ĺa bỏ quê hương,
chia tay với bè bạn, dấn ḿnh vào lịch sử,
đuổi theo giấc phiêu lưu của trí tuệ:
sự thật được tạo nên từ niềm
hư vô của tuổi trẻ bị tước
đoạt.
Bây giờ hắn ba mươi tuổi, hắn vẫn quay
tṛn như một nỗi tự do trống rỗng, không làm
được ǵ hơn ngoài một lựa chọn - khó
khăn và buồn tủi -: trở thành một nhà văn.
Lúc hắn viết cuốn sách này hắn chưa phải là
một nhà văn, không muốn là một nhà văn. Hắn
chưa biết ḿnh muốn ǵ v́ hắn muốn tất
cả. Hắn viết với ư nghĩ trong khi ḿnh viết,
người khác chết. Ư nghĩ làm tê liệt hứng
khởi tạo tác. Nên sau cuốn sách được in t́nh
cờ, không dự tính, hắn nằm im trong sự bất
lực hổ thẹn, hắn phá phách tiêu huỷ không
thể hoàn thành những dự thảo, phóng tưởng
kế tiếp. Mỗi ngày mỗi nghiền ngẫm trong
bất giác của các t́nh thế kinh nghiệm, hắn
nhận thức hắn chỉ là một nhà văn, không
thế lực và hèn mọn như mỗi người -
một nhà văn bị d́m ngập trong thời đại
và xă hội của ḿnh như giới hạn tự nhiên
của cơi sống và cơi chết. Hắn dứt bỏ
được những mê hoặc, ảo ảnh - về
vai tṛ của nhà văn - của thứ tiếng nói hoàn toàn
vang động và làm biến dạng đựơc sự
vật một cách cụ thể. Tiếng nói của văn
chương chỉ là những lời thầm th́ giữa
những hỗn độn của lịch sử, lời
cô đơn không sức mạnh v́ bị lấn áp về
mọi phía.
Sự kiêu hănh của tuổi nhỏ nhường chỗ
cho sự b́nh tĩnh ư thức. Hắn bắt đầu
cầm bút thực sự, làm việc giữa những
đổ vỡ xáo trộn thách thức. Đối
với hắn, cuộc lựa chọn gay go nhất đă
xong, hắn biết hắn chỉ c̣n một tiếng nói
để t́m kiếm bè bạn và quê hương.
Người được đề tặng sách này đă
chết.
Hắn, tên Vũ Đạo Ánh, chết vào một buổi
sáng chủ nhật đầu tháng 9 năm 1964, tại
một khu rừng tỉnh B́nh Dương, một viên
đạn xuyên ngực năm mới ngoài ba mươi
tuổi. Vào buổi chiều cuối tháng tám, hắn c̣n
đứng trước một căn nhà trong hẻm
ngoại ô, nh́n qua cửa sổ, đèn trong nhà thắp sáng
như mọi người đi vắng, cất tiếng
gọi. Như những ngày mùa thu, mùa đông nơi thành
phố xa khuất cũng hơi ngửa đầu lên cao
liếc mầu trời sẫm màu, hắn gọi
đứa bạn của thời niên thiếu nghèo
khốn, gọi những mộng phiêu lưu đă bị
nghiền nát của tuổi trẻ như một Thiên
đường cửa đóng. Hắn lủi thủi
trở về như kẻ bị bỏ rơi, chạy qua
thành phố Sài G̣n buổi tối c̣n ngơ ngác những âm
vang của mấy ngày hỗn loạn. Có lẽ hắn
nhớ tới thành phố của tuổi trẻ, như
nhớ tới mấy đứa bạn, hắn đă
chạy cuống trong đó trên chiếc xe đạp
tồi tàn giữa những ngày tháng rách bươm, mơ
ước cái cơ hội kết tập được
ngày tháng tan ră thành một đời ư nghĩa. Có lẽ
hắn muốn gặp đứa bạn để
hỏi: tại sao mày không viết được ǵ thêm
nữa ngoài cuốn sách để tặng tao? Cuốn sách
hắn nhận được vào một ngày cuối
năm nào khi c̣n đóng đồn trên sườn núi ngoài
Trung nhớ quê hương đă ĺa bỏ với mẹ và
gia đ́nh ở lại, cuốn sách vợ hắn mang
liệm theo xác như một kỷ niệm hắn muốn
mang đi. Hắn không gặp đứa bạn và tự
hỏi: Nó ra sao? Đă lâu hắn không gặp, như ngày nào
trong thành phố hoài nghi và khắc khoải, hắn
thường t́m bạn và hỏi: thế nào, chúng ḿnh sẽ
đi về đâu?
Hắn chết gục nên một gốc cây mau lẹ, không
đau đớn. Hắn nằm đó, ngoẹo sang
một bên, gối lên cỏ như một người
ngủ mệt sau đoạn đường hiểm
trở của Định Mệnh - Định Mệnh
của một thế hệ, những người c̣n
sống là kẻ sống sót. Hắn đă đi từ
tuổi trẻ bị tước đoạt, tới
nằm đó trong khu rừng giữa cuộc chiến
phơi ḿnh làm một sự thật thô sơ: ở đây,
trong xứ sở khốn nạn này, cuộc chiến
phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu
trốn chạy ngông cuồng. Cái chết của hắn
không phải là một huyền thoại Rimbaud, một
huyền thoại Lawrence, tên bạn hắn hiểu
được như vậy.
Chúng muốn ǵ? Người chết cho kẻ khác sống
sót. Chúng muốn ǵ?
Những nhà phê b́nh ở Hà Nội đă gọi các nhân
vật trong cuốn sách này là bọn tôi mọi nô lệ,
họ hỏi: trong khi họ xây dựng xă hội chủ
nghĩa, bọn này đi đâu? Những người
ở Hà Nội không khi nào tự đặt câu hỏi
với ḿnh, những câu họ thường đặt cho
kẻ địch. Bọn chúng đă đi trong thống
khổ của lịch sử với cái chết, cái
chết như sự từ chối quyết liệt.
Tại sao? Đáng lẽ họ phải tự hỏi:
tại sao? Cái chết lựa chọn không phi lư, nó sẽ
làm nảy sinh sự thật, sự thật của
những người chết truyền lưu cho kẻ
sống sót.
Mỗi nhà văn chính là một kẻ sống sót.
Sài G̣n, 1965
Thanh Tâm Tuyền
[1]"… c’est que l’idéal, jusqu’à présent, a été la véritable force de dénigrement appliquée au monde et à l’homme… la grande tentation du néant." Nietzsche (La volonté de puissance)
Nguồn: Thanh Tâm Tuyền. Bếp lửa. Tiểu thuyết. Ấn bản chung quyết, kèm Tựa lần in thứ hai (1965), Tựa lần in thứ tư (1973) và Bạt của Huỳnh Phan Anh. B́a tranh sơn dầu “Bích đào” của Thái Tuấn. Kẻ Sĩ xuất bản lần thứ tư 4100 ấn bản quư trên giấy trắng dày. Sài G̣n, tháng 3 năm 1973. Giấy phép số 582/PTUDV/PHBCNT/KSALP ngày 19-3-73. In tại nhà in Quốc Ấn, 324 Phan Thanh Giản, Sài G̣n. Bản điện tử do talawas thực hiện.
*
1.
Tôi t́m Thanh ở chỗ làm việc của nàng. Thanh là em
họ tôi.
Bên trong cửa hiệu những cô gái chăm chú vào công
việc của họ. Thanh bỏ cuộn len hồng
xuống phản đón tôi. Nàng cười:
“Em đang có ư muốn gặp anh lắm.”
Tôi gật đầu. Người con gái đứng
tuổi ngồi ở máy ngước mắt nh́n tôi có
vẻ nghi ngờ. Có lẽ cô là người điển
khiển cửa hiệu. Tôi lễ phép chào cô, lần
thứ nhất tôi đến đây. Tôi bảo Thanh:
“Thế nào cô đă giúp anh việc anh nhờ chưa?”
“Sẵn sàng rồi ạ. Anh đợi em một tư.”
Thanh quay vào trong t́m kiếm. Trong khi ấy tôi ngắm
những tủ kính sáng bầy vải vóc, len sợi,
những chiếc áo dài, áo len đă hoàn thành. Tôi nh́n những
ngón tay thoăn thoắt với mũi đan và tấm
vải dạ trải dưới những mái cúi.
Người con gái đứng tuổi ở bàn máy lên
tiếng:
“Mời ông ngồi chơi.”
Tôi hơi nhích người đáp lễ:
“Cám ơn cô.”
Và tôi vẫn đứng nguyên cạnh quầy hàng. Thanh
đưa cho tôi một gói giấy báo và mở ra nói:
“Chỉ mới có khăn quàng thôi, áo th́ em chưa t́m
được cái nào vừa ư cả.”
Tôi không nh́n đến màu của cái khăn và gói gọn
lại.
“Cám ơn cô lắm. Áo th́ cô mua sau hộ anh cũng
được.”
Tôi vừa định trở gót.
“Anh chờ em, em có câu chuyện muốn nói với anh – Thanh
quay nói với người con gái đứng tuổi
ngồi ở máy - Chị Nga em ra ngoài một lát chị
nhé.”
Nga tươi cười dễ dăi và tôi cúi chào nàng nói
khẽ: “Xin phép cô.”
Ra đến ngoài hè, tôi hỏi:
“Minh đă đi học rồi chứ. Có chuyện ǵ quan trọng
lắm không cô?”
Thanh không trả lời vào câu hỏi của tôi:
“Anh nên mời em uống một cái ǵ cho ấm bụng.”
“Cô phải để anh kiểm lại ngân sách cái đă.”
Tôi cười và lúc này gió nhiều ở chùm cây trên
đầu.
“Anh làm như anh nghèo lắm ấy.”
“Cũng tạm thôi.”
Thanh đưa tôi vào tiệm trà đầu phố. Tôi
gọi cho tôi một cốc cà phê nóng và Thanh một cốc
sữa. Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa c̣n xa.
Trong tiệm nước chỉ có hai chúng tôi. Thanh choàng cái
khăn đỏ mỏng suốt làm má đỏ hồng.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè
nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp. Nàng
đang đưa ngón tay vạch trên thành cốc.
“Cô có biết là cô nổi danh rồi không?”
“Ai bảo anh thế?
“Tôi bắt đầu phải nghe cô.”
“Hân hạnh.”
Thanh hát trên đài vô tuyến được vài tháng nay. Giọng
nàng ấm và buồn. Lúc thường tính t́nh Thanh vui vẻ
đua nghịch bao nhiêu th́ lúc hát giọng Thanh ướt
nước mắt bấy nhiêu. Tôi không ưa âm nhạc mà
nghe Thanh hát cũng cảm động. Thanh mồ côi cha
mẹ và c̣n em gái là Minh. Hai chị em đùm bọc nhau
từ ngày hồi cư bằng nghề đan may của
Thanh. Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở
cho Thanh, dây thân thích giữa chúng tôi không đáng kể. Có
lẽ Thanh cũng cảm thấy điều ấy ở
tôi và sẵn sàng thuận ư nếu tôi ngỏ lời – Thanh
th́ không dám bộc lộ trước v́ đối với
tôi sự kính nể của nàng rất to lớn. Nhưng
tôi chưa bao giờ nói ư nghĩ của tôi cả.
“Anh Tâm”, Thanh ngừng một chút và ngón tay đứng
lại trên mặt bàn. “Hiền hỏi thăm anh…”
Tôi biết đây không phải là câu Thanh định nói
với tôi, tôi tuy thế cũng gật đầu
để làm vừa ḷng nàng. Hiền là người yêu
cũ của tôi.
“Hiền vẫn mạnh khoẻ chứ? Bao giờ th́ chia
trầu cau.” Tôi hỏi gỡ rối cho Thanh.
“Hiền c̣n đợi anh.”
“Cô không nịnh anh cô đấy chứ?”
Thanh nh́n tôi trách móc cho tôi đùa quá đáng bởi v́ tôi
cười hơi lớn. Thanh lại im lặng và tôi nh́n
vào cái khăn đỏ suốt để đừng
phải nghĩ về Hiền. Một lát Thanh hỏi:
“Anh quen thân với anh Chu phải không anh?”
Tôi hơi ngạc nhiên những câu trả lời:
“Có lẽ.”
Thanh tỏ ư không hiểu câu trả lời. Năm 45, ngày tiếng
súng nổ ở Nam Bộ, Chu và tôi là đôi bạn thân cùng
đi từ Nam ra Bắc. Cuộc hành tŕnh của chúng tôi
bằng xe lửa cho tới Đà Nẵng và thuyền
Đà Nẵng trở ra. Chính trong không khí vừa vui mừng
vừa Hà Nội và cũng ở Hà Nội tôi và Hiền yêu
nhau một năm trước ngày kháng chiến. Mối t́nh
của chúng tôi càng tha thiết đằm thắm gắn bó
khi không khí chiến tranh, chết chóc tàn phá cũng mănh
liệt. Lần gặp gỡ đầu vào một đêm
tối ở một đại lộ vắng. Trời
không lạnh lắm. Không bao giờ tôi quên được
người ta giết nhau trứơc mắt chúng tôi lúc
đó. Trong đêm tối một tiếng la thất thanh
rồi hai người bỏ chạy. Tôi không kịp
cảm, suy nghĩ ǵ hết. Hiền run như một con
chim nhỏ trong cánh tay tôi. Chúng tôi ôm nhau đứng
đấy cho đến khi hồi tỉnh và lặng
lẽ rẽ sang phố khác. Người chết vẫn
nằm kia. Về Hà Nội trở lại, tôi không thể
yêu Hiền được nữa, mặc dù Hiền không
quên tôi.
“Thế nghĩa là thế nào?”
“Nghĩa là trước là thân mà bây giờ th́ thôi.”
“Cô không phải là đàn ông. Hôm nay người ta có thể
thân nhau lắm mà ngày mai đă hững hờ rồi, v́
nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên
cớ nào hết. Rồi người ta lại có những
người thân khác, thân khác nữa, ở mỗi ngày,
mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc
sống.”
Thanh đă trở lại ngoan ngoăn. Nàng nh́n tôi đôi mắt
phục tùng. Tôi hỏi:
“Nhưng tại sao cô lại hỏi tôi về Chu?”
Thanh không trả lời ngay và có vẻ đăm chiêu. Chu
bây giờ làm một hăng buôn ngoại quốc. Tôi chỉ
gặp Chu một lần từ ngày hồi cư. Câu nói
đùa của tôi với Chu là:
“Cậu thôi nghiên cứu vấn đề khủng
hoảng kinh tế rồi ư?”
Chu thật thà đáp:
“Chuyện viển vông chẳng ích lợi ǵ cả.”
Tôi lại hỏi Thanh”
“Tại sao cô lại hỏi tôi về Chu?’
“Cô Nghĩa bảo Chu muốn đánh tiếng hỏi em.”
“Nếu thế Chu là một người chồng tốt.”
“Cô nghĩ thế nào về chuyện ấy.”
“Em muốn hỏi ư kiến anh.”
“Cô hoàn toàn tự do.”
Thanh trông thẳng vào mắt tôi, giọng buồn như lúc
nàng hát:
“Chúng em cũng chỉ c̣n anh gọi là thân, bởi thế em
muốn được ư kiến anh về câu chuyện quan
trọng này.”
Tôi nghiêm nét mặt:
“Cô cũng biết là tôi cũng chỉ có cô và Minh là thân
thuộc…”
Tôi uống nốt cặn cà phê và im. Rồi tôi nói sau
một lúc lâu:
“Cô để cho tôi suy nghĩ, trả lời cô sau.”
Nói thế, nhưng tôi không biết tôi sẽ suy nghĩ
về cái ǵ.
Khi đứng lên, Thanh nhắc:
“Anh cầm gói khăn quàng chưa?”
Tôi đưa Thanh về đến cửa hiệu và đi
xe điện xuống chợ Hôm thăm Đại. từ
chỗ đỗ xe điện, tôi đi bộ qua một
phố không trải nhựa rồi lên những viên đá
xanh, đến phố Ḷ Đúc.
Căn nhà gác ba từng quét vôi đă đỏ uá, già nua. Qua
một cái sân nhớp nước, tôi leo lên cầu thang
ẩm mốc hôi hám. Gian buồng của Đại ở
từng ba là gian buồng chứa vật dụng cũ
bỏ không cho thuê với giá ba trăn đồng. Buồng
kê vừa gọn một cái giường và cái bàn gỗ
không có ghế thừa đủ một chỗ trống
để bước vào trèo lên giường. Ngoài căn
buồng là khoảng sân trời có những dây thép giăng
ngang làm nơi phơi quần áo của những gia đ́nh
ở từng gác hai. Hôm nay trời nhiều hơi
nước nên sân quang đăng.
Đại ngồi co ro ở một góc phản đọc
sách. C̣n một người thanh niên nữa ngồi học
trước bàn. Tôi nói:
“Tôi mang xuống cho cậu cái khăn quàng.”
Đại mở gói: đó là một cái khăn dạ màu
xám. Tôi tiếp lời:
“Để dùng lúc nào ra ngoài thôi, ở đây đóng cửa
lại th́ ấm chán.”
Đại cười chỉ lên chỗ những miếng
trống h́nh chữ nhật dẹp cao hai bên giường:
“Anh đừng tưởng tượng, lạnh ghê
lắm nhé. Gió hút, tôi phải hy sinh ánh sáng, dán giấy bít, mà
gió c̣n thổi rách như thường.”
Chúng tôi bước ra sân. Người thanh niên vẫn
chăm chú làm việc không để ư đến sự có
mặt của tôi. Đại cầm ở tay cuốn Crime
et châtiment. Tôi hỏi:
“Cậu đến trường luôn không?’’
“Không.’’
“Làm ǵ ở nhà?’’
“Đọc sách và suy nghĩ.’’
“Suy nghĩ về phép giết người chăng?’’, tôi nói
đùa.
Đai không đáp. Chúng tôi đứng nh́n xuống khu xóm lao
động phía dưới. Đại bỗng nói:
“Nó đến trường t́m ḿnh dữ lắm.’’
“Cậu quyết định thế nào?’’
Đại trầm ngâm một phút:
“Chưa.’’
Đại là sinh viên khoa học, đă qua được
chứng chỉ căn bản. Hắn bị gọi
động viên và đang trốn.
“Nghĩ ǵ về Dostoievski?’’ Tôi hỏi.
“Bệnh.’’
Tôi không ưa lối nói cụt lủn của Đại.
Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng
sản. Những căn nhà thấp đă bốc khói. Không
khí ấm hơn. Tôi nh́n bâng quơ những ngọn cây.
“C̣n cậu có ǵ thay đổi không?’’ Hắn hỏi tay
lật tiếp mấy trang sách.
“Chiều mai tôi sang Bắc Ninh.’’
Tôi chợt nhớ đến lời hứa với Thanh
sẽ cho Thanh biết ư kiến ḿnh về việc của
Chu và nàng. Nhưng tôi không cho là quan trọng, Thanh sẽ
quyết định theo ư riêng của nàng.
“Tại sao lại bỏ Hà Nội?’’
“Tôi chán đây rồi. Sang bên ấy ở ẩn cho qua
ngày.’’
“Có chắc ẩn được hay không?’’
“Không biết. Nhưng chắc được, ở ngay
trong trường với các linh mục. Bên này nó nghi ngờ
những liên lạc và hành vi của ḿnh quá rồi.’’
“Những liên lạc hành vi nào?’’ Đại hỏi ngạc
nhiên.
“Một vài chỗ quen biết hoạt động nội
thành, một vài chỗ các đảng phái khác, thư
từ, sách đọc, công việc cũng đủ làm nó
khó chịu, c̣n ǵ hơn.’’
Tôi ngồi trên bực gạch. Đại trông thẳng
mặt tôi nghiêm trang. Hắn móc túi đưa cho tôi một
lá thư.
“Thư của người bạn ở chiến khu Tŕnh
Minh Thế.’’
Tôi nh́n qua rồi trao trả cho Đại. Hắn vừa
cất lá thư vừa nói:
“Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ không thể
đi khác hơn được. Nó c̣n đúng. Ḿnh c̣n
phải nhắm mắt nhận lấy thân phận của
giai cấp ḿnh.’’
Nó - Đại muốn nói về chủ nghĩa cộng
sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại
để sang bên và trông vào tấm h́nh. Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng tôi lại muốn
nghĩ thêm chút nữa. Tôi không nghĩ đến thân
phận giai cấp ḿnh, tôi muốn nghĩ đến thân
phận giai cấp khác, thân phận ngay chính giai cấp vô
sản ấy.’’
“Làm thế nào được khi đế quốc c̣n
đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng
thứ ba.’’
Câu chuyện ngừng ở đấy như thường
lệ. Chúng tôi gặp nhau v́ cùng ham thích nghiên cứu chủ
nghĩa mác-xít. Trong khi trở vào buồng. Đại
bảo:
“Tôi đang bị đuổi nhà.’’
Người thanh niên vẫn làm việc đều
đặn.
Tôi nói:
“Tiện cậu xuống nhà tôi.’’
“Cậu vắng nhà?’’
“Không sao. Ông Chính dễ dăi.’’
Và tôi ra về. Đại đưa tôi xuống tận
dưới đường và h́nh như c̣n điều ǵ
muốn nói.
Ông Chính không về nhà buổi trưa. Tôi ở thư
viện buổi chiều. Mưa bụi suốt. Chưa
đến sáu giờ trời đă sập xuống. Tôi
rời thư viện khi những ngọn đèn treo
được bật soi trên các mặt bàn gỗ dài phẳng
nhẵn và ḷ sưởi sắt dưới chân các cột
được đốt lên. Tôi gặp ông Chính ở
phố Hàng Trống nhưng chúng tôi làm như không nhận
ra nhau dù hai người đă đi ngược chiều
trên cùng một bờ hè. Tôi kéo cao cổ áo choàng và nh́n sang
phái bên hồ.
Tôi về nhà bẩy giờ, ông Chính vẫn vắng mặt.
Tôi đợi ông đến quá bẩy giờ rưỡi.
Người thổi cơm ở chung nhà mang cơm sang và
hỏi:
“Cụ chưa về thưa ông?’’
“Có lẽ cụ tôi không về ăn bữa nay.’’
Tôi ngồi ăn mỗi ḿnh. Chín giờ ông Chính về. Tôi
nghe được tiếng chân ông từ ngoài ngơ. Tôi đă
đi nằm v́ buổi trưa không ngủ và tinh thần
căng thẳng sau mấy tiếng đồng hồ vùi
đầu trong thư viện. Ông Chính thay quần áo,
sửa soạn giường của ông, xong lên
giường nằm đọc sách.
Chúng tôi biết sắp phải nói với nhau nhưng
chưa ai mở đầu.
Ông Chính là cha ghẻ của tôi. Sau khi mẹ tôi mất
đi, ông c̣n đủ tuổi để có thể lập
một gia đ́nh mới và tôi cũng có thể bỏ ông để
sống độc thân. Dù vậy chúng tôi không xa nhau. Có
lẽ chúng tôi rất thương nhau nhưng v́ ít nói
hoặc v́ lẽ ǵ đó chúng tôi không được tự
nhiên khi gần nhau. Chúng tôi làm việc chung một
trường mà tôi chắc ít người rơ sự liên
lạc giữa chúng tôi. Khi tính chuyện rời Hà Nội,
tôi có nghĩ đến sự thoải mái cho hai
người. Mỗi người chúng tôi theo đuổi
một cuộc đời riêng. Tôi nghe ông Chính trở dậy
t́m nước uống và tôi cũng ngồi lên. Trong khi rót
nước, ông hỏi tôi:
“Anh đă nói với trường là anh nghỉ phải không.”
Tôi ngượng ngùng vài giây và trả lời:
“Vâng, tôi cũng định ngày mai nói với thầy mai tôi
sang bên ấy.”
“Bắc Ninh?”
“Vâng, một trường công giáo.”
Chúng tôi đă bước qua sự khó khăn và ông Chính
đến ngồi trước mặt tôi. Mỗi lần
như thế tôi biết ông muốn nói với tôi
điều ǵ quan trọng. Ông Chính nói:
“Chắc anh đă tính kỹ rồi?”
“Vâng.”
“Theo tôi anh vẫn có thể ở Hà Nội
được.”
Tôi không trả lời mà nh́n thẳng vào ông. Tôi muốn
bảo: “Ông không hiểu được chúng tôi.” Ông Chính
đă già xuống nhiều, bàn tay ông úp sấp nổi gân và
run. Năm 45, ông là đảng viên Việt Nam Quốc dân
Đảng và có dự vào cuộc tương tàn lịch
sử. Tuy thế tôi cho là hai thế hệ gần nhau
nhất vẫn khó đồng ư với nhau.
“Ở tỉnh nhỏ là một điều phiền
phức.” Vẫn ông Chính nói, “Nhất là…”
“Không, nếu ḿnh chẳng làm ǵ cũng không ngại.”
“Anh không thấy bên ấy không được an ninh lắm
hay sao?”
Tôi lấy cớ đứng lên rót nước uống
để chưa trả lời ngay. Xong tôi nói:
“Dạ, tôi cũng thích sống cái không khí bất trắc
một chút. Ở đây có lẽ b́nh yên quá.”
Thật ra thành phố này cũng chẳng b́nh yên. Thỉnh
thoảng nó vẫn rung động v́ những tiếng
nổ lớn vây quanh và đèn pha thường đốt
sáng khoảng trời đen của nó về đêm tối.
Ông Chính nhíu mày. Tôi đă ngồi lại trước mặt
ông. Ông hỏi:
“Trường bên ấy có khá không?”
“Lớn và đẹp. Tôi được một buồng
yên tĩnh để làm việc và cơm nước
cũng do nhà trường lo.”
Ông Chính ngồi im, lưng cúi xuống. Tôi nghĩ chúng tôi
sắp chia tay đi nghỉ. Ngoài trời mưa thành
hạt lên tiếng, hắt qua cửa sổ vào đến
chỗ chúng tôi.
“Mai anh đi buổi sáng hay chiều?”
“Dạ chiều. Chiều để tránh ḿn.”
Ông Chính đứng lên khép cửa và cửa sổ. Bóng ông in
lên vách. Ông dừng một phút nh́n qua cửa sổ ra ngoài và
hỏi tôi - mưa lúc ấy đổ mạnh khiến
tiếng ông thấp thoáng và tôi sởn gai ốc khắp
người v́ lạnh:
“Anh Tâm. Tôi muốn anh thành thật trả lời câu hỏi
này của tôi.” Vài giây cách quăng, mưa to hơn. “Giữa
chúng ta có xảy ra một chuyện ǵ không đẹp không?
Anh cứ nói thẳng với tôi.”
Tôi muốn đứng dậy, nhưng không rời chỗ.
Tôi nghe trong tiếng mưa vẫn c̣n vang tiếng của
ông Chính khắp gian pḥng.
“Thưa thầy không bao giờ tôi nghĩ lại có thể
có câu hỏi ấy giữa thầy và tôi.” Tôi bị xúc
động mạnh.
Ông Chính đă quay người lại. Mắt ông chớp
nhanh, ông nói:
“Tôi muốn giữa chúng ta có được sự
thẳng thắn.” Ông nuốt nước bọt. “Dù
thế nào chúng ta cũng đă sống với nhau hơn
mười lăm năm, lúc có mẹ cũng như
lúc không. Lúc nào tôi cũng coi anh là người thân nhất
của đời tôi và tôi chắc anh cũng như tôi v́
anh cũng chẳng c̣n ai thân thích. Trước khi lấy mẹ,
tôi có một đứa con gái nhưng chúng tôi không sống
gần nhau…”
Ông Chính không gọi mẹ anh, ông gọi mẹ
để tỏ sự kính trọng. Sự có mặt
của người đàn bà ấy hiện lên giữa chúng
tôi. Chính người đàn bà đau khổ cho đến
khi nhắm mắt ấy là người buộc chúng tôi
với nhau. Ngay những giờ phút mong manh nhất,
người vẫn với sự âm thầm cố hữu
nối kết chúng tôi; năm 45 tôi ở miền Nam, c̣m ông
Chính ở biên giới Trung Hoa và rồi chúng tôi lại
trở về bên người đàn bà ấy. Và chính bây
giờ vẫn c̣n người ấy, măi măi chăng?
Bắp thịt má ông Chính giật giật. Tôi bàng hoàng nói:
“Thầy đừng nên có ư nghĩ ấy. Không hề có
một câu chuyện nhỏ nào cả. Nếu có chỉ là
sự vụng về của tôi khiến thầy nghi
ngờ th́ tôi xin lỗi thầy. Thầy cũng hiểu
những điều dự tính riêng, nhưng bao giờ tôi
vẫn là con thầy như khi c̣n mẹ và…”
Mưa dịu hơn lúc trước. Ông Chính ngồi
xuống.
Chúng tôi đi nằm vào lúc mười một giờ. Tôi
thao thức không sao ngủ được. Mưa dầm và
lạnh. Ông Chính chong đèn đọc sách khuya. Tôi biết
ông cũng không ngủ được. Tôi thương ông vô
cùng, sự già cả và cô đơn vây lấy ông. Tôi
nhớ đến ngày giỗ mẹ tôi vừa qua, chúng tôi
không ai làm ǵ cả; buổi tối hôm ấy, ông Chính không
về nhà và tôi đi ngủ sớm. Giá có một
người đàn bà chúng tôi sẽ thân nhau ở những
chuyện nhỏ nhặt ấy. Khi tôi ngủ, đèn
đọc sách của ông Chính vẫn sáng.
Gần ba giờ sáng. Mưa rơi sâu vào giấc mơ.
2.
Chiều nay là chiều thứ bảy.
Tôi khởi hành khi ông Chính vắng nhà. Hành lư gồm ba bộ
quần áo mặc ngoài, ba bộ lót ḿnh, tài liệu giáo khoa,
một vài cuốn tiểu thuyết và thơ ưa thích
trong một va ly nhỏ xách tay.
Ra bến xe, tôi qua những phố Tiên Tsin, Hàng Mă, Hàng
Chiếu, Ô Quan Chưởng. Lúc qua ngă tư Hàng
Đường, tôi nh́n thấy đám đông ở
dưới chợ Đồng Xuân và trên đầu Hàng
Đào. Tôi có thể nán lại cho đến chiều
chủ nhật nhưng tôi không muốn.
Chuyến xe nhỏ đưa tôi sang Bắc Ninh với
tất cả buổi chiều theo nó. Hành khách chỉ có
bốn người – hai người lái buôn ăn mặc
nửa tỉnh nửa quê, và một người chừng
có chức nghiệp ở tỉnh nhỏ và tôi. Không có
đàn bà. Tôi và người chừng có chức nghiệp
chia nhau trả tiền những chỗ trống để
xe chạy sớm. Tôi ngồi cạnh người tài
xế.
Qua Gia Lâm chuyến xe từ biệt những người
bạn đường số 5 của nó, giờ này đă
thưa, để chạy vào con đường riêng
lẻ loi. Khỏi Cầu Đuống, tôi hoàn toàn ngồi
trong sự bỡ ngỡ. Sở dĩ tôi biết
được Cầu Đuống không phải v́ tôi
nhận ra nó mà chỉ v́ tôi biết tôi phải qua Cầu
Đuống. Cây cầu cũng tẻ nhạt như
cảnh xung quanh: đồng ruộng, nhà cửa, chợ
búa, rào gai, điếm canh, ḍng sông và những người
lính gác, những người khám xe, những người
bán hàng bên đường. Cây cầu kêu dưới bánh xe
với tiếng nước xoáy lạnh dưới chân
trong buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngă.
Người tài xế đă giụi tắt mẩu
thuốc lá để rớt những đường khói
nhạt trên mặt kính và tàn lên tay lái. Không ai nói với nhau
lời nào.
Tôi không nhận ra đâu là Yên Viên, đâu là Phủ Từ.
Cảnh quen mắt và không thay đổi: những dăy
chợ lá lèo tèo vắng ngắt, những người nhà
quê ngồi xổm co ro mặt tái ngoét hai tay thu vào bụng.
Thỉnh thoảng một chiếc xe hàng quay mũi vào
lớp chợ thấp chờ đợi với sự
trống trải yếu ớt. Không hiểu làm cách nào
những chiếc xe ấy có thể về kịp thành
phố trước khi người ta cấm cầu? Không
ai nói một lời nào. Mọi người đều
lạ nhau.
Tôi châm lửa đốt thuốc lá.
Chuyến xe đă đến gặp núi. Núi tím lớn làm
nhỏ cả thế giới hiện có của chúng tôi.
Những khu đồn chiến tranh với nứa
nhọn, dây thép gai đứng đấy cho chiếc xe
đi vào giữa. Đá xanh nhỏ bắn rào sang hai bên
đường. Trên cḥi canh, hai con mắt người lính
gác tối đen nh́n sang núi.
Chuyến xe dừng lại trạm kiểm soát
trước khi vào t́nh lỵ. Trong trạm người ta
đă thắp đèn. Chúng tôi lần lượt tŕnh
thẻ căn cước. Ở trong trạm người
ta nói chuyện với nhau không to lắm. Xe không chạy
thẳng vào phố mà đi ṿng quanh những khoảng
đường c̣n bỏ hoang. Bến xe thưa. Hàng quán
vắng người, có những gian quán trống. Không c̣n
chuyến xe nào trở về Hà Nội. Chỉ c̣n vài
chiếc đậu đấy bỏ không.
Tôi đứng xuống và xốc lại cổ áo,
trước mô đất cao chạy dài như con đê.
Trước kia đường xe lửa chạy trên
ấy và đây là ga xe lửa. Con đường dốc
Cầu Gỗ nhập vào bến xe, tôi không bước lên
để nh́n xuống phía bên kia dốc.
Tôi đi bộ về trường. Các cửa hàng bắt
đầu đóng. Hè đường là những nhóm binh
sĩ tụ tập rong chơi. Điện th́ mỏng
như cánh chỉ một vài tiệm nước treo đèn
măng sông ra trước cửa.
“Thầy là thầy Tâm."
Đó là câu hỏi đầu tiên riêng cho tôi ở buổi
chiều nay của ông già gác trường, ngồi trên
bực đá dưới mái hiên sâu thẳng cổng vào. Ông
mặc một cái áo vét tông đă hỏng vai.
Tôi trả lời:
"Phải."
Ông già đưa tôi vào pḥng khách nói:
"Thầy đợi đây, tôi đi mời cha Tân."
Ông bỏ tôi một ḿnh và quên bật đèn.
Cha Tân vào, ông già đứng sau lưng. Cha bật đèn lên
và hỏi:
"Chào thầy, thầy đi đường có mệt
không?"
Chúng tôi bắt tay nhau và tôi trả lời:
"Cám ơn cha, giời lạnh nên không mệt
lắm."
Trong khi đưa tôi về pḥng riêng, chúng tôi đi qua dăy
hành lang sâu tối om và vang vang trước những lớp
học nghỉ ngơi, cha Tân nói:
"Tôi tưởng thầy không sang hôm nay."
Tôi hỏi:
"Tại sao cha lại đoán thế?"
Ông già sách va ly của tôi đi sau.
"Hôm nay chiều thứ bẩy mà", cha Tân cười
thành tiếng. "Các thầy ở bên này về chơi Hà
Nội cả rồi. Thầy vắng bạn."
"Ồ, thứ hai các thầy ấy phải trở
về chứ, thưa cha?’’
"Tất nhiên’’, cha vừa nói vừa làm tiếng chậc
chậc trong miệng.
Chúng tôi cùng cười. Gian buồng của tôi ở trên
gác. Tôi lại phải đi qua một cái hành lang sâu như
ở dưới nữa v́ buồng gần cuối dăy. Khi
chúng tôi hết nói chuyện, tôi nghe tiếng sột soạt
của bộ áo nhà tu bên cạnh và tiếng chân không
đều của ông già gác. Những căn pḥng đóng
chặt cửa.
Đứng lại trước cửa buồng của tôi,
cha Tân dùng ch́a khoá mở cửa và bảo:
"Đây là buồng của thầy. Thầy cần
điều ǵ cứ hỏi.’’ Cha quay sang ông già gác vẫn
xách cái va ly trên tay: "Ông đưa thầy đi rửa
mặt nghỉ ngơi để dùng bữa.’’
"Cảm ơn cha.’’
Người tu sĩ bước trở lại vào bóng
tối sâu hút với tiếng sột soạt của bộ
áo xa dần. C̣n hai người, ông già đặt va ly lên
một cái ghế và bật đèn. Đó là một căn
buồng vuông vắn. Ở một góc kê một cái
giường sắt cho một người, một bàn
đêm đầu giường, một bàn lớn làm
việc giữa buồng với hai cái ghế. Buồng có
một cửa sổ đối với cửa ra vào. Trên
tường treo một chữ thập lớn bằng
gỗ, tượng bạc chạm nổi. Tôi thay quần
áo và ông già thu dọn lại giường chiếu. Tôi yêu
cầu ông phụ tôi kê lại cái bàn làm việc vào một
góc khuất. Ông già không nói ǵ nữa.
Ông đưa tôi đến pḥng rửa mặt ở
đầu dăy.
Tôi xuống pḥng ăn, một pḥng rộng và dài, ở phía
trong và cuối sân, nền đất. Gian pḥng rất
rộng chỉ kê một bàn ăn dài c̣n trống trải vô
cùng. Điện yếu, người ta thắp nến
ở một góc bàn. Cha Tân đứng lên tiếp tôi và
giới thiệu với mọi người.
"Giới thiệu với các thầy, thầy Tâm giáo
sư Việt văn mới của nhà trường.’’
Tôi cúi chào tất cả. Độ gần hai mươi
người hầu hết là nhà thầy mặc áo dài
đen. Hai người thanh niên c̣n nhiều vẻ nhà quê
đứng hầu bàn. Tôi ngồi bên cạnh cha Tân.
Người ta đọc một đoạn kinh
trước khi cầm đũa. Gió vi vút thổi từ
những phía tối vào. Sau đó tôi mời mọi
người. Rất ít tiếng chuyện tṛ nếu có
chỉ đủ vừa hai người nghe với nhau. Cha
Tân bảo tôi:
"Có hai thầy ở ngoài như thầy lại về Hà
Nội chơi cả.’’
Tôi mỉm cười và không đáp lại.
Sau bữa cơm trời lạnh thêm nhiều. Về pḥng
tôi đi cùng với một nhà thầy. Cha Tân từ
biệt tôi để đi dự khoá lễ buổi
tối. Chúng tôi không vào mà đứng tựa lan can ngoài hành
lang nh́n xuống sân trường. Ngoài trời tối và gió.
Tiếng chuông nhà thờ chụp xuống.
"Anh vẫn c̣n học chứ?’’ Người bạn
mới hỏi.
"Vâng.’’
"Anh có bị gọi động viên không?’’
"Chưa anh ạ.’’
Đứng lâu, ngoài những dăy lớp học đối
diện thấp và căn nhà làm pḥng ăn, tôi nhận thêm
được cây cột cờ ở giữa sân. Từ xa
vọng lại những tiếng nổ lớn. Tôi mời
người bạn hút thuốc nhưng anh từ chối.
Tôi châm lửa, ánh sáng bốc lên một khoảng nhỏ
đủ cho tôi nh́n khuôn mặt người đứng
gần.
"Ở bên này không được yên phải không anh?’’
"Vâng, anh sẽ gặp những buổi họp lớp
vắng tanh v́ học sinh phần đông ở các làng chung
quanh, những dịp hành quân, họ không thể lên tỉnh
được.’’
"Nhưng tâm hồn th́ b́nh yên.’’ Tôi nói.
Có lẽ người bạn hơi ngạc nhiên v́ câu nói.
Anh ta ngước trông về phía nhà thờ. Những
tiếng nổ gần thêm và rung động mạnh.
"Anh đi t́m sự b́nh yên của tâm hồn. Anh mất
ḷng tin rồi hay sao?’’
Người bạn nhầm tôi là người Công giáo. Tôi
không trả lời.
Chúng tôi chia tay vào pḥng trong khi tiếng nổ liên tiếp
dữ dội hơn. Người bạn đứng
lại ở cửa buồng nói:
"Đă có lần trường bị moóc-chê
đấy!’’
Tôi mỉm cười, đốt tiếp điếu
thuốc nữa. Tôi đọc sách đến khuya, súng
vẫn không ngớt.
Nửa tháng đi qua. Tôi làm việc ba giờ mỗi ngày
về buổi sáng. Buổi chiều là giờ soạn bài
hoặc chấm bài hoặc đọc sách. Buổi tối
là cái hành lang sâu hút và nền trời đen thẫm. Ngoài cha
Tân, người bạn độc nhất của tôi là
Nhiên - nhà thầy tôi quen hôm mới đến. Trường
không nhận nữ sinh, tôi không liên lạc với ngoài
đường và rất ít xuống dưới ngoài hai
bữa ăn, ngại phải đi qua những pḥng
học trống. Mỗi buổi trưa ông già gác gơ cửa
trao cho tôi tờ báo hằng ngày.
Trưa nay tôi tỉnh giấc, nghe tiếng chân lạ đi
ở ngoài và tiếng nói vang chạy. Tiếng gơ cửa
của ông già gác và ông mang lại cho tôi Đại. Chúng tôi
bắt tay nhau và Đại ngồi xuống ghế. Tôi
hỏi ông già:
“Hôm nay chưa có báo hả ông?”
Ông già:
“Không thấy xe thường ngày đi qua, chắc xảy
ra chuyện ǵ. Thầy đợi tôi ra phố mua vậy.”
Ông già ra khuất, tôi hỏi Đại:
“Hà Nội không có ǵ lạ chứ?”
Đại lấy trong túi áo ra đưa cho tôi một
xấp thư nói:
“Đây là thư của cậu. Tôi đă bị đuổi
nhà và xuống ở nhà cậu được mấy hôm
nay. Không thấy cậu về ông Chính bảo tôi sang chơi
thăm.”
Tôi cầm xấp thư, cả thảy năm cái: hai cái
của Francoise, một của B́nh, một của Hoà, và
một cái thư lạ. Tôi để cả vào túi áo
hỏi:
“Ông Chính vẫn mạnh?”
Đại gật đầu. Tôi hỏi tiếp:
“C̣n chuyện của cậu ra sao?”
“Dạo này bố ráp nhiều. Nhưng sang đây không
bị khám xét gắt gao lắm. Cũng dễ chịu
đấy nhỉ?”
Đại đi dạo quanh quan sát căn buồng.
Tôi thay quần áo rồi bảo:
“Chúng ta xuống phố.”
Phố chỉ là một con đường chạy qua
cửa trường nhà thờ nối trạm kiểm soát
đầu tỉnh và chợ. Chúng tôi sang bến xe vào
một cái quán giữa sự nhộn nhịp. Chúng tôi
ngồi xuống ghế dài trước một cái bàn
gỗ thấp có ống đũa, ngọn đèn dầu,
b́nh điếu thuốc lào. Hai người phu xe, một
trẻ một già, bàn căi về vụ nổ ḿn buổi
sáng. Tôi nh́n ra ngoài bến. Từ một chiếc xe hàng
sắp chạy một người thanh niên nhảy
xuống đi hấp tấp về phía chúng tôi ngồi
gọi:
“Anh Tâm, anh Tâm.”
Hắn có khuôn mặt vuông và miệng rộng, áo len
đỏ cũ và áo Blouson ka ki. Hắn nắm lấy cánh
tay tôi hỏi:
“Anh Tâm, anh c̣n nhớ tôi không? Long đây. Long lớp nhất
trường núi.”
Tôi ngồi dịch một khoảng ghế nói:
“Có tôi nhớ rồi. Anh ngồi xuống đây.” Tôi
chỉ Đại, “anh Đại bạn tôi.”
Long ngượng nghịu v́ người thứ ba. Nhưng
Long lại quên đi và nói:
“Xe gần chạy thoáng thấy anh tôi nhớ ngay. Chúng tôi
đă về Đáp Cầu rồi. Tôi về với gia
đ́nh cô Mùi tôi. Hôm nào anh lên chơi. Anh làm ǵ bên này?”
Tôi đáp:
“Tôi dạy học ở trường gần đây.”
“Hôm nào anh lên chơi. Nhà chúng tôi vẫn ở chỗ cũ.”
Tôi hỏi:
“Không bị phá huỷ hay sao?”
Long cười:
“Có chứ. Nhưng chúng tôi dựng tạm nhà trên nền
cũ. Tan hoang hết cả. Anh lên sẽ biết. Nhiều
sự thay đổi lắm."
Long nháy mắt coi như sự thân mật đă t́m thấy
giữa chúng tôi. Tôi hỏi:
"Bây giờ anh đi đâu?"
"Tôi sang Hà Nội. Anh ở đâu hôm nào tôi đón anh
đi cho anh đỡ lạ."
Tôi cho Long biết chỗ ở của tôi và Long bắt tay
từ biệt. Khi Long Khuất, tôi nói với Đại:
“Bạn thân lắm thuở nhỏ. Ngày đi khỏi
Đáp Cầu hắn gói kỷ niệm cho ḿnh ba mươi
đồng xu ch́ và đồng.’’
Đại không nói chỉ mỉm cười. Hắn quàng
cái khăn do Thanh mua. Tôi bỗng nói:
“Tôi cần nhờ cậu một việc.’’
Tôi lấy giấy bút viết cho Thanh một cái thư
ngắn trong ấy tôi khuyên Thanh nên nhận lời lấy
Chu. Tôi trao mảnh giấy cho Đại và bảo:
“Cậu đưa hộ tôi mảnh giấy này cho cô Thanh,
địa chỉ tôi biên ở trong ấy. Có thể
cậu cho nó vào phong b́ kín hộ.”
Đại cầm cất vào ví, xong rồi nói:
“Tôi định bàn với cậu là tôi ra ngoài.”
Tôi trả tiền người bán hàng và bảo Đại:
“Chúng ta ra ngoài kia.”
Trời không một ngọn cây. Những chiếc xe hàng thô
lỗ quay đi quay lại ngang lối đi.
Được một quăng ngắn tôi hỏi:
“Bao giờ th́ khởi hành?”
“Tôi đă bắt được liên lạc. Chỗ
đến là Phú Thọ.”
"Nhưng cậu hẳn biết tôi không đồng ư
kiến với cậu. Nhưng tôi không thể phản
đối cũng như khuyên cậu điều ǵ cả.
Ở lại đây ư? Để làm ǵ mới
được? Bằng chứng là tôi cũng không giải
quyết nổi cho tôi. C̣n đi? Nhưng cũng để
làm ǵ mới được?’’
“Hẳn phải có việc để mà làm. Tất cả
những người ở bên kia, người ta không
biết người ta đang làm ǵ hay sao?’’
Chúng tôi đi qua một miếng đất hoang.
“Tôi biết như thế: cậu sẽ đi. Cái chua xót là
tất cả chúng ta đều thành thật, thành thật
đến cái độ có thể chết. Tôi cũng mong
cậu làm được điều ǵ ở đấy
như tôi mong tôi sẽ làm được điều ǵ
ở đây.”
Chúng tôi quay trở lại bến xe và đi qua miếng
đất hoang. Đại nói:
“Tôi không thể tưởng được cậu có
thể t́m thấy ḷng tin ở một chỗ vô lư
đến như thế. Tin rằng ḿnh làm được
cái ǵ ở đây, tôi nhất định không thể
được, đừng v́ cá nhân ḿnh.”
“Cậu vẫn c̣n nghĩ rằng chỉ v́ cá nhân thôi ư?
Có lẽ tôi hiểu cậu hơn cậu hiểu tôi.”
Chúng tôi về đến bến xe. Một người
đón mời chúng tôi. Đại bắt tay tôi nói:
“Tôi về Hà Nội.”
Đại lên xe và tôi về trường, lên buồng riêng
đọc thư. Francoise cho tôi hay gia đ́nh nàng đă lên
Ba Lê. Nàng trách tôi lười viết, khen tôi có nhiều
nhận xét thú vị về chiến tranh. Nàng đă đi
học và gặp nhiều bạn sinh viên Việt Nam. Nàng
đang ở trong thời gian dự bị vào Đảng
Cộng sản. Nàng kể những buổi sinh hoạt
tiểu tổ, những buổi đi bán báo Humanité
ở trước cửa nhà thờ Thánh Tâm sáng chủ
nhật – và nàng nói hôn tôi mỗi cuối thư.
B́nh và Hoà đều ở Nam Việt. B́nh ở Sài G̣n. Anh
cho tôi biết về t́nh h́nh chính trị ở thủ đô
miền Nam. Anh bảo tôi có thể vào Sài G̣n với một
chỗ làm trong hăng anh chủ trương. Nếu cần
tôi chỉ việc đánh điện tín, anh sẽ gửi
tiền vận chuyển ra cho tôi. Hoà ở Thủ Dầu
Một. Anh dạy học tại nhà một chủ
đồn điền cao su người Pháp. Anh tả
cảnh thành phố này, đời sống ở
đồn điền và đời sống của anh. Anh
đang dự định viết một cuốn tiểu
thuyết và anh gửi cho tôi một bài thơ “nhớ Hà Nội”.
C̣n một bức thư là của một học sinh cũ.
Bức thư gửi qua trường ở Hà Nội.
Hắn hỏi thăm sức khoẻ tôi, t́nh h́nh sinh
hoạt của tôi và cuối cùng nhờ tôi giải
quyết vấn đề sinh kế cho hắn có thể
tiếp tục sự học.
3.
Tôi về thăm nơi đă sống những năm
mồ côi đầu tiên thuở nhỏ. Mẹ tôi buôn bán xa
và tôi ở với bà ngoại. Những đồng trinh
để mua những bát bánh đúc nóng, kê, xôi lúa, bánh khúc,
quà sáng, đều do bà tôi chu cấp. Ở đây có
những nghĩa địa, ao chuôm, bến sông,
đường lên núi, giếng nước, cánh
đồng, kè đá… để bắt dế câu cá, đi
đồng, leo trèo, vùng vẫy.
Tôi bảo Long:
“Tôi nh́n những con đường hẹp hơn ngày
trước.”
Long chỉ tay vào giải thích:
“Nhà cửa đổ xuống, không ai cất dọn.
Cỏ hoang mọc lan tràn với lại mắt ḿnh lớn
lên chứ.”
Chúng tôi theo một con đường ṃn - trước kia
là đường lớn - ra phía bờ sông. Đi
đến một nơi đường nhiều đá và
rộng ra nhưng không có nhà cửa, tôi hỏi bạn:
“Đây là phố Chi Ly chợ gạo?”
“Phải. Anh nhớ lâu nhỉ?”
“Dân Chi Ly ai mà không nhớ, du côn khét tiếng.”
Chúng tôi cất tiếng cười. Long hỏi:
“C̣n nhớ những trận đánh nhau?”
Tôi gật đầu.
Bờ sông là khu đất nhà binh. Người ta biến nó
thành sân bay cho phi cơ quân sự. Bến sông không
người tắm. Tôi hỏi:
“Không c̣n đường lên núi sao?”
Long kéo tay.
“Đi đường này.”
Chúng tôi bước trên những đống gạch vụn
bên cạnh những mảnh tường đổ dở,
thấp cao. Qua một chỗ có những người kéo
nước tôi hỏi:
“Xóm Giếng?”
“Đúng.”
Tôi nh́n xuống ḷng giếng thật rộng nước
vẫn trong trông được những gạch sỏi.
Qua một căn nhà, cổng gỗ thấp cánh mở cánh
đóng, Long nói:
“Đây là nhà Phú, thầy Phú ngồi trong kia ḱa. Nhớ Phú
không?”
Tôi thấy một ông già che mắt bằng miếng vải
đen đang hút thuốc lào.
Chúng tôi ra khỏi con đường đổ nát
đứng trên dốc. Long bảo:
“Không lên được chùa Núi.”
Một đồn binh đóng trên đỉnh núi. Gió
thổi từ cao xuống. Dưới chân dốc là nhà bà
Mùi, bên cạnh là đống gạch vụn lớn. Cỏ
rậm hai bờ dốc. Long chỉ tay:
“Trường ḿnh học quá trên kia.”
Theo tay trỏ, tôi thấy một lớp nhà vàng nhạt.
Long lại nói:
“Tôi đi lấy máy ảnh chụp mấy cái làm kỷ
niệm.”
Chúng tôi xuống nhà bà Mùi. Bà mở cửa hàng bún riêu.
Chị Mùi con gái lớn goá chồng. Chị đang t́nh
tiền trên cuốn sổ tay nhỏ. Thấy tôi chị
nói:
“Cậu Long đă đưa cậu Tâm đi hết
chưa?”
Tôi nói:
“Chị bán hết nồi bún rồi chứ?”
Long dẫn tôi đi về phía sau, để sang nhà Long. Bà
Mùi đang lúi húi trong bếp quay lại bảo:
“Hai anh em chốc quay về đây ăn cơm nhé.”
Long đáp:
“Vâng.”
Long lấy máy ảnh và hai chúng tôi đi ra một căn nhà
đổ. Tôi đứng lên trên đống gạch
vụn, sau lưng là bức tường c̣n những hàng
khẩu hiệu tuyên truyền từ năm mới nổi
cách mạng. Chụp xong hai kiểu, Long hỏi tôi:
“Anh c̣n nhớ đây là nhà ai không?”
Tôi đáp:
“Không.”
“Nhà Hạnh đây. Hạnh hàng vàng mà ngày xưa chúng ḿnh trêu
để nó về mách nhà cho ấy.”
Tôi kêu lên:
“A - Hạnh. Hạnh về đây chưa?”
Long cười xoà nói:
“Hạnh bây giờ buồn lắm. Gia đ́nh sa sút và goá
chồng. Hạnh đi chợ đường Hà Nội.
Anh gặp sẽ không nhận ra đâu. Bây giờ Hạnh
không c̣n đẹp như xưa. Hôm nào đám cưới
tôi, anh sẽ gặp Hạnh.”
Trên đường về tôi nhắc lại kỷ
niệm lúc chúng tôi c̣n đi học. Về đến nhà,
cơm đă dọn. Bà Mùi nấu món tôi ưa thích thuở
bé: canh riêu. Chị Mùi hái ở vườn những quả
ớt tươi lớn, ăn chảy nước
mắt.
Tôi không trở về Bắc Ninh và ngủ lại.
Đĩa đèn dầu thắp lên, chúng tôi ngồi quanh
trên phản nhắc lại chuyện cũ giữa
những gia đ́nh chúng tôi. Tôi ngủ với Long ở gian
buồng ngày trước của gia đ́nh tôi – gian
buồng độc nhất may mắn c̣n nguyên vẹn –
Chúng tôi đắp chung chăn và tôi ngủ giấc say
đến sáng.
Những cái bàn dài nối liền dọc theo sân là chỗ
tụ họp của đàn ông. Đàn bà con gái ở trong
bếp và trong buồng cưới: đó là một
buồng nhỏ cạnh bếp. Các cụ ngồi trên
phản giữa nhà. Những người đàn ông nói
chuyện, uống nước cam chai và hút thuốc lào. Trong
bếp người ta thái từng rổ thịt lợn
luộc.
Thấy tôi đến chị Mùi vẫy tay vào buồng
cưới có Long ở trong ấy. Chị bảo:
“Cậu Tâm đi phù rể đấy nhé.”
Tôi từ chối:
“Không được quen biết lắm, đi không
tiện.”
Long xen vào:
"Anh cứ đi không sao. Hạnh là phù dâu
đấy."
Chị Mùi tiếp:
“Cậu đi rồi về đây tôi giới thiệu
lại cho."
Một người đàn ông ngó vào buồng và gọi
chị Mùi ra ngoài. Long nói:
“Đấy là anh Hoà. Định hỏi chị Mùi, cũng
ở Hà Nội sang.’’
Và Long chỉ những người ngồi ngoài sân hỏi:
“Anh c̣n nhớ được ai không?’’
Tôi lắc đầu. Long bảo:
“Bạn học cũ cả.’’
Bà Mùi gọi Long để dặn điều ǵ. Tôi
ngồi lại một ḿnh trong buồng. Giường
trải nệm có đôi gối thêu lớn màu hồng, màn
trắng nhưng không mới. Ở một góc là cái bà
mộc có ấm nước khay tách và đĩa trầu.
Tôi đi xuống sân và chưa biết ngồi vào chỗ
nào th́ Hoà lại gần hỏi chuyện. Chúng tôi theo ngă sau
ra đồng. Thỉnh thoảng một giọt
nước lớn bay đập vào mặt. Không hiểu
sao, Hoà lại khoe với tôi là hắn làm việc cho Pḥng nh́
Pháp và có thế lực. Tôi cũng hỏi cho qua những
công việc hắn làm.
Tuy thế khi đón dâu tôi cũng đi bên cạnh Hoà.
Trước tôi, Long đi giữa hai người cùng
mặc bồ đồ xám gần giống nhau. Bộ
của chú rể màu nâu. Đám cưới đi chân trên
đường chính của thị trấn Đáp Cầu,
một bên đường cỏ hoang và núi đóng
đồn binh, một bên là nhà cửa đổ nát ít
dấu hiệu của sự sống, ngoài những
đứa trẻ nghèo nàn chạy theo trông. Người ta
rẽ vào một đống gạch vụn cao, ṿng ra sau
lưng một bức tường chưa đổ
hết, và bước vào gian nhà tối. chúng tôi phải
dừng lại ở ngưỡng cửa v́ trong nhà đông
người. Ánh sáng của nến chập chờn. Có
tiếng hỏi:
“Chú rể đâu?’’
Ở trên rẽ ra một lối để cho Long và hai
người phù rể vào. Tôi và Hoà c̣n lại ở ngoài. Tôi
ra khỏi bức tường để đỡ cảm
giác bịt bùng. Không khí no hơi nước và nặng
nề. Trước mắt tôi là núi. Mười lăm phút
sau, đám cưới trở về. Vẫn cụ già
mặc áo thụng xanh cầm hương đi đầu.
Rồi đến chúng tôi, chú rể và những
người phù rể. Hai họ đi liền và cuối
cùng là cô dâu và những người phù dâu. Ở nhà gái ra,
mặt Long đỏ như vừa uống rượu.
Ở nhà cỗ bàn dọn sẵn sàng. Bà Mùi và người
con gái lớn đại diện cho bố mẹ Long
chưa hồi cư mời khách ngồi vào mâm. Thứ
bậc tuổi tác được định rơ rệt. Cô
dâu và các bạn vào buồng cưới đă
được che ở cửa một tấm vải hoa.
Long bận mời các cụ cầm đũa ở trên nhà.
Chị Mùi lại gần chỗ tôi và Hoà đứng
hỏi tôi:
“Cậu đă trông thấy mặt cô Hạnh chưa?’’
Tôi trả lời:
“Chưa.’’
Lúc ấy những người đàn ông yêu cầu cô dâu chú
rể ra mừng rượu. Một người nói to:
“Yêu cầu mời cả các cô phù dâu ngồi chung bàn.’’
Long nói:
“Phải từ từ mời được.”
“Ḿnh chú rể nói không nghe. Phải có đôi, có tuyên bố lư
do đây mới ăn.”
Tất cả những người đàn ông ngồi quanh
bàn kêu lên: Đồng ư. Và họ cười ầm ỹ.
Chú rể đi vào buồng rồi quay lại trả
lời:
“Xin phép cho cô dâu bị mệt.”
“Không được. Chưa uống rượu chưa
mệt.”
Một người khác lên tiếng:
“Thôi nếu cô dâu mệt th́ các cô phù dâu thay cũng
được.”
Chú rể lại trở vào buồng rồi đi lên nhà
trên. Chị Mùi nói:
“Tôi phải vào mời các cô ấy.”
Chị Mùi cầm tay một người con gái đi ra
gặp tôi. Chị hỏi:
“Cậu nhớ ai không?”
“Cô Hạnh.”
Hạnh có vẻ ngạc nhiên. Chị Mùi nói:
“Cậu Tâm trước cùng học một trường
với cô. Sau cậu ấy vào Sài G̣n.”
Hạnh búi tóc và mặc áo tím. Trông Hạnh buồn và xanh.
Tôi nói:
“Lâu quá cô không nhớ được nhỉ?”
Hạnh hơi mỉm cười nói khẽ:
“Cũng có nhớ.”
Chị Mùi vào bếp. Tôi định mời Hạnh ra sau
nói chuyện th́ Long xuống. Long bảo:
“Đây là cô Hạnh, đây là anh Tâm. Cô nhớ không? Anh Tâm
nghịch có tiếng dạo ấy.”
Tôi cười trả lời:
"Dễ c̣n anh th́ hiền lành lắm.’’
Long cười và bỏ đi. Một cô phù dâu đến
gọi Hạnh:
“Chị ra ăn cỗ c̣n về chứ.’’
Hạnh chào tôi và tôi cũng về bàn.
Buổi chiều tôi đi bộ từ Đáp Cầu
về trường v́ không c̣n xe. Tôi qua chợ Thị
Cầu, sân đá bóng. Từ sân đá bóng về đầu
tỉnh, đường lồi lơm, cây cối trơ
trụi. Ở đầu tỉnh một công an viên giữ
tôi lại để xét giấy tờ và đưa tôi
về tận trường. Khoảng đó hơn bẩy
giờ tối. Nhà trường vừa xong bữa cơm
chiều. Đại sang và để giấy lại trong
đó nói Thanh cần gặp mặt tôi ở Hà Nội.
5.
Về Bắc Ninh tôi bị cảm khản tiếng mất
một tuần phải nghỉ làm việc. Những
buổi sáng mủa đông buồn rầu thêm. Tôi nằm
lỳ trên giường không buồn trở dậy.
Những tiếng ồn ào từ trong lớp học
giờ làm việc, ngoài sân giờ ra chơi, bay lên qua
một khoảng xa cách lắm, tôi đợi từng
bước chân ngoài hành lang.
Mỗi bữa cơm ông già gác mang lại pḥng cho tôi một
bát cháo nóng - buổi trưa kèm theo một tờ báo hằng
ngày. Tôi lười, thoái thác không xuống pḥng ăn. Tôi
đọc báo, nh́n cuộc đời b́nh thản qua như
những cuộn mây xám thường ngoài cửa sổ
buổi chiều. Và tôi ngủ những giấc ngủ
đầy hơi thở nóng và mồ hôi cùng trống
ngực.
Linh mục Tân đến thăm tôi hàng ngày khoảng 4
giờ chiều và ở pḥng tôi chừng mười lăm
phút. Nhiên săn sóc tôi vào buổi tối khi những
tiếng chuông khoá lễ chiểu đă im. Nhiên
thường ngồi nói chuyện. Anh kể về gia
đ́nh, về thời thơ ấu, và ơn trên đă kêu
gọi anh để dâng ḿnh cho Chúa, bằng giọng b́nh
thản như đọc một đoạn sách thánh kinh.
Bà nội anh muốn có một người con dâng ḿnh cho
Chúa, nhưng cha anh lại là con một. Tiếp theo Nhiên là
đứa cháu độc nhất. Đứa cháu
độc nhất ấy nghe ở linh hồn ḿnh từ
nhỏ âm vang lời kêu gọi của Thiên chúa và Nhiên mong
rằng sẽ làm thoả măn khát vọng của những
người sinh thành. Trong những lúc ấy tôi nhó lên
ngọn điện yếu mỏng chập chờn như
muốn tắt.
Đại không sang, những thư từ của tôi
được cho vào phong b́ lớn dán kín gởi sang
trường. Tôi nhận được thư của
Francoise trách tôi lười viết, nàng hỏi tôi có
nhận được thư của nàng không. Nàng cho
biết hiện công tác vận động những gia
đ́nh có con em chiến đấu ở Đông
Dương để làm kiến nghị yêu cầu
chấm dứt chiến tranh ở đây. Đồng
thời cùng với một nhóm bạn hữu thanh niên nàng
đă gặp Sartre, chất vấn về vấn đề
cộng sản và cách mạng. Nàng bảo nàng hơi đen
và gầy hơn nhưng cũng cao hơn. Nàng vừa
kỷ niệm sinh nhật thứ mười chín của
nàng.
"Pauvre Francoise!"
Hoà tả những trận mưa ở đồn
điền dài ba trang giấy mỏng. Và Ngọc:
"Mày ơi!"
"Mày c̣n th́ giờ để ư đến tao ư? Tao
tưởng mày nghĩ đến thân phận mày cũng
đáng đủ lắm rồi. Thằng Bảo cho tao lăng
mạn và chắc rằng chúng mày cũng đồng ư
với nhau. Nhưng hỡi ôi! Lăng mạn phải là chúng mày
mới đúng. Đau khổ cho nhiều vào, đọc
sách cho nhiều vào, xót thương ḿnh chưa đủ
rồi xót thương người…. để mơ
mộng: cách mạng. Ôi chao cách mạng. Cách mạng
để làm ǵ? Những con ngựa bị hành hạ
đau quá th́ lồng lên hất thằng dô kề ngă mà
chạy. Chạy đi đâu? Thằng dô kề nó sẽ
túm được, nó đánh đập tàn nhẫn hơn
và lại xỏ cương trèo lên lưng.
Thế nào tao cũng bỏ đất này đi, tao can
đảm thú thực như thế, chết ở chỗ
khác yên thân hơn. C̣n hơn chúng mày ḷng tin đă mất mà
không dám thú thực, mà vẫn cố gắng giả tin.
Bằng chứng là chúng mày có tự do đâu, thằng
Bảo vợ cái be nước mắm, mày bỏ
trường này rồi cũng đến trường
khác. A-men, mày đang t́m đến với Chúa đấy.
Cầu Chúa che chở cho cái thằng sâu kiến lúc nào
cũng tưởng ḿnh lớn ngang đức Chúa. Làm
dấu thánh giá và quỳ xuống."
Tôi quên lá thư của Ngọc. Ngọc mở ở bàn
đêm đầu giường. Buổi chiều tôi ngủ
chập chờn, khi mở mắt Nhiên ngồi cạnh và
đă bật đèn. Nhiên hỏi:
"Anh không ăn cháo? Để tôi bổ cam anh
xơi."
Tôi ngồi dậy nói:
"Cám ơn anh, tôi có thể làm lấy
được."
Tôi bổ cam ở bàn, nh́n ra cửa sổ, gió khoan khoái
một chút.
Nhiên hỏi:
"Anh cho là có Thượng Đế hay không?"
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
"Câu hỏi ấy chưa bao giờ làm tôi thắc
mắc cả.’’
Tôi không nghĩ đến nó.
Nhiên lại hỏi:
"Anh có nhận rằng ở đời có một cái
gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có công bằng, có
tự do, có bác ái…"
Tôi trông thẳng vào mặt Nhiên đáp:
"Có chứ tại sao không?"
"Vậy mà anh lại không tin Thượng Đế th́
lạ thật?"
"Tôi tưởng những ư niệm ấy họp nhau
thành một ư niệm hoàn hảo hơn tất cả là
Thượng Đế. Thường thường
người ta nghĩ một vài ư niệm khó thoả
hiệp được với nhau như b́nh đẳng và
tự do, những đạt đến sự hoà hiệp
chính là t́m về Thượng Đế rồi c̣n ǵ?"
Tôi bước vài bước đắn đo:
"Tôi nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về
vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người
ta giải quyết giữa người với
người và Thượng Đế không nên có mặt
ở lúc ấy. Thượng Đế cần một h́nh
ảnh tinh khiết. Có mặt khi không cần thiết,
Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và
có thể bị mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế
có lẽ cần thiết lúc khác."
"Thượng Đế sẽ giải quyết
những vấn đề của loài người nếu
loài người biết t́m về đến
Người."
"Không, tôi không tin như thế, Thượng Đế
không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi
Thượng Đế nhập thể thành người
như Chúa Jesus hay Phật tổ th́ chính ở người
ấy Thượng Đế đă bị lôi kéo vào tấm
thảm kịch riêng tư của loài người và
chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…"
Những buổi tiếp theo, Nhiên thưa sang thăm tôi –
tôi nằm nghe tiếng động ngoài hành lang và ḷng ḿnh.
Tôi trả lời Ngọc:
"Ngọc,
Con sâu ở giữa tim giữa hồn, giữa năo, mày
nhớ không? Đi đâu cũng vẫn chỉ là mày –
đau khổ và nhục nhă. Mà nào riêng có đất
nước này hổ nhục thôi đâu, mọi nơi
mắt mày cũng chỉ nh́n thấy như đây. Không trốn
được đâu, trừ khi mày trốn
được ḷng mày.
Nhưng thôi tao vẫn cầu chúc cho mày đi đi cho
thoả dồn nén, để ngó thấy ở bất
cứ một góc địa cầu nào những điều
ghê tởm không muốn ngó, rồi mày sẽ trở lại.
Tất nhiên chán chường hơn nữa, nhưng từ
chỗ chán chường cuối cùng ấy tao c̣n mày hay
mất mày vĩnh viễn.
Ngọc ơi! Mày c̣n nhảy xuống biển ngủ ở
dưới ấy không? Con sâu ở giữa tim, giữa
hồn, giữa năo.
Trước khi đi hăy thư cho bạn mày: Tâm."
Lễ Chúa Giáng sinh đến gần với những ngày
rét cóng hơn. Nhà trường vắng ngắt, những
giáo sư ngoài như tôi đă về Hà Nội cả.
Mặt sân cứng ướt hiu quạnh trơ trọi
không cây cối, tôi bước trên sạn vụn theo
một cửa ngách sang nhà thờ. Màu đá xám cao và lạnh
lẽo thêm.
Những chiếc đèn màu h́nh ngôi sao, những dây hoa
giấy sặc sỡ buồn cười.
Ṿm nhà thờ sâu, ánh sáng mờ ảo.
Tôi đi bên những hàng ghế mộc, đến máng
cỏ Chúa hài đồng. Tôi đứng cách xa ngắm
những h́nh tượng được xếp đặt
khéo léo. Vài người đàn bà nhà quê ḿnh như ở
chợ rẽ vào, quỳ gối kính cẩn.
Rồi tôi xuống Đáp Cầu cho đến hết
buổi sáng.
Tôi vẫn chưa biết nên về Hà Nội hay nên giam ḿnh
một tuần lễ nữa trong chuỗi ngày rét mướt
ở tỉnh lỵ. Con đường dốc, những
sườn núi trơ đất và đá đỏ, gió và
hơi nước quyến lấy nhau ở không trung làm
thành khói đặc nặng nề, không một tiếng
động ngoài một tiếng nổ của động
cơ. Chiếc xe hàng đă đổ hết khách ở
Bắc Ninh chỉ c̣n lại vài người. thị xă tiêu
điều với những nhà méo lệch. Quán chợ
lụp xụp nhớp nháp; chợ c̣n lại dẫy
tường trắng loang lổ vết tích cũ.
Bữa cơm ăn với vợ chồng Long trong một
gian buồng hẹp ấm. Mâm bằng gỗ.
Tôi trở về Bắc Ninh gần ba giờ chiều.
Tôi ngồi trong một quán nước ở bến xe trong
sự náo nhiệt ấm áp của những người
xuôi ngược và những người làm xe. Ở đây
có những bát nước chè tươi nóng, điếu
thuốc lào. Trời mưa bay. Bỗng tôi trông thấy
Hạnh, nàng mặc tấm áo dài thâm đi ở ngoài. Nàng
chào tôi và ghé vào quán.
Tôi hỏi:
“Cô đi Hà Nội?”
“Vâng”, Hạnh đáp.
Tôi mời nàng uống nước và chúng tôi uống
những bát nước chè tươi xanh nóng rộp
lưỡi. Hạnh hỏi tôi:
“Anh cũng về Hà Nội?”
Tôi chưa biết trả lời thế nào Hạnh đă
tiếp:
“Nếu tiện anh đi xe của em cùng về.”
Nàng nói tự nhiên c̣n tôi lúng túng. Hạnh lại nói:
“Chỉ sợ anh đi xe chở hàng thôi.”
Hạnh đưa tôi ra xe, chiếc xe cam nhông chuyên chở
hàng hoá. Sau xe trống, ngoài một thùng đựng ét
xăng của nhà binh bỏ không và mấy tấm bao
tải.
Tôi và Hạnh ngồi phía trên cùng người tài xế và
người phụ xe ở đằng sau. Xe ra khỏi
thị xă cùng với hạt mưa dầy hơn.
Người tài xế đứng tuổi hai bàn tay khô khan
gân guốc chụp trên đầu chiếc mũ cát két
dạ. Anh phụ xe trẻ tuổi nói qua lỗ hổng lên
với bác tài một câu ǵ. Hạnh ngồi sát vào tôi và tôi
nhận hơi ấm của nàng.
Nh́n thấy ở ngực Hạnh đeo h́nh thánh giá, tôi
hỏi:
“Em theo đạo?”
Hạnh gật đầu trả lời:
“Khi c̣n ở hậu phương, bây giờ th́ thôi rồi.”
Một lát sau xe chạy đều tốc lực, màu
trắng phủ những cánh đồng hai bên
đường. Tôi hỏi Hạnh:
“Em c̣n nhớ anh xưa hay không?”
Hạnh ngước nh́n tôi rồi trả lời:
“Em nhớ những ngày nghỉ học anh thường hay
đi theo em. Hồi ấy nhà em ở hai nơi, Thị
Cầu và Đáp Cầu. Đi về em phải qua nhà anh. Em
mặc áo trắng và cặp tóc và em đă được
nghe anh nói là em đẹp nhất Thị Cầu.”
Tôi nắm lấy bàn tay nhỏ bé của Hạnh để
vào ḷng tay tôi từ lúc nào, rất cảm động.
Hạnh nói tiếp:
“Một lần anh Long và một người bạn nữa
đă thách anh đến vuốt tóc em và anh đă làm
thật. Ở con đường ra đồng trước
cửa nhà một người Pháp có nuôi một đàn
ngỗng dữ và em đă về mách nhà anh cái tội trêu
trọc em và tội đứng đó ăn cắp
trứng ngỗng.”
Tôi nắm chặt hơn bàn tay Hạnh, có cảm giác
hổ thẹn về những hành động ngây thơ táo
bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng biết là bà ngoại anh chẳng bao
giờ trị tội anh cả.”
Hạnh gật đầu và cái búi tóc nghiêng xuống vai
về phía tôi. Hạnh hỏi lại tôi:
“Học hết lớp nhất anh đi Sài G̣n? Anh làm ǵ?”
Tôi nói điềm nhiên và thành thật, ngoài ư muốn:
“Anh đă bán báo, làm thợ và học nghề chữa ô tô.”
Đến Hà Nội, mưa to lớn hơn. Chúng tôi cùng
đi ăn cơm với nhau.
Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách
sạn.
6.
Tết đă qua. Mùa xuân kéo dài với những trận
mưa phùn làm bẩn hè phố. Tôi không đặt chân
về nhà nữa. Ngọc và tôi ăn Tết cùng gia đ́nh
Bảo.
Chiều mùng một, tôi lên đón hai chị em Thanh đi
chơi. Thanh bày bàn thờ trên cái xích đông làm giá sách
trước bàn học của Minh. Thanh bảo tôi lễ
tổ tiên. Tôi chắp hai tay và ḷng bâng khuâng. Mùng ba Ngọc
trở xuống Hải Pḥng. Chúng tôi uống rượu
trước khi chia tay. Và Bảo đặt cái bánh chưng
lên bàn và bảo với Ngọc:
“Anh ăn bánh chưng đi, biết đâu chẳng là
miếng cuối cùng trước khi đi.”
“Vâng biết trước thế nào được”,
Ngọc trả lời.
Ngoài ngơ những đứa bé nghèo nàn đang đánh đáo.
Chúng tôi không đưa tiễn nhau. Mùng chín tôi trở sang
Bắc Ninh. Cái Tết đi qua có lẽ đă quá vui
khiến để lại cho thị trấn này vẻ
trơ trẽn. Mưa bay ngoài cửa sổ và sự
chuyển vận của chiến tranh mỗi lúc thêm hấp
tấp.
Đại vẫn chưa bỏ ra hậu phương.
Trước khi về trường tôi có ghé nhà thăm và
chúc Tết ông Chính. T́nh cờ tôi được biết
Đại dan díu với Thịnh. Trong suốt mấy tháng
tôi không nhận được một hàng chữ nào
của bạn bè. Tôi cùng về Hà Nội với Hạnh vài
lần. Những ngày ấy tôi dành riêng cho ḿnh Hạnh.
Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh, tổng quát là
sự khủng bố tinh thần – đă thổi vào máu
Hạnh sự say đắm nhiệt t́nh trong yêu
đương.
Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại b́nh
thường. Hạnh ngượng ngùng. Một lần
nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên
ngực nàng và hỏi:
“Anh có khinh em không?”
Lúc ấy tôi đau đớn tất cả thân thể.
Trời chạng vạng với mưa bụi căm
căm. Tôi thở dài trả lời:
“Em đừng hỏi và đừng bắt anh phải
trả lời.”
Ở Đáp Cầu người ta phong phanh biết sự
đi lại giữa Hạnh và tôi.
Một buổi sáng rét tháng ba tôi lặn lội xuống
thăm Long. Tôi được ăn một bát bún riêu
bỏng môi v́ cay và nóng của chị Mùi và được
chị cho biết tin là Hạnh không trở về nữa.
Chị Mùi nói:
“Cô ấy ra ngoài đến nửa tháng nay không thấy
về.”
Tôi hỏi chị:
“Có tin tức ǵ không chị?”
“Có lẽ bị giữ lại. Người ta nghi cô
ấy…”
Long đi Hà Nội vắng. Vợ Long đang có mang. Tôi
nghĩ không ở lại ăn cơm, trên đường
về tôi nghĩ nhiều đến Hạnh. Nghĩ
đến sự đam mê của Hạnh, tôi bồn
chồn cả người. Tôi tin rằng chẳng có bao
giờ gặp lại người con gái ấy nữa.
Lễ Phục sinh tôi thăm Thanh gặp lúc nàng ốm
nghỉ nằm nhà. Minh đi học vắng. Thanh
gượng dậy tiếp tôi. Tôi khuyên nàng nằm nghỉ
và tôi kê ghế ngồi cạnh giường. Sau khi hỏi
thăm sức khoẻ của Thanh tôi ngồi im và không
biết nói chuyện ǵ. Tôi nh́n Thanh và mi mắt nàng hơi
khép xuống nặng nặng. Nàng thở một cách
đắn đo. Tôi đứng dậy để
đốt thuốc lá, Thanh bảo:
"Anh cứ tự nhiên, em không sợ thuốc lá
đâu."
Tôi ngồi xuống và thở khói nhè nhẹ. Thanh bỗng
nói với tôi:
"Anh rót cho em xin cốc nước."
Tôi sửng sốt v́ sự quá đáng của Thanh. Chưa
bao giờ Thanh dám làm thế với tôi cả. Mặt tôi
hơi sầm suống. Thanh lại nói tiếp như van
lơn:
"Anh cho em xin cốc nước…"
Thanh định nói thêm điều ǵ lại thôi. Tôi
miễn cưỡng làm theo lời Thanh. Uống xong
nước, Thanh nói:
"Em có câu chuyện muốn nói với anh."
Thanh cố ư giừng lại. Tôi hít một hơi thuốc
lá dài và thở khói um khiến Thanh phải sặc.
Nàng quay mặt đi bảo:
"Anh thổi khói vào mặt em."
Tôi thở nhẹ và khói tan dần. Mắt Thanh ướt
ngấn nước và da mặt nàng hồng lên mệt
nhọc. Thanh kéo chăn chấm nước mắt nói
rất nhỏ:
"Anh Tâm, anh xem Minh đă có thể lấy chồng
được chưa?"
Tôi ngạc nhiên không hiểu.
"Có người hỏi cưới Minh mà em phân vân
quá."
Tôi gơ tàn thuốc lá đánh nhịp chân, hỏi:
"Minh năm nay bao nhiêu tuổi?"
"Mười tám."
Chúng tôi cùng im lặng, tôi th́ nh́n khói thuốc. Tôi lại
hỏi:
"C̣n cô?"
"Hai mươi ba. Già rồi c̣n ǵ?”
“Ai bảo cô già?”
Thanh không trả lời và h́nh như mơ mộng
điều ǵ. Một lát, Thanh hỏi:
“Anh biết người thế nào hỏi Minh không?”
“Ai?”
“Chu.”
Giọng nói của Thanh cố gắng b́nh thản và
mắt Thanh mọng cộm lên. Tôi nhắc: Chu. Tôi cố
gắng nói tự nhiên:
“Cô định sao? Đă hỏi ư kiến Minh chưa?”
“Em bằng ḷng.”
Nghĩ hồi lâu, tôi trả lời buông xuống:
“Cũng được.”
Đám cưới Minh giản dị và mau chóng.
Chưa đầy một tháng sau câu chuyện giữa tôi và
Thanh, Minh nghỉ học ở nhà. Trầu cau
được chia cho vài chỗ quen biết thân.
Theo ư của Chu, hai bên nhà trai gái mở chung một tiệc
khách sạn Phú Gia.
Khách khứa cũng không nhiều. Tôi phụ với Thanh thu
xếp công việc v́ nàng vẫn chưa được
khoẻ hẳn. Bữa ăn vào buổi tối gồm
chưa đến ba mươi người.
Mươi người họ hàng thân quyến của Chu,
mươi người bạn cùng sở Chu; bên này có
mặt cô Nghĩa, ông Chính, Bảo, Nga – cô thợ cả
của Thanh – hai ba người bạn thợ của Thanh,
mấy cô phù dâu và bạn bè của Minh.
Lâu không gặp tôi, cô Nghĩa nói đùa:
“Bao giờ th́ anh lập gia đ́nh?”
Thanh cũng đứng đấy cười trả
lời thay:
“D́ không biết anh ấy lập gia đ́nh rồi hay sao?”
Cô Nghĩa tưởng thật.
Chu đến. Lần thứ nh́ tôi gặp lại Chu trong
mấy năm về Hà Nội. Chu nói:
“Minh đang ngồi khóc ở nhà.”
Tôi bảo:
“Cô gái nào chẳng vậy” - rồi tôi kéo Chu ra ngoài.
“Tôi cần nói chuyện với anh một lát.”
Nhưng khi ra ngoài, gió hơi lạnh, nh́n sang hồ
nước im lặng và thấp thoáng phản chiếu ánh
đèn, tôi không biết tôi muốn nói ǵ với Chu.
Ông Chính gặp tôi hỏi:
“Sao anh ít về nhà?”
Tôi cho là ông quá tàn nhẫn khi đặt câu hỏi. Mà có
lẽ ông đă quỵ luỵ chăng?
Tôi ấp úng. Tôi bắt tay Đại hững hờ.
Thanh giới thiệu tôi với Nga. Tôi nói:
“Chúng tôi đă gặp nhau một lần.”
Nga cúi đầu nhận. Thanh quên buổi tôi lại đón
Thanh ở cửa hàng để lấy cái khăn quàng cho
Đại. Đại quàng cái khăn ấy.
Nga hỏi câu mở đầu khiến tôi ngạc nhiên vô
cùng:
“Ông viết văn?”
Tôi bị lúng túng và trả lời:
“Thưa cô, không. Tôi chưa bao giờ” - ngừng một giây
nhỏ - “À! thời trước th́ có. Cô nghĩ tuổi
trẻ người nào đă chẳng từng viết
đôi ba ḍng. Làm một vài câu thơ. Bây giờ th́ tôi
chưa hề nghĩ đến.”
Nga nh́n ư tứ:
“Thế mà tôi vẫn đinh ninh ông viết văn.”
Tôi thấy được không khí thân mật và bạo
dạn nói:
“Nếu thế có lẽ chính cô viết văn.”
Nga đáp thẳng thắn:
“Vâng tôi bắt đầu.”
Bảo bước vào với tất cả vẻ cũ
kỹ ngô nghê ngày thường của anh: bộ quần áo
kaki kiểu nhà binh. Tôi bảo với Nga khi Bảo c̣n ở
đầu pḥng:
“Cô có thể nói chuyện văn chương với ông
bạn tôi.”
Đại cũng đi về phía chúng tôi. Tôi khó chịu
về sự góp mặt của những người không
ưa nhau, Bảo và Đại.
Bữa ăn chưa xong th́ Đại kiếu từ ra
về dù Thanh cố mời giữ. Thanh tiễn Đại
ra ngoài.
Tiệc tan vào khoảng hơn mười giờ đêm.
Tôi và Bảo đưa Thanh và Nga về nhà. Thanh giữ Nga
về ngủ chung. Chúng tôi qua đường phố hiu
quạnh. Mọi vật ấm lạnh se se, cây cối,
vỉa hè, mặt nhà. Thanh và Nga đi sát nhau. Tôi và Bảo
cách xa, Thanh nói:
“Có lẽ anh Đại không bằng ḷng điều ǵ. Em
đă xin lỗi với anh ấy măi.”
Tôi muốn kêu lên: Hắn là một thằng hèn. Tôi biết
hắn về t́nh tự với Thịnh. Bảo vẫn
trầm ngâm.
Thanh nói, tiếng nói vang trên cḥm cây xôn xao:
“Hôm nay không có chị Nga ngủ một ḿnh đến khóc
mất” – Không ai trả lời, chỉ những tiếng
bước bâng quơ. “Con gái nào chẳng vậy phải
không anh Tâm?”
Nga lên tiếng:
“Chị đă hứa về ở với tôi cơ mà.”
Tôi tiếp lời:
“Phải đấy cô về ở với cô Nga. Hai
người một ḿnh ở với nhau cho vui.”
“Không, c̣n mẹ tôi nữa.”
Tôi rùng ḿnh gần như đứng lại v́ lạnh.
Có lẽ lạnh, không phải v́ câu nói bâng quơ ấy?
Sắp sửa đến ngày giỗ mẹ.
Thanh hát nhỏ, rất nhỏ trong cổ họng,
điệu quen thuộc, tôi đă nghe. Trở về mái
nhà xưa.
Bảo bỗng nói với Thanh:
“Từ ngày cô hát trên đài chưa bao giờ tôi
được nghe cô cả.”
“Thế th́ không bao giờ anh được nghe nữa
cả bởi v́ tôi đă giải nghệ.”
Nga: “Giải nghệ?”
Thanh: “Chứ sao!”
Tôi đợi đến một ngă tư mới nói:
“Không, cô nên hát.”
Thanh nhại:
“Không, cô nên giải nghệ.”
Từ đấy không ai nói một lời.
Thanh cứ hát nhỏ như cho mọi người nghe
lần cuối. Hàng phố bé lại trong đêm khuya và lùi
xa như tiếng hát.
Khi cánh cửa đă đóng sau lưng Thanh và Nga, tôi tôi c̣n
nghe thấy tiếng hát ấy ở trên tay tôi. Trở
về mái nhà.
Xưa.
C̣n lại hai người đàn ông đi chân về
ngoại ô.
Những ngày làm
việc đều đều tiếp nhau. Nhiên không c̣n
ở lại trường nữa, anh phải đổi
về Nam Định. Hôm chia tay tôi tiễn Nhiên ra bến
xe. Rồi tôi thui thủi trong gian pḥng cách biệt những
giờ trống. Pḥng bên – Nhiên ở trước – không có
người, khoá cửa. Buổi tối vẫn bóng đen
nặng nề, với cái sân sỏi, cột cờ
khẳng khiu, nóc nhà thờ lạnh lẽo với những
đợt bách kích pháo rung chuyển xa xa gần gần và
ngọn điện đỏ như đầu que diêm
chưa tắt. Không ai c̣n nhớ đến tôi v́ không ai
gửi cho tôi chữ nào, Francoise, B́nh, Hoà, hay những học
tṛ tôi không c̣n nhớ. Ngày nghỉ tôi xuống Đáp Cầu
thăm tin tức Hạnh. Ngọn núi bắt đầu
thấy cứng ḿnh v́ nghe nắng sắp về dữ
dội. Những con đường cỏ hoang không
dọn. Gạch ngói c̣n nằm im. Quán hàng của chị Nùi
đông khách thêm v́ sự chuyển vận binh sĩ không
ngừng qua vùng này. Bát bún riêu nóng là món quà thường
lệ của tôi.
Long đă xin được một chân hương sư.
Lớp học chữ dưới ngôi đ́nh cũ chỉ
c̣n mái. Bàn ghế quyên tặng làm bằng đủ mọi
thứ: có thể là cánh tủ, cánh phản, câu đối…
Những đứa trẻ nhỏ cũng nô đùa tự
nhiên nhưng không đủ át cái không khí vây quanh. Trời
cao, cỏ rậm và băi tha ma, những ngôi nhà lẩn lút.
Buổi sáng chết lặng đi với những tiếng
động tưởng như không có chút nào liên lạc
với nhau. Tiếng búa gơ trên gỗ, tiếng máy nổ,
tiếng phi cơ, trẻ con cười đùa và tiếng
bước của thời tiết, trên lá cỏ, và trên nóc
nhà.
Ở Hà Nội, Thanh về với Nga, Thanh không hát nữa.
Từ ngày ấy tôi chưa về Hà Nội lần nào mà
cũng không muốn về. Một ngày nhận
được thư của Ngọc:
"Tâm,
Mày hăy tỏ ra mày tự do. Bằng cách nào? Từ cái
chức giáo sư quèn ấy đi. Nếu không kiếm
được công việc làm nào khác th́ xuống đây tao nuôi.
Tao cho mày tự do. Mày sẽ sống như cuộc
đời của tao đây này. Rồi mày sẽ hiểu
tại sao tao lại nghĩ vậy. Tao đă ăn một
cái Tết khá đầy đủ với chúng mày. Cám
ơn, cái Tết cuối cùng đấy v́ tao sắp đi
rồi. Chuyến này thành sự thực. Mày hăy xuống mau
sống nốt với tao những ngày ở xứ này. Mai
kia tao c̣n nhớ măi măi.
Dù con sâu con mọt có nằm giữa tim giữa óc hay
giữa… ông cũng đếch cần. Ông cần mày,
cần ngay để ông đi. Truyền lệnh! Ngọc.”
Tôi nằm rất lâu trong bóng tối. H́nh như tôi sốt.
Cho đến khi cha Tân vào pḥng. Ông nói:
“Thầy không bật đèn lên?”
Tôi ngồi lên xin lỗi và làm theo lời ông. Ông ngồi
xuống vẻ mặt nghiêm trọng. Tôi cất lá thư
của Ngọc, khoác thêm áo đến ngồi đối
diện với ông. Vẫn những tiếng nổ
thường lệ làm nền cho buổi tối. Ông Tân
hỏi:
“H́nh như thầy không được khoẻ?”
Tôi vẽ một nụ cười.
“Bị sốt xoàng thôi, cám ơn cha.”
Một lát cha Tân vẫn chưa nói thêm. Tôi bỗng nói:
“Tôi muốn xin phép cha nghỉ độ nửa tháng.”
“Thày có thể nghỉ dài hạn cũng được.”
À đó là lư do ông đến thăm tôi buổi tối hôm
nay trong giờ cầu nguyện của ông. Tôi ngạc nhiên
một chút rồi dửng dưng ngay.
“Vâng thế cũng được.”
Tôi ngồi lại trong buồng nghe tiếng sột
soạt của bộ quần áo tu sĩ xa dần ngoài hành
lang. Tôi thấy nhẹ nhơm. Tôi không hỏi v́ cớ ǵ ông
muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đă quên không
nói cho tôi biết. Lối làm việc cẩu thả của
tôi chăng? Những tư tưởng tôi đă nói trong
giờ học đáng lẽ không nên nói chăng? Tôi cũng
chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhơm vô cùng và ngủ
một giấc thật say.
Tôi thức dậy sớm khi trời chưa sáng, thu xếp
hành lư. Ông già gác đă thức dậy thấy ánh đèn, lên
pḥng tôi, ngạc nhiên:
“Thầy sửa soạn đi đâu sớm?”
Tôi hơi buồn v́ giọng nói và sự có mặt của
ông già. Ông vẫn khoác tấm áo dạ tôi trông thấy ngày
mới đến trường này. Tôi đáp:
“Tôi nghỉ việc rồi.”
Ông già không hỏi ǵ thêm lẳng lặng giúp tôi một tay.
Tôi nói:
“Từ hôm nay ông không lấy báo cho tôi nữa nhé.”
Tôi đi trong sự vắng lặng hoàn toàn của buổi
mai chưa một ai trở dậy. Vẫn ông già xách giúp tôi
cái va ly đi sau như ngày mới đến. Trời
nắng đục, gác chuông cao và lạnh. Tôi giẫm trên
những viên đá sỏi.
Ông già gác đặt va ly xuống mở khóa cổng. Tôi
bảo ông:
“Ông nói với cha Tân và cả trường tôi xin lỗi
gửi lời từ biệt v́ đi sớm quá. Đi
thế này cho mát.”
Và tôi bắt tay, bàn tay răn reo khô khan:
“Chào ông.”
Tiếng cửa sắt đóng sau lưng tôi và phố c̣n
ngủ với những căn nhà yếu ớt của nó.
Bến xe đă ầm tiếng nói cười. Tôi vào quán
ăn điểm tâm và nhớ cuộc gặp gỡ
với Hạnh. Mưa thoang thoáng.
Người phu xe nói:
“Đi giờ này là cảm tử nhất.”
Xe ra đầu tỉnh trời đă sáng hẳn, tiếng
ồn ào ở phía sau rồi. Một vài học sinh đi
ngang xe cúi đầu chào tôi.
Xuống bến xe ở Hà Nội nắng mới bắt
đầu lên. Tôi nghĩ đến ông Chính và tôi nghĩ
phải về nhà.
Nhà khoá trái cửa. Tôi hỏi thăm người ở
chung. Ông Chính bệnh nặng đêm qua, sáng này phải
đưa sớm xuống nhà thương Bạch Mai. Tôi
gửi hành lư và thuê xe xuống Bạch Mai.
Ông Chính đă chết.
Tôi đến không kịp nh́n ông lúc hấp hối.
Người ta đă mang ông xuống nhà xác. Ông bị
bệnh màng óc. Từ trên gác cao lạnh lùng nhạt
nắng, tôi đi xuống theo những con đường
ngang đến nhà xác. Những tiếng động ở
đâu, c̣n tôi tiến dần đến vào sự im
lặng. Tôi nghe thấy một tràng cười rũ
rượi. Khu điên gần đấy. Những cây cao
ngó xuống.
Thịnh ngồi gác ủ rũ trên đầu ông Chính và
Đại đứng cạnh. Thấy tôi vào Thịnh khóc
nức nở. Tôi giở tấm khăn phủ mặt ông
Chính và nước mắt tuôn tràn. Mặt ông đó c̣n
tất cả sự đau đớn hành hạ trên
nếp răn. Tôi cúi đầu rất lâu để
mặc cho nước mắt chảy. Tôi ghi h́nh ảnh
người cha ghẻ lần cuối. Người thân
cuối.
Sao Thịnh lại không khóc nữa và tiếng chim sẻ ríu
rít ngoài kia? Rồi tiếng ai tấm tức. Đó là
một thiếu phụ trẻ ngồi bên một cái xác
cuối pḥng. Chắc là chồng nàng.
Tôi bảo với Thịnh:
"Chúng tôi đi ra ngoài."
Con đường rợp. Đại húng hắng ho.
Thịnh sụt sịt. Tôi chỉ c̣n một ư nghĩ: Ông
Chính chết, chết đột ngột quá.
“Sao anh ít về nhà?”
Câu trối trăng của ông với tôi đó chăng?
Về nhà ư? C̣n ít ngày nữa là đến giỗ
mẹ. Tôi thắp hương chỗ nào. Mộ mẹ tôi
nằm tận vùng quê ngoại mà chiến tranh đă vây
lấp.
Uống xong bát nước nóng - Thịnh bảo cho khỏi
cảm – tôi từ biệt hai người.
Tôi đến với Thanh.
Thanh va Nga bỏ công việc ra tiếp. Tôi muốn tiếng
máy may cứ nhịp đều. Tôi bảo Thanh:
“Ông Chính mất rồi, sáng nay.”
Thanh nhắc lại:
“Ông Chính mất rồi.”
Tôi thấy Nga kín đáo đưa khăn tay chấm
cuối mắt. À, giữa Thanh và ông Chính có liên lạc ǵ.
Cứ nói ngay với tôi nữa.
“Sao anh ít về nhà?”
Nga bảo:
“Chúng ḿnh có thể về được đấy Thanh
ạ.”
Ngoài đường vẫn c̣n đôi người nhàn
rỗi đi dạo nốt mùa xuân muộn sót.
Tôi theo hai người cho đến khi gặp một bà
cụ già ngồi ở đầu phản: mẹ của
Nga. Tôi cúi chào.
Đám ma của ông Chính đưa về nghĩa trang
Quảng Thiện. Có mặt Bảo, Thanh, Nga những
học tṛ của ông Chính, vắng mặt Đại.
Một vài người bạn của ông Chính tôi chưa
gặp bao giờ th́ thầm ngơ ngác. Nghĩa trang
đẹp trên khu đồi nhiều cây cao. Tôi ném viên
đất thứ nhất lên nắp quan tài, Thịnh
lăn lộn trên cỏ như một con chó điên, tóc tai
rũ rượi, tay chân cào cấu. Người ta đă
mang đặt những ṿng hoa lên nắm đất.
Thịnh vẫn úp mặt xuống cỏ. Không có
Đại. Tôi chẳng quan tâm. Thanh và Nga đỡ Thịnh
dậy. Và Thịnh cũng im bặt. Chúng tôi đi về.
Buổi tối về nhà. Căn nhà vắng vẻ không
hương khói. Thịnh ngồi co ro trong một góc
phản, tôi hỏi:
"Chị không lập bàn thờ thầy?"
Tôi không được tự nhiên khi nói tiếng thầy.
Không c̣n liên lạc ǵ nữa. Quá khứ rồi.
"Tôi không ở đây" – Thịnh b́nh thản trả
lời. "Tôi với anh không có bổn phận ǵ với
nhau. Tôi đợi để trả nhà anh."
"Nhà tôi." Tôi muốn cười lớn. Nhưng tôi
cho Thịnh nghĩ phải. Tôi lại hỏi:
"Anh Đại đâu không thấy về?"
"Anh ấy đi rồi. Anh ấy được liên
lạc từ tuần trước nhưng nán lại v́
thầy chết. Anh đi hôm qua."
"C̣n chị?"
"Tôi đă nhận được chân vú em đi xa."
Tôi quay ra mặt đường. Tôi đă nhận thấy
bụng Thịnh mang thai. Đến lượt Thịnh
hỏi tôi:
"C̣n anh?"
"Tôi thất nghiệp, tôi cũng không c̣n ǵ để
ở đây nữa. Chị có thể bán hết đồ
đạc trong nhà này giữ làm vốn, tôi không cần
bằng chị."
Chúng tôi im lặng. Ở giữa chúng tôi không c̣n ǵ ngoài
người đă chết. Tôi nhớ đến buổi
tối trước hôm sang Bắc Ninh tôi đă nói chuyện
với ông Chính. Ở giữa chúng tôi cũng có một
người chết. Cuốn Crime et châtiment lật
ngửa ở đầu giường. Tôi muốn kêu
lớn: nó là thằng hèn, có nó ở đây tôi đập vào
mặt nó.
Tôi bỏ Thịnh với gian nhà và xuống Bảo.
Vợ Bảo dọn giường cho chúng tôi. Đứa
con Bảo khóc và mẹ nó ru. Nửa đêm chúng tôi thức
giấc, tôi nói:
"Mai tôi xuống Pḥng với Ngọc."
Bảo không trả lời.
Bảo đưa tôi ra xe xuống Pḥng. Chúng tôi đi xe
điện xuống bờ và đi chân lên bến xe. Tay tôi
vẫn xách chiếc va ly nhỏ ngày sang Bắc Ninh
đựng chừng ấy thứ quần áo và vật
dụng. Bảo hỏi:
"Anh xuống chơi hay ở hẳn dưới với
Ngọc?"
Tôi đáp:
"Chưa biết."
Ngồi trên xe đợi chạy, tôi có ư định bỏ
dở cuộc đi. Tôi không biết xuống Ngọc xong
tôi sẽ làm ǵ hoặc đi đâu. Xe đến Hải
Pḥng đă quá trưa, tôi ghé quán ăn cơm trước khi
t́m địa chỉ Ngọc.
Đến nơi tôi bước lên căn gác trong ngơ Cô Ba
Ch́a, ọp ẹp trống trơn trơ một cái bàn mộc
và một manh chiếu.
Ngọc đă đi theo một chiếc tàu biển
được hai hôm. Người đàn bà thổi cơm
cho Ngọc trao tôi mảnh giấy Ngọc viết lại
và nói:
"Ông ấy đi gấp quá. Ông dặn nếu ông
xuống ông có thể ở đây vài hôm rồi hăy
về."
Thư của Ngọc:
"Tâm ơi,
Thế là tao đi rồi. Không hiểu sao tao cứ đinh
ninh mày sẽ xuống gặp tao. Nghĩ rằng mặt mày
sẽ ngơ ngác như chú chim chích trong rừng sao tao khoái
làm vậy.
C̣i tàu đă rúc, khói tàu đă nhả, sóng biển đă
vỗ và hồn đây căng buồm.
C̣n bao giờ tôi trở lại mảnh đất này không?
Không biết, mặc.
Tao đi không mang theo hành lư chỉ có h́nh ảnh mẹ, các
em và chúng mày.
Thế là quá nặng cho một người. Mày sẽ
về từ biệt hộ tao với vợ chồng
Bảo.
Ờ tao đi không phải chia ly mà chính chúng mày chia ly
hộ tao mới sướng chứ. Tao đă dặn bà
chủ nhà trong trường hợp mày xuống bà sẽ
trao bức thư này, cho mày tá túc vài hôm tuỳ ư mày. Cứ
yên chí ở chơi coi như tao vắng nhà ít bữa."
Tôi không biết nên bắt đầu như thế nào
buổi chiều này.
Ra khỏi nơi Ngọc ở, tôi đứng trước
một khúc phố rộng nhưng xơ xác chạy tới
phía nhà ga hiu quạnh. Bên kia đường vài gian nhà
đang xây dở.
Tôi đi măi trong phố đông người và rẽ vào
một rạp chiếu bóng. Tôi dẫn một đứa bé
lem luốc ở cửa rạp vào. Tôi trở ra khi buổi
chiều lặng lẽ xuống. Những người
đi làm về. Tôi gặp những toán lao động trai
gái. Tôi cứ cảm tưởng Ngọc lẫn đâu
trong ấy và trêu cợt tôi.
Dần dần tôi đến khu nhà Tây vắng vẻ. Tôi
mong gặp một người quen.
Ngồi bên kè đá tôi nh́n mặt nước rộng,
nước cuộn chảy. Những chiếc thuyền và
những thân tàu.
Một người ngoại quốc biễu diễn
trượt nước trên ḍng sông. Sau lưng tôi
người ta đi hứng gió. Một vài đôi t́nh nhân,
một vài cặp vợ chồng, một chiếc xe nôi
của con Tây.
Chiều xuống thấp măi gần mặt nước.
Tiếng c̣i tàu um um.
Tôi đứng lên, đèn đă thắp. Cây cao tối
như trong vườn nhà thương.
Tôi về trải chiếu trên căn góc ọp ẹp
Ngọc đă ở. Hắn đi thật rồi, như
ông Chính chết như Đại đă đi. Không muỗi
nhưng hơi lạnh về giữa đêm. Tôi mê gặp
Hạnh và tỉnh giấc. Tôi không nhớ ḿnh đang
nằm ở đâu, ḿnh đến đây làm ǵ. Chưa bao
giờ tôi cảm nỗi tuyệt vọng ghê gớm
đến như thế. Tôi có thể tự tử
được. Nhưng tôi tự nhủ: Cũng thế
thôi, phải, cũng thế thôi.
*
"Thanh,
Không ngờ Thanh c̣n nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng
nơi quê hương không c̣n ai nhớ đến anh
nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng không buộc
với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra.
Người ta gặp nhau ngoài phố rồi quên nhau ngay,
th́ ở quê hương hay một phương trời nào
khác ǵ nhau.
Một hôm t́nh cờ anh nghe đài phát thanh nhà và
được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy?Trở về mái nhà xưa. Anh
định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết
đâu Thanh đă chẳng quên anh rồi như mọi
người. Được thư Thanh anh phải cám
ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một ḿnh. Nga đă lấy chồng.
Chắc Nga đă thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này
anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi
danh. Thanh hát lại là phải, anh đă chẳng nói thế
hay sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khoẻ,
được mấy cháu rồi? Hăy nói với Minh lấy
tên anh đặt cho một đứa con của Minh
để anh được đinh ninh anh c̣n nhiều liên
lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi
một ḿnh suốt đời. Thanh hăy can đảm
nhận ra điều ấy. Đi một ḿnh suốt
đời khó nhọc đấy chứ. Không một
sự ǵ ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn
bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh
chỉ c̣n có Thanh và chắc Thanh chỉ c̣n có anh. Hăy cho anh
sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê
hương, anh đă có sự ràng buộc thật thà
từ trước, ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải
những người cùng máu mủ với ḿnh.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau
để cùng nhau bám chặt quê hương nếu không
chúng ta sẽ mất trong sự quên lăng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm."
Viết xong tại Thủ Dầu Một vào tháng 10-1956
Bạt
Mấy ghi nhận về bếp lửa
Nhà văn thường là kẻ bất công với chính ḿnh:
bất công với những ǵ hắn đă viết ra.
Hắn thường nh́n lại tác phẩm của hắn
với con mắt nghi ngờ, không toại nguyện. Càng
nghi ngờ, không toại nguyện khi đó là tác phẩm
đầu tay mà ngày nào, khi “chưa phải là nhà văn”,
hắn đă hoàn tất với tất cả sự say mê
cuồng nhiệt, t́nh cảm mà mai đây, khi đă là nhà
văn rồi, không dễ dầu ǵ hắn t́m lại
được. Với hắn dường như tác
phẩm thật sự là tác phẩm hắn đang
viết, sẽ viết, đang hoàn tất, sẽ không hoàn
tất bao giờ. Trong khi cuốn sách đầu tiên,
đối với hắn, chỉ là những bước
chân dọ dẫm, những âm vang ngơ ngác của một
thời: thời mới lớn. Dường như tác
phẩm đầu tay của một nhà văn luôn luôn
gắn bó vào chính cái thời mới lớn của nhà
văn đó. Nó đánh dấu một thời mới
lớn, nó chính là cái thời ngu ngơ bất trắc
đó. Cho nên trong chủ quan của nhà văn, nó là cái ǵ
nhất thiết phải được vượt qua,
một cách nào đó, phải được chối
bỏ. Nó không c̣n là một khởi điểm. Nói là
một bước lỗi lầm mà nhà văn muốn quên
đi như một nỗi thất bại. Trường
hợp Philippe Sollers mới đây khi lên tiếng phủ
nhận và loại bỏ tác phẩm đầu tay [1]
ra khỏi toàn bộ tác phẩm của ḿnh là một
trường hợp điển h́nh. Tác phẩm đầu
tay càng sớm trở thành cổ điển, nó càng là lư do
để tác giả nó hoài nghi và phủ nhận chính nó.
Phải chăng đó là ư thức khốn khổ của
nhà văn khi bắt đầu nhận thức rằng ḿnh
“chỉ là một nhà văn”, bắt đầu có
một cái nh́n thấu suốt qua căn phần và
định mệnh “nhà văn” của ḿnh.
Phảỉ chăng nơi đây, nhà văn cũng không
khác ǵ nhà triết học, nói theo một bực thầy
hiện đại, chính là kẻ ”đời đời
khởi nghiệp”. Viết, một cách nào đó, là
viết chống lại những ǵ ḿnh đă viết,
nhất là chống lại những t́nh cảm sôi nổi
ngày nào thể hiện qua những trang sách đầu tiên.
Viết, một cách nào đó, là viết chống lại tác
phẩm đầu tay của ḿnh, một khi “sự kiêu
hănh của tuổi nhỏ (đă) nhường chỗ cho
sự b́nh tĩnh ư thức”, một khi nguời ta “bắt
đầu cầm bút thực sự”.
Mấy ư nghĩa tự phát và chủ quan trên đây đă
đến với tôi sau khi đọc lại Bếp
lửa và sau khi đọc lại bài tựa do chính tác
giả viết lên đầu tác phẩm đầu tay
của ḿnh trong lần xuất bản thứ hai (Sáng
Tạo, 1965). Tám năm sau lần xuất bản thứ
nhất (1957-1965), Thanh Tâm Tuyền đă có dịp nh́n
lại tác phẩm đầu tay của ḿnh như một
kẻ đứng ngoài kinh nghiệm của chính ḿnh, nh́n vào
lại nó bằng một cái nh́n chân thật đến tàn
ác, nếu cần. Tác giả muốn nói ǵ với chúng ta qua
lời thú thật đó? Một cuốn sách chưa thành h́nh,
một tác phẩm dở dang hay đúng hơn là một kinh
nghiệm đă hoàn tất? Cuốn sách của một
người mới lớn liệu có thoát ngoài kinh
nghiệm của chính tâm hồn mới lớn đó? “Lúc
hắn viết cuốn sách này, hắn chưa phải là
một nhà văn, không muốn là một nhà văn. Hắn chưa
biết ḿnh muốn ǵ v́ hắn muốn tất cả”.
Tất cả ở đây phải chăng là toàn thể cái
kinh nghiệm sống mà hắn muốn thể hiện lên
những trang sách thứ nhất đó? Cuốn sách
đầu tiên, đó chưa là kinh nghiệm của tác
phẩm mà là tác phẩm của một kinh nghiệm. Cho nên khi
nh́n lại cuốn sách đầu tay của ḿnh, để
trở lại với một ư nghĩa ở trên, tôi
nghĩ nhà văn có thể phủ nhận nó như một
kinh nghiệm, một kinh nghiệm khốc liệt mà chính
hắn đă trải qua, một kinh nghiệm đă làm
biến đổi tâm hồn hắn, đă d́u hắn
đến ngồi vào bàn, viết ḍng chữ dầu tiên, “Tôi
t́m Thanh ở chỗ làm việc của nàng…”, ḍng chữ
đầu tiên hay chính là lời nói đă t́m được
cơ hội thốt lên và chính hắn cũng đă tan
biến vào lời nói đó.
Có lẽ không phải t́nh cờ khi phần đông các tác
phẩm tiểu thuyết đầu tay đều viết
ngôi thứ nhất. Hăy nói một cách đơn giản
hơn: nó là lời nói của một con người,
một kinh nghiệm. Con người đó đă từng sống
thật trước khi biến thành nhân vật tiểu
thuyết và tác giả không là kẻ sáng tạo nên nhân
vật tiểu thuyết của ḿnh: hắn chính là nhân
vật tiểu thuyết đó (Narcisse chết: hắn là
kẻ không biết dùng chữ, đáng tiếc!)
Tác phẩm hay là một sự nối tiếp của
một kinh nghiệm sống, một thảm kịch
sống. Phải chăng chính trong ư nghĩa đó, Bếp
lửa nhất thiết là một cuốn sách, nói theo tác
giả, của một người “chưa phải là
một nhà văn”. Viết Bếp lửa,
điều này cũng có nghĩa là sống (một lần
nữa) cái thảm kịch của chính nó đồng
thời mời gọi người đọc tham dự
không phải vào một thế giới phù phép, giả
ảo của chữ nghĩa mà vào thế giới c̣n
nồng nàn hơi thở của sự sống. Nếu
nhận rằng có một hố sâu ngăn cách giữa
văn chương và thực tại, giữa chữ và
nghĩa, th́ ở đây, sự vinh quang của Bếp
lửa chính là ở chỗ nó chưa rơi vào sự sa
đoạ của tác phẩm, nó là cuốn sách c̣n là
cuốn sách hiểu trong ư nghĩa đơn sơ nhất
của danh từ, cuốn sách của một người
"Chưa phải là một nhà văn, chưa muốn
là một nhà văn". Bởi nhà văn cần
thiết là một con người sa đoạ, hắn hy
sinh thực tại cho mộng tưởng, hắn hy sinh
thế giới cho h́nh ảnh, hắn hy sinh sự sống
cho chữ nghĩa, vân vân… Hăy nghe Thanh Tâm Tuyền nói: “Mỗi
nhà văn chính là một kẻ sống sót”. Kẻ
sống sót với “sự thật” của những
người chết “truyền lưu” cho hắn. Nói khác
đi, sự thật chính là sứ mạng của nhà
văn.
Nếu Bếp lửa thể hiện một sự
thật, một kinh nghiệm th́ thất bại chính là tên
gọi của sự thật, của kinh nghiệm đó.
Trong một bài viết của Thanh Tâm Tuyền, tôi có đi
tới một nhận xét: “Đọc Thanh Tâm Tuyền
tức là một cách nào đó tham dự vào cuộc phiêu
lưu trắc trở của một kiến thức
lạc loài và bất hạnh". [2]
Nhân vật Bếp lửa chính là một trường
hợp điển h́nh của ư thức khốn khổ
đó. Một ư thức khốn khổ hay một ư thức
trong cuộc hành tŕnh vô vọng giữa hư vô và
đổ vỡ. Một ư thức mà giấc mộng “biến
cải thế giới”, “thay đổi cuộc
đời”, “tự do và lựa chọn”… chỉ
c̣n là một nỗi “đam mê và vô ích” giữa
những thế lực mù quáng của định mệnh
của lịch sử không ngừng lấn áp ở mọi
phía. Một ư thức, trong cô đơn và bất lực, bị
kết án phải “đi một ḿnh suốt đời”
giữa bốn bề hỗn độn, tối tăm.
Cuốn sách mở ra một cuộc hành tŕnh, hành tŕnh vào cơi
đêm thâu. Trên từng câu văn ngắn, trên từng
chữ nghĩa cô đơn, người đọc không
đọc mà lắng nghe, lắng nghe cái âm vang lạc loài
của những bước chân cô đơn, quờ quạng.
Thảm kịch Bếp lửa là thảm kịch
của con người như một ư thức bị vây
khổn. Nó bị kẹt v́ nó là một ư thức. Nó
khốn khổ v́ nó là một ư thức. Ư thức, đó
chính là một căn bệnh khốc liệt nhất, là “con
sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa năo”, là cái
chết ngày một lớn lên, là sa mạc ngày một
rộng mở. Hay là định nghĩa của con
người như một ư thức, một ư thức
như một nỗi khốn khổ. “Đi đâu
cũng vẫn chỉ là mày – đau khổ và nhục nhă. Mà
nào riêng có đất này hổ nhục thôi đâu, mọi
nơi mắt mày cũng chỉ nh́n thấy như vậy.
Không trốn được đâu, trừ phi mày trốn
được ḷng mày”. Đi đâu? Đó là câu hỏi
khốc liệt từng phút từng giây đốt cháy tâm
tư con người giữa sa mạc quạnh hiu bát ngát.
Đi đâu rồi cũng vẫn thế, ư thức
đời đời vẫn là nỗi bất lực
đớn đau, ư thức sau cùng chỉ c̣n là những
tiếng ngọ nguậy của bầy cua trong giỏ, nó
vô vọng bẻ gẫy và vượt qua những giới
hạn của ḿnh, t́m đến những chân trời kỳ
diệu của ước muốn và mộng tưởng.
Nhân vật Bếp lửa không ngừng loay hoay, t́m
kiếm, lặn hụp, phá phách trong một thế giới
đầy ắp những cái ngẫu nhiên, không
thường tồn, không tất yếu, một thế
giới rạn nứt, vô phương hàn gắn. Một
thế giới về chiều. “Về đâu bây giờ?”
Trong cái thế giới âm u, xám ngắt câu hỏi thốt
lên, âm thầm nhưng man rợ làm sao, bởi đó c̣n là
câu hỏi, bởi đó là tiếng thét gọi của
một ư thức đang lâm vào đường cùng, bởi
đáp lại nó, chỉ có niềm im lặng hư vô và bóng
tối điệp trùng. Và cuộc hành tŕnh vẫn tiếp
tục, c̣n măi măi tiếp tục với nhân vật Bếp
lửa, cuộc hành tŕnh không hứa hẹn về
đâu: “Tôi không nhớ ḿnh đang ở đâu, ḿnh
đến đây làm ǵ. Chưa bao giờ tôi cảm
thấy nỗi tuyệt vọng ghê gớm đên như
thế. Tôi có thể tự tử được. Nhưng
tôi tự nhủ: cũng thế thôi”. Hoạ may,
cuộc hành tŕnh kia rồi sẽ đưa người ta
tới cái chết, như một thất bại sau cùng,
như một đoạn đường sau chót của
một chuyến phiêu lưu.
Liệu c̣n có cách kết thúc nào khác cho một câu chuyện
như thế? Cái chết xuất hiện như một
người t́nh đúng hẹn. Cái chết không kết thúc
nhưng hoàn tất, như người ta hoàn tất
một tác phẩm, một công tŕnh có ư nghĩa, một ư
nghĩa. ”Tôi có thể tự tử được”.
Tưởng tượng nhân vật Bếp lửa đă
thốt lên câu đó với tất cả sung sướng
cuả tâm hồn. Tưởng tượng đó cũng là
câu văn hồn nhiên trong sáng nhất của Bếp
Lửa. Bởi thảm kịch ư thức đă
đạt tới độ cao của nó: ”Chưa bao
giờ tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng ghê
gớm đến như thế”: Cái chết như
một cách giải quyết sau cùng. Thất bại sau cùng
là chiến thắng đầu tiên của ư thức
khốn khổ.
Nhưng tại sao nhân vật Bếp lửa đă
không chấp nhận cái chết lựa chọn và tự do
đó? Tôi nghĩ rằng hơn ai hết hắn thừa
hiểu rằng cái chết thể hiện sự tự do
tuyệt đối của con người như một
khả năng lựa chọn, đồng thời chính nó
cũng phủ nhận con người như một
khả năng lựa chọn, đồng thời cũng
chính nó huỷ diệt khả năng lựa chọn đó.
“Cũng thế thôi”. Cái chết không thay đổi
được ǵ. Hơn thế nữa, cái chết ở
đây c̣n là sự thất bại của chính sự
thất bại.
Trong viễn tưởng đó, ta có thể nói Bếp
lửa là hành tŕnh của một ư thức khốn
khổ c̣n Là ư thức khốn khổ, là kinh nghiệm
của một sự thất bại. Chấp nhận con
người như một nỗi thất bại, phải
chăng đó cũng là cách chấp nhận chính đời
sống này. Cái chết là khởi điểm của Bếp
lửa nhưng không là cùng đích của nó. Đúng
hơn nó là sự h́nh thành của một thái độ.
Phải chăng đó cũng là một giá trị cao cả
của Bếp lửa?
Huỳnh Phan Anh