thanh thảo
TR̉ CHUYỆN VỚI D̉NG SÔNG
Nhiều năm nay, kể từ cái đêm thơ nhạc kỷ niệm 40 năm đường 559 do nhà thơ Phạm Tiến Duật dẫn chương tŕnh, trong đêm ấy Tế Hanh v́ quá xúc động khi nhớ lại chuyến đi qua Trường Sơn của ḿnh đầu năm 1974, ông đă bị xuất huyết năo. Suốt những năm ấy, không thể có một cuộc phỏng vấn hay “gặp gỡ” nào được thực hiện với Tế Hanh, đơn giản v́ ông không nói được. Tôi nghĩ, hàng chục năm nay, Tế Hanh chỉ c̣n tṛ chuyện với ḍng sông của ḿnh, ḍng sông của đời ḿnh, trong im lặng.V́ thế, những cuộc tṛ chuyện tôi kể sau đây đều thuộc về thời gian trước khi Tế Hanh lâm trọng bệnh.
“Ḿnh muốn viết một trường ca về Dung Quất”
Năm 1997, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thực hiện một phim chân dung Tế Hanh theo đơn đặt hàng của Hội nhà văn VN. Dĩ nhiên, “nhân vật chính”-nhà thơ Tế Hanh-được trân trọng mời về Quảng Ngăi, về tận quê ông ở B́nh Dương-B́nh Sơn để “đóng phim”.Được quen với Tế Hanh từ hơn 20 năm trước, tôi vẫn biết Tế Hanh là người thật thà, rất thật thà và có vẻ không quen “tŕnh diễn’ trước đông người. Ông nói chuyện thơ không cuốn hút như Xuân Diệu, không sắc sảo như Chế Lan Viên. Và tôi nghĩ, chắc ông cũng “đóng phim” không xuất sắc như Nguyễn Tuân hay một số nhà văn nhà thơ khác. Tôi nhầm! Dù không “diễn” theo kiểu diễn viên chuyên nghiệp trước ống kính, nhưng Tế Hanh vào vai “hơi bị được”. Ông cứ thật thà và b́nh dị như thế trước ống kính, cũng không khác khi ông chuyện tṛ với chúng tôi bên ấm trà hay thảng hoặc bên chai bia. Chính cái thật không vẽ vời của ông đă khiến Nguyễn Thụy Kha có được những thước phim chân dung rất thuyết phục. Có lần, trong “kịch bản”, Tế Hanh có về Dung Quất để “diễn xuất”. Chúng tôi tháp tùng ông ra tận bờ biển vịnh Dung Quất, nơi sẽ là cảng dầu khí hoành tráng. Thực ra lúc bấy giờ chẳng thấy cảng dầu ở đâu, chỉ gặp một bờ biển đẹp th́ rất đẹp nhưng…bẩn cũng cực bẩn. Đầy phân người tươi rói và cả khô cứng. Tôi với Thụy Kha phải d́u Tế Hanh đi từng bước thận trọng trên băi cát, sợ ông dẫm phải “lựu đạn” gài. Thời gian ấy mắt Tế Hanh đă bị đau nặng, gần như ông không nh́n thấy ǵ, hoặc chỉ nh́n lờ mờ.Quay phim xong, cả đoàn chúng tôi lên một quán cóc phía trên băi biển và gọi vài con mực nướng, mấy chai bia Dung Quất-bia Quảng Ngăi sản xuất-để “liên hoan”. Tế Hanh tuy chỉ nhấm nháp chút bia “quê nhà” nhưng ông rất hào hứng nâng ly với chúng tôi. Ông đâu ngờ chính vào lúc ấy, ông đă giúp cho nhà máy bia Dung Quất những h́nh ảnh quảng bá sản phẩm có một không hai: nhà thơ Tế Hanh uống bia Dung Quất ngay tại…Dung Quất! Quảng cáo như thế th́ tuyệt vời chứ ạ! Sau này, tôi có hỏi ông giám đốc bia Dung Quất: có ǵ không ông ? Ông ta cười khà khà: “No, I don’t know”(không, tôi không biết!). Đúng là “hết biết”. Trong câu chuyện tâm t́nh bên vịnh Dung Quất, chợt Tế Hanh nói: “Vùng này hồi xưa gọi là thôn Tuyết Diêm. Đây là thôn của diêm dân-những người làm muối. Hồi nhỏ ḿnh có trọ học ở đây một thời gian. Dân ở đây nghèo lắm. Nếu ta làm được Dung Quất cho dân Tuyết Diêm đổi đời th́ không mừng nào bằng! Ḿnh muốn viết một trường ca về Dung Quất. Ḿnh có một khoảng thời thơ ấu ở đây. Ḿnh muốn viết…” Chúng tôi đều lặng người nghe ông nói. Năm 1997, Tế Hanh đă 76 tuổi(ông sinh năm 1921-tuổi Tân Dậu-chúng tôi vẫn đọc đùa ông: “Liên Xô nở trước đời Ông…4 tuổi). Vậy mà ông vẫn khát khao viết được một bài thơ dài về quê hương ḿnh. Trong khi chúng tôi c̣n trẻ hơn ông rất nhiều, lại cứ mải bia bọt rong chơi, chỉ thỉnh thoảng ghé Dung Quất viết vài bài…báo. Mà không hẳn đă ngợi ca. Lời bộc bạch chân t́nh của Tế Hanh khiến cả đoàn chúng tôi cảm động. Nhưng cũng rủi mà may, là nếu ông bắt tay vào viết cái trường ca ấy, số phận nó chắc cũng long đong như... Nay th́ nhà máy lọc dầu Dung Quất đă có thời hạn để hoàn thành, nhưng cái trường ca của Tế Hanh về Dung Quất th́ măi măi chỉ là mơ ước của ông và của chúng tôi.
sáng cô áo đỏ chiều cô áo xanh
Năm 1994, tôi được nhà xuất bản Đà Nẵng mời tham gia vào Hội đồng biên soạn và tuyển chọn một tập thơ Miền Trung thế kỷ hai mươi. Nhà thơ Tế Hanh là chủ biên công tŕnh này.Lại có được một khoảng thời gian chúng tôi sống cùng Tế Hanh để làm việc và…lai rai. Dạo đó mắt Tế Hanh đă yếu lắm. Nghe nói Ông được đi nước ngoài chữa mắt, nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm là mấy. Chúng tôi làm việc tập thể, và theo kiểu “tuyên đọc” từng bài thơ đă sơ chọn để Tế Hanh nghe và thẩm định. Ngồi với nhau như thế ngày này qua ngày khác cũng rất mệt, nhưng tôi thấy Tế Hanh nghe rất chăm chú và có những nhận xét xác đáng. Ông là người tinh tường trong thẩm thơ. Chỉ khổ một nỗi là nhà thơ ở xứ ta nhiều quá, bản thảo thơ lại càng nhiều nên chúng tôi đọc khan cả cổ mà vẫn chưa hết. Tế Hanh vẫn kiên nhẫn ngồi nghe, không hề tỏ ra mệt mỏi, dù tôi biết ông rất mệt. Thỉnh thoảng cũng có những lúc thư giăn, chúng tôi ngồi uống bia và tán chuyện linh tinh. Tế Hanh rất hồn nhiên trong những lúc ấy, ông tham gia nhiệt t́nh với đám trẻ chúng tôi. Có lần, chị giám đốc nhà khách tỉnh ủy-nơi chúng tôi ở- hớn hở đến chào nhà thơ Tế Hanh. Buổi sáng, chị đến chào. Buổi chiều, chị lại…chào đến. Chúng tôi kín đáo nh́n nhau cười: thế này, khéo có chuyện(?).Đột ngột, trong lần “chào buổi chiều” của người đẹp U…50, Tế Hanh chợt nói, bằng giọng Quảng Ngăi “gốc” của ông: “ Buổi sáng cô mẹc áo đỏ, buổi chiều cô mẹc áo xanh, đẹp quá!” Chúng tôi nh́n nhau, chưng hửng: chết, hoá ra ông cụ c̣n…nh́n thấy. Nh́n đúng nữa chứ! Chị giám đốc nhà khách được nhà thơ lớn khen…trúng phóc, hai má chợt đỏ rựng lên trên nền áo…xanh.
“ḿnh thích thơ hiện đại lắm, nhưng…”
Tế Hanh thời chưa đau mắt nặng ông rất mê đọc sách. Ông là một trong những nhà thơ Việt Nam đọc thơ Tây nhiều nhất.Vậy mà giọng thơ Tế Hanh vẫn rất mộc mạc, thật hồn nhiên và với ông, kỹ thuật thơ, dù là kỹ thuật tân kỳ, vẫn không khiến ông quan tâm bằng chính cảm xúc và sự hồn nhiên, đôn hậu. Có lần, cách đây đă ngót 30 năm, trong dịp về Qui Nhơn, ông nói với tôi: “ Ḿnh thích thơ hiện đại phương Tây, nhất là thơ hiện đại Pháp. Tôi hỏi ông thích ai trong những nhà thơ Pháp hiện đại, Tế Hanh nói: “Ḿnh thích Aragon, nhất là những sáng tác thời kỳ sau của ông mà ở ta chưa dịch.Thơ Aragon trôi chảy như một ḍng sông lớn. Ḿnh thích Eluard. Thơ Ông trong veo nhưng rất khó nắm bắt. Ḿnh thích thơ Rene Char, một nhà thơ Pháp tham gia kháng chiến chống phát xít nhưng làm thơ u ẩn như một thiền sư Phương Đông. Ḿnh thích thơ Saint-John-Perse, thơ ông này có kiến trúc nguy nga và ào ạt như sóng trào. Ḿnh thích Andre Breton, nhưng chỉ thích phần lư luận thơ ca của ông này, chứ không thích thơ mấy. Ḿnh thích…” Tôi nghe như nuốt từng lời của ông. Người làm thơ vẫn thường học nhau, lớp trước truyền cho lớp sau những thu nhận và suy ngẫm, những tri thức và sự từng trải. Tôi đă học được ở Tế Hanh, Xuân Diệu, Văn Cao…rất nhiều.Uyên bác như thế, nhưng Tế Hanh làm thơ rất thật thà và hồn nhiên. Ông vẫn là ông, cho tới cuối đời.
nhớ con sông quê hương
Nếu nhiều năm qua, trong bệnh tật, vẫn c̣n một cái ǵ đó trong Tế Hanh, cái đó tôi nghĩ chính là ḍng sông quê hương ông. Trong lần làm phim chân dung Ông năm 1997, chúng tôi đă có dịp cùng Tế Hanh về quê B́nh Dương của ông: “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông/”. Hai câu thơ đă nói lên hết cái “lư lịch” của làng Đông Yên quê Tế Hanh. Trong lần về quê ấy, cũng nhờ yêu cầu của đạo diễn mà chúng tôi được cùng Tế Hanh đi thuyền trên ḍng sông Trà Bồng đoạn chảy qua B́nh Dương quê ông. Dạo ấy vẫn c̣n những chiếc cầu tre bắc ngang sông, và tôi ít thấy một ḍng sông nào nước xanh trong đến thế! Chúng tôi như mê đi trong cái mát mẻ của ḍng sông, của những “bờ tre ríu rít tiếng chim kêu”, của những “mặt nước chập chờn con cá nhảy”…Ḍng sông bỗng trở nên đẹp hơn, lung linh huyền ảo hơn kể từ khi có bài thơ Nhớ con sông quê hương của đứa con ḍng sông ấy. Ḍng sông chính là quê hương, chính là người Mẹ của Tế Hanh, và Ông đă để hết tâm hồn và t́nh cảm của ḿnh vào bài thơ đă và sẽ sống măi cùng ḍng sông quê hương ông.
“Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
H́nh ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, ḷng tôi như suối tưới…”
Ra đi từ ḍng sông và trở về với ḍng sông, thơ Tế Hanh là cuộc chuyện tṛ thầm thỉ không dứt với con sông thân yêu của đời ḿnh. Và chính Ông cũng là một ḍng sông, một ḍng sông b́nh dị và đầy xúc cảm, một ḍng sông biết chắt chiu từng gàu nước ngọt cho những người dân Việt thực thà đôn hậu và không thể sống thiếu một ḍng sông. Nhà thơ như Ông, thực không c̣n ǵ phải ân hận khi cuối cùng được hoá thân vào chính ḍng sông thương thiết nhất đời ḿnh: ḍng sông quê hương.
Quảng Ngăi mùa hạ nước sông xanh
thanh thảo