PHẦN MỘT
*
NHẬP ĐỀ
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG [1]
A – MỤC ĐÍCH
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng là xuất phát từ đời sống xă hội trong đó căn bản là quan hệ sản xuất và sức sản xuất của xă hội. Ư thức là thuộc thượng tầng kiến trúc xây dựng trên cơ sở là chế độ kinh tế của xă hội.
Chúng ta nghiên cứu lịch sử tư tưởng là để cụ thể hóa và chứng minh một cách có hệ thống mệnh đề căn bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên đây, tức là chứng minh rằng tư tưởng của con người xuất phát từ thực tế, và nó có một vai tṛ thiết thực trong đời sống thực tế. Chúng ta không chứng minh mệnh đề đó một cách hoàn toàn khách quan mà sẽ chứng minh trong phạm vi lịch sử của chủ nghĩa duy vật. Phải quan niệm rằng chính chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cũng nằm trong lịch sử tư tưởng. Cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đă kế thừa toàn bộ truyền thống tư tưởng và triết học trước đây, nó tập hợp và tổng kết những thành tích có giá trị của triết học, nâng lên và hệ thống hóa lên một tŕnh độ cao hơn: đó là chủ nghĩa biểu hiện lập trường vô sản cách mạng xuất hiện trong quá tŕnh đấu tranh giai cấp lịch sử.
Trên đây là mục đích của môn lịch sử tư tưởng về mặt lư luận. Nhưng, đồng thời môn lịch sử tư tưởng cũng c̣n có một tác dụng nữa là: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đă biến thành một công cụ tinh thần được áp dụng hàng ngày; những khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đă biến thành thực tiễn trong xă hội ta. Để nắm vững được những khái niệm ấy, đặc biệt là để nắm vững nội dung giai cấp và xă hội của nó, ta cần phải t́m nội dung ấy trong quá tŕnh phát triển lịch sử của nó, trong nguồn gốc lịch sử của nó. V́ rằng những khái niệm mà nay đă thành những khái niệm phụ thuộc, chỉ nhằm những điểm cục bộ th́ chính trước kia nó vốn là toàn bộ, là những hệ thống tư tưởng. Ví dụ: trước kia có tôn giáo - tôn giáo ngày xưa là toàn bộ đời sống, là hệ thống tư tưởng thống trị toàn bộ xă hội loài người - mà nay th́ nó lại là di tích trong ư thức cá nhân, nó quyết định một vài nét tư tưởng cục bộ như bệnh sùng bái cá nhân. Nếu chỉ xét đến những nét cục bộ ấy, chúng ta sẽ khó mà nắm được giai đoạn vĩ đại của nó. Mà có nắm được như vậy ta mới nắm được nội dung tâm lư hiện tại một cách rơ ràng hơn.
Trong lịch sử tư tưởng, những h́nh thái cũ được kéo dài đến nay, qua từng giai đoạn một, nó đă tiếp thu những nội dung mới nhưng không v́ thế mà nội dung cũ đă bị mất hẳn, trái lại nó vẫn kéo dài trong h́nh thức - h́nh thức ấy vẫn qui định tính chất tương đối độc lập của mỗi bộ phận tư tưởng.
Tóm lại, chúng ta nghiên cứu lịch sử tư tưởng không phải v́ óc ṭ ṃ, để biết xem xưa kia người ta đă sai lầm ra sao? Trái lại, chúng ta nghiên cứu nó là để soi sáng những vấn đề hiện tại - để soi sáng những khái niệm lư luận dùng trong hiện tại (v́ chính nội dung của lư luận cũng chỉ là nội dung tổng kết của lịch sử loài người) và để t́m hiểu những vấn đề thực tiễn, v́ chính trong thực tiễn ta phải sử dụng lư luận mà ư nghĩa của nó chỉ có thể soi sáng được qua lịch sử. Xét tính chất toàn bộ và hệ thống của những khái niệm xem xưa kia nó như thế nào mà nay đă thành cục bộ và phụ thuộc - tức là xét đến nội dung của lịch sử tư tưởng.
B - NỘI DUNG CỦA LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
Tư tưởng nói đây không phải là tư tưởng cá nhân. Nó là tư tưởng của xă hội, tư tưởng ấy qui định nội dung tâm lư cá nhân. Trước khi nói đến nội dung của bộ phận tư tưởng trong thượng tầng kiến trúc là ǵ, cần phải nêu ra đây một vấn đề như sau:
Trong quyển «Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn ngữ học» có mấy mệnh đề qui định rằng thượng tầng kiến trúc xây dựng trên cơ sở kinh tế, có tác dụng bảo vệ cơ sở - khi cơ sở cũ bị thủ tiêu và xă hội chuyển sang một chế độ khác th́ thượng tầng kiến trúc cũ cũng bị thủ tiêu và nhường chỗ cho một thượng tầng kiến trúc mới. Do đó, những yếu tố không bị thủ tiêu như ngôn ngữ th́ không thuộc thượng tầng kiến trúc. Quan điểm đó đă gây nên nhiều tranh luận và khó khăn trong môn lịch sử tư tưởng – v́ cũng chính trong quyển sách trên của Xtalin có định nghĩa: thượng tầng kiến trúc là những tổ chức và quan điểm về chính trị, pháp lư, nghệ thuật, tôn giáo, triết học, v. v...
Quan niệm đó làm cho người ta không hiểu cái gia tài triết học, văn hóa nói chung của các thời đại cũ c̣n để lại những giá trị ǵ? Và môn lịch sử tư tưởng sẽ c̣n tác dụng ǵ một khi nội dung đă bị thư tiêu? Ở Liên Xô đă tranh luận nhiều về vấn đề đó. Bây giờ [2] người ta không thừa nhận mệnh đề do Xtalin tổng kết đó nữa. V́ chính Mác cũng chỉ nói thượng tầng kiến trúc lay chuyển, chứ không nói «thủ tiêu» lúc hạ tầng biến đổi. Theo quan niệm hiện nay th́ toàn bộ hệ thống tổ chức và tư tưởng xây dựng trên cơ sở kinh tế đều thuộc thượng tầng kiến trúc. Nhưng trong thượng tầng kiến trúc có mâu thuẫn. Có bộ phận thủ tiêu, có bộ phận th́ không, lúc hạ tầng thay đổi. Thượng tầng kiến trúc không bảo vệ cơ sở một cách đơn thuần, mà nó phản ánh mâu thuẫn thực tế của cơ sở kinh tế. Ví dụ thượng tầng kiến trúc của xă hội tư sản không bảo vệ chế độ tư sản một cách đơn thuần mà phản ánh mâu thuẫn của cơ sở kinh tế tư sản, do đó mà tư sản mới chuyển sang xă hội chủ nghĩa được. Tư tưởng tiến bộ của xă hội cộng sản là tư tưởng Mác - Lê, đă xuất hiện trong xă hội tư sản mà sau này thành tư tưởng thống trị. Trong thượng tầng kiến trúc, cũng có những bộ phận không trực tiếp đấu tranh, nhưng làm công cụ đấu tranh - có thể cho cả hai bên hoặc chủ yếu cho một bên - như ngôn ngữ. Trong đấu tranh dân tộc, ngôn ngữ dân tộc là công cụ đấu tranh của nhân dân nhiều hơn là của giai cấp thống trị phản dân tộc, tuy rằng giai cấp thống trị vẫn dùng ngôn ngữ, nhưng đối với chúng, công cụ ngôn ngữ ít tác dụng hơn. V́ thế mà đấu tranh dân tộc cũng là đấu tranh để phát triển ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ cũng có phản ánh một nội dung giai cấp nào đấy tuy nó không trực tiếp đấu tranh.
Mệnh đề bảo rằng: thượng tầng kiến trúc bảo vệ cơ sở - không bảo vệ th́ không phải thượng tầng kiến trúc, cũng rất máy móc - v́ nó không phát hiện mâu thuẫn nội bộ trong các cơ sở được phản ánh lên thượng tầng kiến trúc: một bộ phận bảo vệ cơ sở, một bộ phận chống lại cơ sở. Ta phải phân biệt thượng tầng kiến trúc gồm những tổ chức và tư tưởng của giai cấp thống trị (như giữa giai cấp tư sản) với thượng tầng kiến trúc trong toàn bộ xă hội tư sản. Ví dụ chủ nghĩa Mác đă phát sinh và phát triển trong giai đoạn tư sản, mặc dù bộ phận tư sản là thống trị trên cơ sở quan hệ sản xuất tư sản. Trong «Ư thức hệ Đức» của Mác và Enghen, có nói tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị. Một sai lầm lớn là cho rằng mỗi thời đại chỉ có tư tưởng của giai cấp thống trị. Trên thực tế c̣n có tư tưởng của giai cấp bị trị.
Trong sự chuyển biến từ một chế độ này sang một chế độ cao hơn, ư thức tư tưởng cũ với bộ phận thống trị của nó, xét về toàn bộ th́ hệ thống toàn bộ ấy không c̣n nữa, nhưng xét về cục bộ th́ có phần bị thủ tiêu, có phần không, thậm chí có phần được phát triển cao hơn nữa. Phần bị thủ tiêu là tổ chức và tư tưởng của giai cấp thống trị cũ phần nào mà không thể dung túng được trong xă hội mới, như tính chất thống trị nắm chính quyền của giai cấp thống trị cũ. Nhưng không phải toàn bộ tư tưởng bị thủ tiêu, trái lại nó có thể kéo dài những phần nào không trực tiếp đối kháng với chế độ mới. Ví dụ: tôn giáo xuất hiện từ cổ đại, vẫn kéo dài tồn tại qua các chế độ và cả đến trong xă hội xă hội chủ nghĩa. Từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, phần nào nó đă mất tính chất thống trị của nó. Nói chung, trong xă hội tư sản, tôn giáo không được công nhận trong bộ phận thống trị - không thuộc bộ phận Nhà nước. Ở chế độ phong kiến, th́ tôn giáo được công nhận là một bộ phận của Nhà nước; khi chuyển sang chế độ tư sản, nó có nội dung mới là bảo vệ tư sản, do đó nội dung tư tưởng của nó cũng có thay đổi phần nào. Ví dụ: nó tiếp thu phần nào đấy thành tựu khoa học tự nhiên - có đề cao lư tính phần nào. Đến xă hội chủ nghĩa, tôn giáo không c̣n trong bộ phận Nhà nước, cũng không c̣n trong tư tưởng được công nhận là đúng đắn nữa, nhưng nó vẫn kéo dài. Nó có quyền sống, quyền hành động, thậm chí quyền giáo dục nội bộ... V́ thế mà cuộc đấu tranh tư tưởng vẫn kéo dài trong lĩnh vực tư tưởng, tuy trong thực tế cuộc đấu tranh giai cấp đă kết thúc. Nó kéo dài không những trong thượng tầng kiến trúc của xă hội, mà c̣n kéo dài hơn nữa trong tâm lư cá nhân. Ví dụ bệnh sùng bái cá nhân. Trên đây là nói về bộ phận lạc hậu.
Ngoài ra, c̣n có bộ phận không phải là lạc hậu nhưng cũng không phải đặc biệt tiến bộ như ngôn ngữ, như cả một tài sản khái niệm chung về luận lư, về nghệ thuật, khoa học, triết học, v. v... xưa là toàn bộ nay không phải toàn bộ nữa nhưng ta vẫn dùng trong đời sống hàng ngày. Những cái đó không thể bị thủ tiêu, cũng như những cái thuộc phong tục, tập quán đều c̣n dư lại.
Bên cạnh bộ phận trên c̣n có bộ phận tiến bộ nhiều hay ít.
Thực ra, quan niệm sai lầm trên không phải chỉ do Xtalin mà thực tế Xtalin chỉ là người tổng kết thành lư luận một hướng của tư tưởng cũ đă phát triển nhiều ở Liên Xô trước đó. Xu hướng đánh giá dĩ văng một cách khá nghiêm khắc phát triển nhiều trong thời kỳ từ 1947 đến 1951 - 1952. Mệnh đề sai lầm của Xtalin có liên quan đến cái hướng mà Xtalin đă hệ thống hóa từ 1937: càng tiến lên xă hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp càng gay go, quyết liệt. Do đó cũng phải thủ tiêu di tích của chế độ cũ. Hướng do Xtalin tổng kết trên đă dẫn tới thái độ hẹp ḥi, bè phái. Hiện nay, hướng mới ở Liên Xô là trở lại với những ư kiến đă được tŕnh bày trong những đoạn kinh điển của Mác - Enghen là: khi cơ sở thay đổi, thượng tầng kiến trúc sớm hay muộn phải lay chuyển.
Xuất phát từ hướng này, ta quan niệm nội dung lịch sử tư tưởng như thế nào?
Nghiên cứu tư tưởng sử là phải phân biệt cái ǵ có giá trị, cái ǵ không, cái ǵ liên quan với di tích lạc hậu trong một bộ phận lạc hậu của xă hội hay trong tâm lư cá nhân, cái ǵ có tính chất tiến bộ tuy phát sinh trong giai đoạn trước, nhưng cần phát triển hơn nữa trong hiện tại. Trong mỗi một giai đoạn tư tưởng, không có phân biệt rơ ràng, đơn thuần, nên việc nghiên cứu không phải dễ dàng. Thực tế là trong mỗi tác phẩm, có hai phần. Mà ngay trong một tư tưởng cũng có hai phần: tiến bộ và lạc hậu. Mà bộ phận tiến bộ cũng phải chịu ảnh hưởng của tư tưởng thống trị - của giai cấp bóc lột. Thậm chí ngay trong bộ phận tư tưởng thống trị cũng có cái hạt nhân vốn không phải là lạc hậu. Ví dụ: khái niệm tự do của tư sản; một khi giai cấp tư sản đă cầm chính quyền th́ khái niệm đó đóng một vai tṛ bảo thủ, lạc hậu và phản động, nhưng trong giai đoạn tư sản đang lên th́ khái niệm đó đă đóng một vai tṛ tiến bộ nhất định. Như thế chứng tỏ khái niệm đó có một hạt nhân không phải là phản động. Bằng chứng là đến xă hội xă hội chủ nghĩa, về phần của giai cấp tư sản có bộ phận không những tồn tại mà c̣n phát triển. Ví dụ: chế độ bầu cử. Trong khi tư sản đang lên, bầu cử là tiến bộ, đến giai đoạn sau th́ thành lạc hậu, có nội dung phản động, nhưng bản chất nó không phải là phản động. Đến xă hội xă hội chủ nghĩa, chế độ bầu cử không những không bị thủ tiêu mà trái lại được phát triển, mở rộng, có được một tính chất tiến bộ hơn. Xét vấn đề trong phạm vi tư tưởng lại càng khó. Ví dụ: tư tưởng tự do cá nhân, tự do ngôn luận... đă đóng vai tṛ tiến bộ trong giai đoạn tư sản đang lên, nhưng nó lại có tính chất lừa bịp trong giai đoạn tư sản đă cầm quyền; đến xă hội xă hội chủ nghĩa, pháp lư xă hội chủ nghĩa không thủ tiêu nó mà c̣n bảo vệ, củng cố nó. Nhất là từ sau Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô tới nay, vấn đề đó lại càng được thấy rơ hơn. Xă hội ta càng tiến th́ chế độ pháp trị càng được quy định rơ hơn đế bảo vệ quyền tự do cá nhân. Xét vấn đề tự do của giai cấp tư sản lúc đang lên mà văn hóa tư sản đă đề cao không phải là dễ dàng. V́ thế ta phải đi sâu hơn vào lịch sử tư tưởng, nghĩa là phải trở lại những giai đoạn xa hơn, v́ ở những giai đoạn đó những h́nh thái tư tưởng ấy c̣n tương đối đơn giản hơn. Cái mà sau này thành những nét phức tạp, cục bộ th́ trước kia là cả một hệ thống, là toàn bộ. Ta có thể nghiên cứu trên những việc lớn. Ví dụ: tư tưởng sùng bái cá nhân là kế thừa cả dĩ văng tôn giáo. Nhưng phải phân tích nội dung nhân dân của nó, v́ có nội dung nhân dân th́ trước đây nó mới phát triển được. V́ thế, nếu phân tích trong tôn giáo hồi xưa th́ tương đối dễ thấy hơn, v́ trong tôn giáo có nội dung bảo vệ giai cấp thống trị, nhưng đồng thời có những nội dung tuy là duy tâm mà vẫn phản ánh đ̣i hỏi của nhân dân, v́ có thế nó mới được nhân dân duy tŕ hai mươi thế kỷ nay; dù nó phản ánh một cách lộn ngược, nhưng nhân dân có thấy ḿnh trong đó.
Nguyên lư chung mà ta sẽ dựa vào để phân tích cái ǵ có giá trị, cái ǵ không giá trị là: đặt mọi giá trị tinh thần trong công cuộc lao động và đấu tranh của nhân dân. Cái ǵ phản ánh đúng đắn công cuộc đó đều có giá trị. Ở mỗi giai đoạn lao động của nhân dân càng có tính chất tập thể th́ lư tưởng nhân đạo càng ngày càng rộng răi. Trong bất cứ giai đoạn nào, những h́nh thái đấu tranh của nhân dân cũng có nội dung đạo đức chân chính, v́ nội dung đó phản ánh, bảo vệ những h́nh thức tập thể do công cuộc lao động sản xuất của nhân dân xây dựng nên. Tất cả những giá trị ấy đă xây dựng đời sống tập thể và tư tưởng cá nhân trong đời sống xă hội. Vi thế mà nó có giá trị.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng là nghiên cứu những giá trị dĩ văng. Ví dụ: khai thác trong văn học những giá trị nhân đạo là khai thác những cái nhân dân đă sáng tạo và xây dựng trong xă hội trước, mặc dù xây dựng một cách cục bộ, v́ bị ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, bị tha hóa thành giá trị tôn giáo, thành triết học duy tâm. Nhưng cũng không phải v́ thế mà mất hết giá trị. Xét công tŕnh kiến trúc thời cổ đại, ta thấy nó đều biện hộ cho chính quyền áp bức bóc lột của quân chủ chủ nô, nhưng nay không phải v́ thế mà ta phá hủy cả những công tŕnh kiến trúc đó. Nguyên nhân làm ta không những giữ lại những công tŕnh đó mà c̣n nghiên cứu nó chu đáo, tất nhiên không phải chỉ v́ trong thực tế khách quan, những công tŕnh ấy là của nhân dân lao động làm nên, mà, trong h́nh thức c̣n lại, nhất định nó cũng phản ánh tập thể lao động hồi trước. Đó là cái giá trị c̣n tồn tại trong hiện tại và được hiện tại thông cảm. H́nh thức đó trước là của cả xă hội, nay chỉ là những nét cục bộ được sử dụng. Những nét ấy có giá trị cá biệt của nó không thể nào thay thế được. Giá trị cá biệt ấy do chỗ trước kia nó phản ánh cả hệ thống, nên nay nó cũng nhắc lại cho ta cả hệ thống ấy. Nếu đi vào vấn đề tư tưởng th́ trong hệ thống tư tưởng của xă.hội cũ, tư tưởng thống trị là tư tưởng tha hóa, nó phản ánh quyền lợi của giai cấp thống trị, đặc biệt phản ánh quyền tuyệt đối của quân chủ độc đoán thống trị trong chế độ quân chủ chủ nô. Nhưng trong nội dung tư tưởng của ông thần ấy nhất định có những giá trị khác. Nhờ những giá trị ấy, nó mới được nhân dân ủng hộ, tha thiết. Sở dĩ, ông thần, tôn giáo «sống được» tới ngày nay v́ nó lôi cuốn được ḷng thành của bao nhiêu giáo đồ.
Cái mà ta c̣n thưởng thức trong những công tŕnh nghệ thuật cũ là ḷng tin tưởng tôn giáo đă được thể hiện trong h́nh thái nghệ thuật - nhưng lúc trước là h́nh thái xă hội của nhân dân. Không có cái đó, nó sẽ không thể lôi cuốn được nhân dân. Cụ thể là tất cả những giá trị sau này biến thành những giá trị cụ thể hàng ngày, ngày xưa đă xuất hiện dưới h́nh thức tôn giáo. Sở dĩ trong tôn giáo đă xuất hiện được những giá trị sau này được công nhận là chân chính tuy lúc bấy giờ bị lạc hướng, bị biến thành công cụ bóc lột, nó phải có nguồn gốc nào đó trong lao động đấu tranh của nhân dân. Nghiên cứu lịch sử tôn giáo, ta sẽ thấy rơ. Đến một giai đoạn nào đó, đặc biệt là đến giai đoạn phát triển hàng hóa, ngay ở thời cổ đại đă có những hướng mới phản ánh quyền lợi của nhân dân một cách trực tiếp chứ không gián tiếp như trong h́nh thái tôn giáo nữa, nghĩa là với sự phát triển hàng hóa trong thời cổ đại, đă xuất hiện tư tưởng khoa học trên đó tư tưởng duy vật, thế giới quan khoa học đă xuất hiện để đấu tranh trực tiếp chống tôn giáo, nó phản ánh trực tiếp cuộc đấu tranh xă hội. Đó là giá trị chân chính mà nay ta phát triển. Giá trị ấy trong h́nh thái cũ là trừu tượng, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật trong xă hội cũ xuất hiện dưới h́nh thức duy vật máy móc, nói chung không thể thoát khỏi tŕnh độ ấy. V́ sao chăng nữa trong xă hội cũ nó cũng phản ánh quyền lợi giai cấp bóc lột mà đă có một thời tiến bộ, cụ thể là phản ánh quyền lợi tầng lớp công thương nói chung. Chủ nghĩa duy vậy máy móc phản ánh trong xă hội cũ quyền lợi của tầng lớp công thương, sau là giai cấp tư sản. Nó là tư tưởng đấu tranh chống tha hóa bằng tôn giáo của xă hội. Do đó nó là nguồn gốc, cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng một phần nào đó. Chủ nghĩa duy vật của tư sản có phần hữu hạn của nó là tư sản, nhưng có phần chân chính là duy vật, căn bản không xuất phát từ quyền lợi tư sản mà xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, từ chỗ một phần nào giai cấp tư sản trong một giai đoạn nào đó, đă đi cùng với quyền lợi của nhân dân. Triết học duy vật trực tiếp xuất phát từ công cuộc đấu tranh chống tôn giáo, nó đă xuất hiện th́ cũng xuất hiện một loạt chủ nghĩa duy tâm có liên quan với tôn giáo nhưng không trực tiếp. Những chủ nghĩa duy tâm đó có tính chất duy lư. Những triết lư đó có giá trị không? Nghiên cứu nó với thái độ nào? Cho nó là hoàn toàn phản động hay có phần nào giá trị?
Ta phải nghiên cứu triết học duy tâm với tinh thần phê phán, cũng như khi nghiên cứu chủ nghĩa duy vật máy móc cũng phải với tinh thần phê phán. Nhưng có phải phê phán tuyệt đối không? Tất nhiên triết học duy tâm có phản ánh phần bảo vệ quyền lợi thống trị, nhưng trong h́nh thức duy tâm ấy cũng phải có một nội dung chân chính nào đó, có thế nó mới xứng đáng là một nội dung triết học, có thế nó mới đấu tranh tương đối thành công với một giới hạn nào đó chống lại chủ nghĩa duy vật máy móc. Cũng như trong tôn giáo, những yêu cầu chính đáng của nhân dân (yêu cầu công lư, bác ái, nhân đạo) đă bị xuyên tạc và bị tha hóa, bị lộn ngược, độc quyền hóa, tập trung vào một ông thần, nhưng thực sự có được phản ánh và bảo vệ một phần nhỏ nào đó nên mới lôi kéo được nhân dân. Trong triết học duy tâm, những yêu cầu mới, đặc biệt là những yêu cầu khoa học, lư tính cũng đă được phản ánh một phần nào. V́ thế ta không thể lẫn lộn triết học duy tâm với tôn giáo. Triết học duy tâm căn bản có tính chất duy lư, có nội dung khoa học nhưng bị đảo lộn. Nội dung đó xuất phát từ lao động đấu tranh từ h́nh thái mới của xă hội. Thí dụ rơ nhất là triết học Hêghen. Triết học Hêghen là h́nh thức duy tâm triệt để nhất, nhưng đồng thời lại có nội dung duy lư (mà nội dung duy lư căn bản là duy vật) phong phú nhất. Khi phê phán những chủ nghĩa cũ, đứng về phương diện giá trị chân chính nhất định phải là nội dung, phần bất chính nhất định phải là phần h́nh thức. Tinh thần thủ tiêu giá trị cũ dẫn ta tới quan niệm cho rằng nội dung là bất chính. Nhưng nếu chỉ giữ phần h́nh thức th́ hỏi rằng h́nh thức đó ở đâu ra? Giữ nó làm ǵ? Nhất định h́nh thức không thể tự nó xuất hiện được, có giá trị đơn độc được. Nhất định nó phải có nội dung, có thế mới giữ lại được nó. Trong công cuộc xây dựng bây giờ, nội dung cũ chỉ c̣n là h́nh thức. Nói thế là đúng. Ví dụ: h́nh thức dân tộc trong văn nghệ. Nhưng đứng về phương diện lịch sử, muốn t́m hiểu h́nh thức đó, nhất định ta phải đi sâu vào nội dung lịch sử của nó ngày xưa đă phát triển thành h́nh thức đó. Nội dung lịch sử đó chính là phản ánh công cuộc lao động đấu tranh của nhân dân. Ví dụ: h́nh thức dân tộc không phải chỉ là h́nh thức thuần túy mà nó có nội dung lịch sử của nó là công cuộc lao động đấu tranh của nhân dân trong lịch sử. H́nh thức tôn giáo, quân chủ phong kiến, v. v... chỉ là h́nh thức thôi. Nhưng nếu xét về mặt lịch sử, nội dung lịch sử của nó là có dựa vào nhân dân lúc đó và nay mới thành h́nh thức. Văn nghệ ta hiện nay, h́nh thức là dân tộc, nội dung là xă hội chủ nghĩa, nhưng đứng về mặt lịch sử, h́nh thức đó là nội dung thực tế của dĩ văng. V́ thế mà h́nh thức dân tộc được đề cao.
*
PHỤ LỤC
.LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
1) Khoa học và thượng tầng kiến trúc. Những định luật khoa học luôn luôn đúng trong mọi xă hội khác nhau, nhưng như thế không có nghĩa là khoa học không thuộc thượng tầng kiến trúc. V́ tuy nội dung khoa học luôn luôn đúng, nhưng trong mỗi xă hội, những cách hiểu nội dung đó khác nhau: nó có thể máy móc, duy tâm, v. v... Do đó, từ những qui luật cá biệt đến những hệ thống khoa học, phần nguyên lư, quan niệm đều thay đổi. Nó chỉ không thay đổi trong phạm vi thực tiễn. Cho nên khoa học tự nhiên thuộc thượng tầng kiến trúc, nhưng nó giữ được phần chân chính của nó rơ hơn các bộ phận khác trong khi biến chuyển; khoa học xă hội cũ cũng có phần chân chính giữ lại trong khi tiến triển, nhưng phần ấy không rơ bằng trong khoa học tự nhiên. Ví dụ như chủ nghĩa Mác giữ lại phần chân chính trong kinh tế học tư sản Anh, chủ nghĩa xă hội không tưởng và triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Hêghen.
2) Thượng tầng kiến trúc là một bộ phận của xă hội, nên những cái ǵ không thuộc xă hội là không thuộc thượng tầng kiến trúc. Cụ thể là tâm lư cá nhân. Nó biện chính sự tồn tại của môn tâm lư học phân biệt với sinh vật học và xă hội học. Tuy nhiên, người ta muốn phủ định tâm lư học nhưng nó vẫn c̣n, dù là nghèo nàn và chưa ai qui định được rơ nội dung. Vấn đề đặt ra là: «Sự tồn tại của tâm hồn không được công nhận nữa th́ c̣n lại cái ǵ là tâm lư cá nhân»? Có thể rằng đặc tính tâm lư cá nhân là h́nh thức tư tưởng do dĩ văng để lại. Nội dung ư thức cá nhân là nội dung xă hội, nhưng không thể phủ nhận tính chất cá nhân của nó, v́ mỗi người tiếp thu nội dung xă hội và thể hiện nó một cách khác nhau, dù họ có ở cùng một giai cấp. Cách tiếp thu và thể hiện ấy phần nào không phải là sinh lư hay ư thức tư tưởng xă hội th́ tất phải có tiểu sử cá nhân. Tiểu sử đó với những đột biến trong quá tŕnh phát triển cá nhân tạo thành một cơ cấu đặc biệt (cách tiếp thu đặc biệt những nội dung xă hội), và chính cái này biện chính cho tâm lư học.
3) Sùng bái cá nhân. Nếu không có cơ sở xă hội, dù có phổ biến th́ vẫn là bệnh của cá nhân. Nếu là bệnh th́ nó cũng có một lư do lịch sử xă hội, tức là nó có một dĩ văng lịch sử là tôn giáo mà ngày xưa là thượng tầng kiến trúc, nhưng khi chuyển sang xă hội xă hội chủ nghĩa th́ nó chỉ là những nét tâm lư cá nhân thôi. Nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô xem nó như một bệnh phổ biến của tâm lư cá nhân được những lư do lịch sử làm cơ sở phát triển.
4) Nếu quan niệm thượng tầng kiến trúc một cách rộng răi th́ mở ra một phạm vi nghiên cứu mênh mông mà có thể nói bây giờ chúng ta mới bắt đầu bước vào. Để nghiên cứu nó, có thể vận dụng ba khái niệm để phân tích những mâu thuẫn và chuyển biến của thượng tầng kiến trúc qua các giai đoạn xă hội: h́nh thức, nội dung lịch sử và nội dung hiện tại.
H́nh thức là cái qui định tính chất tương đối độc lập của mọi bộ phận. Nếu chỉ nắm nội dung hiện tại th́ chúng ta sẽ đánh đồng loạt mọi bộ phận của thượng tầng kiến trúc. Không thể phân biệt chính trị, triết học v. v... v́ trước những câu hỏi: của ai? cho ai? chống ai? v. v... th́ tất nhiên phải trả lời đồng loạt. Cùng một mục đích, lập trường tư tưởng, nhưng mỗi bộ phận có tính chất tương đối độc lập do ở h́nh thức. Như thế có sa vào h́nh thức chủ nghĩa không?
Kinh nghiệm cho biết rằng không phân biệt các bộ phận th́ không thể xây dựng được thành tích. Nhưng tại sao h́nh thức lại làm cho mỗi bộ phận có một hệ thống riêng tương đối độc lập của nó, ví dụ văn nghệ có một hệ thống cảm tính, lư tính riêng khác chính trị, triết học. v. v... Sao h́nh thức lại đóng vai tṛ phân biệt ấy?
- V́ nó có một nội dung, không phải nội dung đồng loạt hiện tại mà là nội dung dĩ văng khác nhau. Ví dụ h́nh thức dân tộc là h́nh thức, nhưng nó có một nội dung lịch sử. Lịch sử ấy đă để lại một cơ cấu đặc biệt của h́nh thức dân tộc: ví dụ h́nh thức dân tộc của một dân tộc trải qua một chế độ phong kiến nặng nề, th́ h́nh thức đó cũng thông qua xă hội phong kiến trong đó nhân dân trải qua một quá tŕnh đấu tranh chống phong kiến lâu dài. Nội dung dĩ văng của h́nh thức là quá tŕnh lao động đấu tranh của nhân dân trong những điều kiện nhất định. Sở dĩ bây giờ ta phân biệt được các bộ phận là v́ nó đă phân biệt trong dĩ văng do nội dung lịch sử khác nhau. Nội dung lịch sử ấy trong dĩ văng có thể có một h́nh thức khác với h́nh thức hiện nay, nhưng chính nó lại qui định h́nh thức hiện nay. Ví dụ: ngày xưa lúc xây dựng nhà thờ hay cung điện, mục đích là để thờ một ông thần hay tôn sùng một ông vua. Bây giờ chúng ta thưởng thức, nhưng thực ra chúng ta thưởng thức cái ǵ? Không phải thuần túy những khối, những nét, v. v... mà là t́nh cảm nồng nhiệt mà người xưa đă đặt vào ông thần, vào tôn giáo với nội dung chân chính của nó, tức là sức sáng tạo, nguyện vọng của nhân dân. Chúng ta thưởng thức phần chân chính của cái nội dung lịch sử ấy, dù nó bị lộn ngược nhưng hiểu với tư tưởng hiện nay, với h́nh thức nghệ thuật chứ không với tính chất tôn giáo. Ví dụ h́nh thức gothique cao vọt mà lại đóng phía trên, trong dĩ văng đă làm con người thấy phấn khởi trong mênh mông của Thượng đế. Do là h́nh thức tôn giáo trong dĩ văng. Nhưng thực ra bấy giờ nhân dân phấn khởi không phải ở chỗ đóng lại mà ở cái chiều cao vọt lên, thể hiện sức phát triển của nhân dân bấy giờ dù dưới chế độ áp bức bóc lột. Bây giờ chúng ta thưởng thức sức phát triển ấy trong h́nh thức vươn lên của những cột và cung gothique ấy. Chính nội dung ấy đă phân biệt h́nh thức nghệ thuật này thành một công tŕnh kiến trúc có một giá trị riêng biệt không thể thay thế được, giá trị ấy là ở quá tŕnh lịch sử đă xây dựng ra nó với những qui luật riêng của nó, nên có tính chất tương đối độc lập.
Khi phân tích nội dung lịch sử, cố nhiên không phải chỉ có nội dung nhân dân mà có cả nội dung của giai cấp thống trị, nhưng cái ta đề cao là nội dung nhân dân của nó, c̣n cái nội dung của giai cấp thống trị trong lịch sử th́ chúng ta chỉ coi là hoàn toàn h́nh thức thôi.
5) Vấn đề h́nh thức và nội dung. Cái h́nh thức ngày nay là ở nội dung trước kia của nó c̣n để lại. Vấn đề đặt ra là: nội dung dĩ văng sao lại qui định h́nh thức ngày nay được?
Lấy nghệ thuật nói chung làm ví dụ, ta thấy: nó có nội dung nhưng phải có h́nh thức cảm tính đặc biệt, khác với triết lư, v. v... Nghệ thuật là một ngành riêng có vốn cũ của nó. Một nội dung nào đấy được diễn tả bằng nghệ thuật th́ được diễn tả qua h́nh tượng chứ không qua khái niệm tổng quát như triết học, qua chủ trương chính sách như chính trị, qua luật lệ như pháp lư. Nghệ thuật có một tính cách tương đối độc lập, v́ nó có một nội dung dĩ văng qui định một cái vốn h́nh tượng bây giờ. H́nh tượng nghệ thuật mà ngày nay ta dùng không những chỉ là h́nh tượng thu lượm được trong một thời gian ngắn dựa vào những kinh nghiệm thực tế trước mắt, mà c̣n là di sản của toàn bộ gia tài nghệ thuật xưa. Ví dụ một chữ dùng của nhà văn, một nét vẽ của họa sĩ ngày nay... có cả một nội dung dĩ văng, trong đó những chữ, những nét ấy đă được dùng để diễn tả một số điển h́nh của dĩ văng, nên nó có một nội dung tiềm tàng phong phú.
Nội dung ấy có hai mặt: tiến bộ và lạc hậu . Trong bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào của dĩ văng để lại cũng đều có hai mặt ấy: mặt tiến bộ phản ánh quá tŕnh tiến bộ của lịch sử, công tŕnh đấu tranh lao động sản xuất của nhân dân; mặt lạc hậu lại biện chính, củng cố uy quyền bóc lột của giai cấp thống trị, củng cố tính chất hẹp ḥi của những cơ cấu xă hội cũ. Từ những tác phẩm đầu tiên của nghệ thuật nguyên thủy đă có những h́nh tượng phản ánh hiện thực với tính chất tiến bộ của hiện tượng ấy. Ví dụ: những bức tranh, chạm... đầu tiên đă có giá trị hiện thực, nó diễn tả công tŕnh lao động đấu tranh của nhân dân trong những nét điển h́nh hóa những cảnh tượng của người đi săn, hoặc đến giai đoạn thị tộc trung kỳ - nhất là hạ kỳ - có những h́nh tượng yêu tinh, quỉ ác.. nhưng cũng có giá trị nghệ thuật, v́ nó tượng trưng cho các cuộc chiến tranh lúc đó, có giá trị lịch sử, v́ qua chiến tranh này mới phá vỡ được những ràng buộc hẹp ḥi của chế độ thị tộc. Qua nghệ thuật Cổ đại Đông phương và Hy Lạp, ta thấy những nét tượng thần, những nét của công tŕnh kiến trúc càng ngày càng được hợp lư hóa, có tính chất điều ḥa và thăng bằng, phản ánh công tŕnh tổ chức sản xuất trên một qui mô ngày một rộng lớn và hợp lư trong kinh tế hàng hóa thời cổ đại. Sau cổ đại, nghệ thuật bỏ hướng duy lư trừu tượng, theo hướng nội tâm, v́ quá tŕnh đấu tranh của nhân dân đánh đổ chế độ nô lệ, dần dần xây dựng quyền sống của con người qua thời phong kiến. Và đến thời kỳ tư sản th́ cái được thể hiện trong cố gắng của nghệ thuật là làm nổi bật cá tính của mỗi nhân vật hay mỗi sự vật. Ở thời Trung cổ, hướng nghệ thuật là t́m được giá trị phổ cập trong cá thể, do đó mọi nhân vật có một giá trị phổ cập trong bản thân nó. Nội dung ấy xuất phát từ công tŕnh đấu tranh của nhân dân, từ quá tŕnh phát triển sức sản xuất, mở rộng quan hệ sản xuất. Nội dung ấy là nội dung c̣n lại trong gia tài nghệ thuật, làm cho h́nh thức nghệ thuật cũ c̣n giá trị để ta thưởng thức, và dựa vào đó xây dựng nền nghệ thuật hiện đại phong phú. H́nh thức nghệ thuật cũ có nội dung nhân dân nhưng bị hạn chế; bên cạnh nó lại có nội dung thống trị, thường là qua tôn giáo. Ngày nay ta giữ lại và sử dụng không phải v́ nội dung tôn giáo phản ánh quyền lợi của giai cấp thống trị, mà là giữ lại phần nghệ thuật chân chính với tính chất nhân dân của nó. Trong những tượng cũ có hai mặt: vừa là thần thánh (công cụ tinh thần củng cố quyền thống trị), vừa là nghệ thuật chân chính (lư tưởng đấu tranh của nhân dân, bước đầu là đấu tranh hợp lư hóa điều ḥa sự vật và sự việc, sau đi sâu vào cá thể v́ xây dựng những giá trị phổ cập trong từng cá thể). Có thể trong dĩ văng h́nh thức ấy khác h́nh thức bây giờ. Nó là nghệ thuật tôn giáo, nhưng ta chỉ thưởng thức nó với tính chất nghệ thuật thôi, v́ nội dung nhân dân là ở nghệ thuật chứ không phải là ở tôn giáo. Đây là một vấn đề chung đặt ra trong công tác khai thác vốn nghệ thuật cũ. Có hai nội dung song song. Nhưng phần chủ yếu bây giờ là phần của nhân dân.
Trần Đức Thảo
(Lịch sử Tư tưởng trước Marx, tr. 17-34)